Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Sự thay đổi trong thẩm quyền ban hành của các loại VBQPPL

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (62.83 KB, 10 trang )

Sự thay đổi trong thẩm quyền ban hành của các loại VBQPPL của Luật
ban hành VBQPPL 2008 so với Luật ban hành VBQPPL cũ
A – ĐẶT VẤN ĐỀ
Để tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
( VBQPPL ), đáp ứng yêu cầu xây dựng pháp luật theo chủ trương
xây dựng nhà nước pháp quyền, ngày 03 tháng 06 năm 2008,
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ
họp thứ ba, đã ban hành Luật ban hành VBQPPL mới ( thay thế
Luật ban hành VBQPPL năm 1996, được sửa đổi, bổ sung năm
2002 – từ bây giờ trong bài gọi tắt là Luật ban hành VBQPPL cũ ) có
hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2009. Luật ban hành
VBQPPL 2008 có nhiều sự điều chỉnh và thay đổi cần thiết so với
Luật ban hành VBQPPL cũ. Bài viết dưới đây nhận xét về sự thay
đổi trong thẩm quyền ban hành của các loại VBQPPL của Luật ban
hành VBQPPL 2008 so với Luật ban hành VBQPPL cũ.

B – GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Luật ban hành VBQPPL cũ quy định thẩm quyền về hình thức ở
trong một chương riêng, sau đó ở các chương sau sẽ quy định
phần thẩm quyền về nội dung. Điều đó được thể hiện ngay trong
tên của các chương, điều khoản, điều này làm hạn chế tính liền
mạch trong Luật. Hơn nữa, có nhiều cơ quan được phép ban hành
nhiều loại văn bản, điều này phần nào dẫn đến tình trạng hệ thống
văn bản QPPL phức tạp, khó khăn trong việc theo dõi, đánh giá…
phần nào làm giảm hiệu quả của công tác xây dựng, ban hành văn
bản QPPL.


Luật ban hành VBQPPL 2008 ra đời đã giải quyết được tình trạng
trên. Luật đã quy định thẩm quyền hình thức và thẩm quyền nội
dung ngay trong cùng 1 điều luật, nằm trong chương II. Ngay tên


chương và tên điều đã thể hiện rõ điều đó. Sự thay đổi này vừa tạo
kết cấu logic cho luật và đồng thời thể hiện được rõ nội dung của
Luật. Theo quy định tại Điều 2 của Luật ban hành VBQPPL năm
2008 thì hệ thống VBQPPL ở nước ta hiện nay bao gồm :
- Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
- Pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
- Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.
- Nghị định của Chính phủ.
- Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
- Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao,
Thông tư của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.
- Thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
- Quyết định của Tổng Kiểm toán Nhà nước.
- Nghị quyết liên tịch giữa Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc giữa
Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội.
- Thông tư liên tịch giữa Chánh án Toà án nhân dân tối cao với Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng
cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa các Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ.
- Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban
nhân dân.


Dưới đây xin trình bày những thay đổi về thẩm quyền nội dung và
thẩm quyền hình thức của các chủ thể được quy định trong Luật
ban hành VBQPPL năm 2008 so với Luật ban hành VBQPPL cũ
1 – Giữ nguyên thẩm quyền hình thức và thay đổi 1 phần thẩm
quyền nội dung VBQPPL của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội,

Chủ tịch nước, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân.
a/ Văn bản QPPL do Quốc hội ban hành: Hiến pháp, luật, nghị
quyết của Quốc hội.
Nội dung Luật do Quốc hội ban hành được mở rộng hơn, quy định
thêm về các lĩnh vực tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc,
tôn giáo, văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường,
chế độ công vụ, cán bộ, công chức. Sở dĩ có sự bổ sung này là do
chúng ta đã nhận thức được tầm quan trọng của những vấn đề này
trong đời sống xã hội, phải được quan tâm hơn trong tình hình mới,
và cần thiết nâng lên thành luật. Cùng với đó là việc không còn
cho phép Nghị quyết của Quốc hội được ban hành để quyết định
chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, chính sách dân tộc, tôn giáo,
đối ngoại, quốc phòng, an ninh, đồng thời quy định Nghị quyết của
Quốc hội quy định chế độ làm việc của Đoàn đại biểu Quốc hội.
(Điều 11 Luật ban hành VBQPPL 2008). Trước đây có Quy chế hoạt
động của Đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội do Quốc hội
ban hành ngày 14-7-1993 nhưng không được coi là một loại văn
bản QPPL, do đó việc đưa hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội
vào là nội dung của Nghị quyết Quốc hội là hợp lý, tăng cường
hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật.


b/ Văn bản QPPL do Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) ban
hành: Pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH.
Luật ban hành VBQPPL 2008 đã bỏ đi nội dung “ giám sát việc thi
hành Hiến pháp, văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ
ban thường vụ Quốc hội, giám sát hoạt động của Chính phủ, Toà
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, giám sát hoạt
động của Hội đồng nhân dân ” (Điều 12 Luật ban hành VBQPPL
2008). Vì vào ngày 17-6-2003 tại kì họp thứ 3 Quốc hội khóa XI đã

thông qua Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, do đó sự thay
đổi trên của luật 2008 là hoàn toàn cần thiết, tránh tình trạng
chồng chéo giữa các luật.
c/ Văn bản QPPL do Chủ tịch nước ban hành : Lệnh, quyết định của
Chủ tịch nước.
Thẩm quyền về nội dung văn bản QPPL của Chủ tịch nước đã có sự
thay đổi đáng kể, đó là văn bản QPPL của Chủ tịch nước được ban
hành để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước không
chỉ do Hiến pháp, luật quy định mà còn mở rộng ra do nghị quyết
của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH quy định ( Điều
13 Luật ban hành VBQPPL 2008 ).
d/ Văn bản QPPL của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân
Điều 21 Luật ban hành VBQPPL 2008 quy định rất ngắn gọn:
VBQPPL của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân được ban hành
theo nội dung, thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục quy định tại
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân. Ngày 3/12/2004 Luật ban hành VBQPPL của


Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân đã được Quốc hội thông
qua đã quy định chi tiết về vấn đề này cho nên Luật ban hành
VBQPPL 2008 không cần nhắc lại.
2 – Thay đổi cả thẩm quyền hình thức và thẩm quyền nội dung nội
dung VBQPPL của các VBQPPL của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
a/ Văn bản QPPL của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ
Luật trước đây quy định Chính phủ có quyền ban hành văn bản
QPPL dưới hình thức Nghị quyết, Nghị định; Thủ tướng Chính phủ
ban hành Quyết định, Chỉ thị nhưng tại Điều 14 và 15 Luật ban

hành VBQPPL 2008 quy định Chính phủ chỉ ban hành văn bản QPPL
dưới một hình thức duy nhất là Nghị định; Thủ tướng Chính phủ
ban hành Quyết định.
Do thay đổi về thẩm quyền hình thức dẫn tới sự thay đổi thẩm
quyền nội dung. Chính phủ chỉ được ban hành Nghị định nên phạm
vi điều chỉnh sẽ được mở rộng, “ làm thêm ” cả một phần vai trò
của Nghị quyết trong luật cũ ( chính là khoản 2 tại Điều 14 của
Luật ban hành VBQPPL 2008 : thực hiện chính sách kinh tế, xã hội,
quốc phòng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc,
tôn giáo, văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường,
đối ngoại, chế độ công vụ, cán bộ, công chức, quyền, nghĩa vụ của
công dân và các vấn đề khác thuộc thẩm quyền quản lý, điều hành
của Chính phủ ). Một phần thẩm quyền nội dung của Nghị quyết
của Chính phủ nay được chuyển sang cho các VBQPPL do Quốc hội
và Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành. Quyết định của Thủ


tướng Chính phủ được ban hành để quy định các vấn đề như cũ và
điều chỉnh thêm vấn đề là quy định về biện pháp chỉ đạo, phối hợp
hoạt động của các thành viên Chính phủ; kiểm tra hoạt động của
các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân
dân các cấp trong việc thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật
của Nhà nước. Phần bổ sung này chính là từ phạm vi điều chỉnh
của Chỉ thị chuyển sang, khi nó không còn tồn tại trong luật mới.
b/ Văn bản QPPL của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
Điều 16 Luật ban hành VBQPPL 2008 chỉ cho phép Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ được ban hành Thông tư thay vì được
ban hành Quyết định, chỉ thị, thông tư như trước đây. Đồng thời
phạm vi nội dung của Thông tư do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ ban hành cũng đã được mở rộng thể hiện ở ba khoản

thay vì chỉ có một khoản quy định về nội dung của Thông tư như
trước đây. Trong đó khoản 3 vẫn giữ nguyên, khoản 1 và khoản 2 là
thuộc thẩm quyền của Quyết định trước được nhập vào. Còn thẩm
quyền nội dung của chỉ thị đã được bãi bỏ không đưa vào trong
thông tư ( Khoản 2 điều 58 luật cũ : Chỉ thị của Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ
quy định các biện pháp để chỉ đạo, đôn đốc, phối hợp và kiểm tra
hoạt động của các cơ quan, đơn vị thuộc ngành, lĩnh vực do mình
phụ trách trong việc thực hiện văn bản quy phạm pháp luật của cơ
quan nhà nước cấp trên và của mình ) bởi vì năm 2004 đã ban
hành Luật Thanh tra và tới đây Luật Thanh tra mới có hiệu lực vào
ngày 01 tháng 07 năm 2011.


c/ Văn bản QPPL của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao,
của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao.
Điều 18 Luật ban hành VBQPPL 2008 quy định Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao chỉ
ban hành VBQPPL dưới một hình thức - Thông tư, thay vì Quyết
định, chỉ thị, thông tư như trước và mở rộng thẩm quyền nội dung
“ ban hành để thực hiện việc quản lý các Toà án nhân dân địa
phương và Toà án quân sự về tổ chức ”, “ ban hành để quy định
các biện pháp bảo đảm việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát nhân dân địa phương Viện kiểm sát quân sự ”, sự bổ
sung này để phù hợp với Luật tổ chức của hai cơ quan trên. Ngoài
ra thì Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao vẫn ban hành
Nghị quyết và phạm vi không đổi.
d/ Văn bản QPPL liên tịch
Cả thẩm quyền ban hành VBQPPL liên tịch về hình thức lẫn nội

dung đều được Điều 20 Luật ban hành VBQPPL 2008 quy định lại 1
cách cụ thể :
- Nghị quyết liên tịch giữa Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc giữa
Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội
được ban hành để hướng dẫn thi hành những vấn đề khi pháp luật
quy định về việc tổ chức chính trị - xã hội đó tham gia quản lý nhà
nước. Nếu so với luật cũ quy định tại Điều 73 : “Nghị quyết, thông
tư liên tịch giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ quan
trung ương của tổ chức chính trị - xã hội được ban hành để hướng
dẫn thi hành những vấn đề khi pháp luật quy định về việc tổ chức


chính trị - xã hội đó tham gia quản lý nhà nước ” thì theo Luật ban
hành VBQPPL 2008 đã nêu rõ chỉ được ban hành Nghị quyết liên
tịch và cơ quan có thẩm quyền là Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc
Chính phủ.
- Thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng
cơ quan ngang bộ với Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao được ban hành để hướng
dẫn việc áp dụng thống nhất pháp luật trong hoạt động tố tụng và
những vấn đề khác liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ
quan đó.
- Thông tư liên tịch giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang
bộ được ban hành để hướng dẫn thi hành luật, nghị quyết của
Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội,
lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị định của Chính phủ,
quyết định của Thủ tướng Chính phủ có liên quan đến chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của bộ, cơ quan ngang bộ đó.
Có thể nhận thấy so với luật cũ quy định thẩm quyền ban hành

VBQPPL là giữa các bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ; giữa Toà án nhân dân tối cao với Viện kiểm sát nhân dân tối
cao; giữa Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
với Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thì tại Luật
ban hành VBQPPL 2008 thì thẩm quyền ban hành VBQPPL liên tịch
là giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao; giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao; giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan


ngang bộ - người đứng đầu các cơ quan này. Đây là điểm mới cần
thiết, thể hiện tư duy hợp lý của nhà lập pháp, tạo điều kiện thuận
lợi đển khuyến khích tinh thần trách nhiệm của người đứng đầu
các cơ quan trong việc ban hành văn bản quy phạm liên tịch nhằm
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, góp phần rút ngắn thời gian bàn
bạc, ký kết văn bản và giúp văn bản nhanh chóng đi vào thực tế
3 – Thêm Quyết định của Tổng kiểm toán nhà nước
Điều 19 Luật ban hành VBQPPL 2008 là điều luật được bổ sung
thêm thẩm quyền ban hành văn bản QPPL của Tổng kiểm toán nhà
nước dưới hình thức Quyết định. Hoạt động của Kiểm toán nhà
nước đòi hỏi tính độc lập. sự độc lập về địa vị pháp lý là một trong
những yêu cầu khách quan, đòi hỏi Kiểm toán Nhà nước phải ban
hành văn bản quy phạm pháp luật để đảm bảo cho lĩnh vực kiểm
tra tài chính Nhà nước được thực hiện một cách có hiệu quả. Tổng
kiểm toán Nhà nước là người đứng đầu Kiểm toán Nhà nước, vị trí
của Tổng kiểm toán Nhà nước là hết sức quan trọng. Vì thế, Tổng
kiểm toán Nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm
pháp luật để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình trong quá trình
lãnh đạo Kiểm toán Nhà nước.

C – KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Nhìn chung, việc xây dựng và ban hành Luật ban hành VBQPPL
2008 là một sự đổi mới căn bản về quan điểm, kỹ thuật lập pháp.
Đây là một văn bản luật quan trọng nhằm nâng cao chất lượng
công tác xây dựng, ban hành văn bản QPPL, đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao của việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị và các


cam kết của nước ta khi gia nhập WTO. Việc quy định về thẩm
quyền ban hành văn bản QPPL là một yếu tố quan trọng, góp phần
vào khắc phục tình trạng hệ thống văn bản QPPL phức tạp, quá
nhiều loại văn bản, gây khó khăn khi theo dõi, xác định thứ bậc
hiệu lực của các loại văn bản.



×