Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Phân tích cơ sở thiết lập hình thức chính thể nhà nước quân chủ quý tộc ở Trung Quốc thời Tây Chu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (51.73 KB, 6 trang )

Phân tích cơ sở thiết lập hình thức chính thể nhà nước quân chủ quí
tộc ở Trung Quốc thời Tây Chu
LỜI MỞ ĐẦU
Trung Quốc là một trong bốn trung tâm văn minh lớn của phương Đông cổ đại.
Lịch sử thế giới cổ đại của Trung Quốc kéo dài gần 2000 năm, bắt đầu từ triều Hạ.
Trung Quốc thời cổ đại, dù có thời kì bị phân thành nhiều quốc gia, thì các nước đó
đều là các nước quân chủ. Nhằm góp phần làm rõ và đem lại nhưng hiểu biết sâu
sắc hơn về hình thức chính thể của các nhà nước cổ đại ở Trung Quốc, em xin lựa
chọn đề tài “Phân tích cơ sở thiết lập hình thức chính thể nhà nước quân chủ quí tộc
ở Trung Quốc thời Tây Chu”.
Đây là lần đầu tiên làm bài tập lớn học kì, do điều kiện thời gian cũng như trình độ
am hiểu về vấn đề này còn hạn chế, nên bài viết chắc chắn không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Em kính mong nhận dược những ý kiến phê bình, đánh giá của các
thầy cô giáo để đề tài này được hoàn thiện hơn và đem lại những kinh nghiệm quý
báu cho em trong những lần viết sau. Em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô
giáo trong tổ bộ môn đã giảng giải trong các tiết học và trong các giờ tư vấn để giúp
em hoàn thành tốt bài tập này.
BÀI LÀM
1. Lược sử triều đại Tây Chu (khoảng năm 1066 – 771 TCN).
Chu là một bộ lạc cư trú ở thượng lưu sông Hoàng Hà (vùng Thiểm Tây, Cam Túc
ngày nay). Tương truyền thuỷ tổ của tộc Chu là Khí, vì trồng lúa giỏi nên được gọi
là Hậu Tắc và được tôn làm thần nông nghiệp. Đến cháu mười hai đời của Khí là Cổ
Công Đản Phụ, sự phân hoá giàu nghèảutong bộ lạc Chu đã biểu hiện rất rõ rệt. Vì
bị người Nhung lấn chiếm, Cổ Đông Đản Phụ phải dời bộ lạc mình từ đất Mân về
Thiểm Tây và định cư ở cánh đồng Chu. Tại đây, tộc Chu làm nhà cửa, xây thành


quách, đặt quan lại. Những cuộc chiến tranh với bộ lạc xung quanh đem lại cho tộc
Chu nhiều chiến lợi phẩm và nô lệ càng đẩy nhanh sự phân hoá giai cấp trong bộ
tộc Chu. Đến thời cháu của Cổ Đông Đản Phụ tên là Xương thì nước Chu chính
thức được thành lập, Xương chính là Văn Vương. Văn Vương không ngừng củng cố


và phát triển thế lực của mình, phạm vi thống trị mở rộng đến vùng Trường Giang,
trong khi đó nước Thương đang ngày càng suy yếu. Sau khi Văn Vương mất được
bốn năm, người nối ngôi là Vũ Vương đem quân tiến đánh nước Thương, nhà
Thương diệt vong, vua Trụ nhà Thương hết đường trốn chạy, phải tự tử. Để mua
chuộc quý tộc và cư dân vùng mới bị chinh phục, Vũ Vương phong cho con Trụ là
Vũ Canh một vùng đất cũ của nước Thương và phong cho ba con mình là Quản
Thúc, Thái Thúc và Hoắc Thúc vùng đất bên cạnh để giám sát. Sau đó Vũ Vương
rút về Cảo Kinh ở phía tây, vì vậy thời kì nhà Chu đóng đô ở đây gọi là Tây Chu.
2. Cơ sở kinh tế cho việc thiết lập chính thể quân chủ quý tộc.
a) Các ngành kinh tế.
Nhờ tích luỹ kinh nghiệm lâu đời, nhờ việc quy hoạch đồng ruộng gắn liền với hệ
thống nước tưới, sản xuất nông nghiệp đã có bước phát triển đáng kể. Trên cơ sở ấy,
giai cấp thống trị đã thu được nhiều lương thực chất đầy các kho. Phân tích tình
hình ấy, bài Phú điền trong kinh thi có đoạn:
Thóc của cháu vua
Cao như nóc nhà
Kho của cháu vua
Như gò như núi.


Về thủ công nghiệp, nghề đúc đồng thau và các nghề làm đồ gốm, đồ đá, đồ ngọc,
xương da, gỗ, nghề dệt… đều đạt đến trình độ khá cao. Ở Tây Chu, những nghề thủ
công quan trọng đều do nhà nước trực tiếp quản lí. Thợ thủ công làm việc trong các
nghề đó đều phụ thuộc vào nhà nước. Tuy nền kinh tế Tây Chu lúc bấy giờ mang
nặng tính chất tự nhiên, những nhu cầu trong đời sống hàng ngày của nhân dân đều
dựa vào kinh tế tự cấp tự túc, nhưng để phục vụ cho đời sống giai cấp quý tộc, việc
trao đổi mua bán cũng đã diễn ra trong phạm vi cả nước. Nhiều loại hải sản hoặc
các sản phẩm thủ công sản xuất ở hạ lưu Trường Giang được tiêu thụ tận vùng trung
lưu Hoàng Hà. Tuy tiền tệ đã được sử dụng nhưng hiện tượng lấy vật đổi vật còn rất
phổ biến. Có một tài liệu thời Tây Chu cho biết lúc bấy giờ người ta đã dùng nô lệ

để đổi lấy ngựa và tơ.
b) Chế độ ruộng đất.
Thời Tây Chu, hầu hêt ruộng đất trong cả nước thuộc về sở hữu của nhà vua, công
xã nông thôn tồn tại bền vững và được quyền sở hữu thực tế ruộng đất của vua, việc
phân phong đất cho quý tộc và việc chia ruộng cho nông dân đã trở thành chế độ rất
hoàn chỉnh. Sau khi chinh phục được nước Thương và các bộ tộc nhỏ khác, tất cả
đất đai trong nước đều thuộc quyền sở hữu của vua Chu. Đó là cơ sở và tiềm lực
kinh tế của chế độ quân chủ. Trong Kinh thi, bài Bắc Sơn có câu:
Ở dưới gầm trời
Đâu cũng đất vua
Khắp trên mặt đất
Ai cũng dân vua.
Do quyền sở hữu thuộc về Nhà nước, nên ruộng đất không được mua bán. Ngoài
vùng xung quanh kinh đô mà vua Chu giữ lại cho mình, gọi là Vương kì, đất đai


trong cả nước được phân phong cho anh em, bà con và các công thần của nhà vua.
Khi phong đất còn kèm theo phong chức tước. Tuỳ theo bà con thân hay sơ, công
lao lớn hay nhỏ mà được phong đất rộng hay hẹp, gần hay xa và tước cao hay thấp.
Vua Tương Vương thời Đông Chu nói: “Ngày xưa tiên vương của ta có cả thiên hạ,
giữ lại một vùng đất vuông, mỗi bề ngàn dặm để làm điện phục… Ngoài ra, đếm
chia cho Công, Hầu, Bá, Tử, Nam làm cho mọi người có nhà cửa, để thuận với trời
đất, không gặp phải tai nạn”.
Những người được phong đất và tước trở thành các vua chư hầu của nhà Chu. Vua
chư hầu tuy không có quyền sở hữu hoàn toàn về đất được phong nhưng được
truyền lại cho con cháu. Đối với vua Chu, vua các nước chư hầu có nghĩa vụ hàng
năm phải đến chầu, nộp cống, ngoài ra còn phải đem quân đội đến giúp mỗi khi có
chiến sự xảy ra. Nếu không thi hành đúng những nghĩa vụ đó, thì tuỳ theo mức độ
mà bị giáng chức tước, bị thu hồi đất phong hoặc bị đem quân đến để tiêu diệt.
Ruộng đất trong Vương kì và trong các nước chư hầu lại đem phong cho các quý

tộc quan lại của triều đình nhà Chu và triều đình các nước chư hầu gọi là khanh, đại
phu. Khanh, đại phu lại chia thái ấp cho những người giúp việc của mình gọi là sĩ.
Khanh, đại phu và sĩ được hưởng số thuế của phần ruộng đất được chia, nhưng khi
thôi việc, phải trả lại số ruộng đất ấy. Cuối cùng, trong các làng xã, ruộng đất được
chia cho nông dân để cày cấy. Mỗi hộ nông dân được chia một mảnh ruộng rộng
100 mẫu (bằng khoảng 2ha) gọi là một điền. Tỉnh điền là chế độ phân phối ruộng
công ở Trung Quốc cổ đại.
3. Cơ sở chính trị - xã hội cho việc thiết lập chính thể quân chủ quý tộc.Hạ
Thời Tây Chu trong xã hội có ba giai cấp là quý tộc, nông dân và nô lệ.
Đứng đầu giai cấp quý tộc là vua bắt đầu từ đời Chu được gọi là Vương, là Thiên
tử. Vua Chu có quyền rất lớn về hành chính và tư pháp. Ý chí của vua là pháp lệnh.
Hơn nữa, với danh hiệu Thiên tử, vua Chu còn mượn cả uy trời để cai trị nhân dân.


Vua Chu cũng là người có quyền sở hữu cao nhất về ruộng đất trong cả nước và do
đó có quyền phân phong ruộng đất cho con em và công nhân. Dưới Thiên tử là các
vua chư hầu. Đó là những ông vua ở các địa phương với các danh hiệu Công, Hầu,
Bá… các vua chư hầu có toàn quyền cai trị vương quốc của mình nhưng có nghĩa
vụ phục tùng và triều cống Thiên tử.
Dưới vua, chư hầu là các quan lại lớn nhỏ được gọi là khanh, đại phu, sĩ. Họ giữ các
chức vụ trong triều đình nhà Chu và ở các nước chư hầu. Về kinh tế, tuy họ không
có quyền sở hữu ruộng đất nhưng có quyền hưởng nguồn thuế khoá trên đất đai
được phong. Theo sách Quốc ngữ, khanh của nước lớn có ruộng một lữ (khoảng
1000ha), thượng đại phu có ruộng một tốt (khoảng 200ha). Qua đó có thể thấy số tô
thuế họ thu được cũng đáng kể. Để bảo vệ địa vị của vua và giai cấp thống trị, bộ
máy bạo lực bao gồm hệ thống quan lại, quân đội, nhà tù… được thiết lập và từng
bước được tăng cường.
Nông dân là giai cấp đông đảo nhất và là lực lượng giữ vai trò quan trọng nhất trong
sản xuất nông nghiệp, là những người cày cấy ruộng “tỉnh điền”. Họ sống trong các
làng xã mà ở đó từ xưa đã lập thành những công xã nông thôn. Những người có

chức trách trong công xã định kì (thường là ba năm một lần) phải tiến hành chia lại
ruộng đất cho các hộ nông dân để “đất màu mỡ không được hưởng một mình, đất
cằn cỗi không phải chịu mọt mình”. Khi nhận phần ruộng mới thì đồng thời họ cũng
đổi cả nhà. Ngoài việc sản xuất nông nghiệp, nông dân còn làm một số nghề phụ
khác như chăn tằm, dệt lụa kéo sợi, dệt vải… Mặc dù nông dân được coi là “dân
của vua” tức là dân tự do, nhưng bị áp bức bóc lột nặng nề. Nhận một trăm mẫu
ruộng công nằm trong lãnh địa của quý tộc, nông dân phải nộp thuế bằng khoảng
1/10 thu hoạch. Ngoài ra họ còn phải nộp các khoản thuế phụ khác như lụa, da, thú
săn… và phải làm tạp dịch như xây dựng dinh thự, thành quách, cầu đường. Đời
sống của họ rất cực khổ.
Giai cấp có địa vị thấp kém nhất là nô lệ. Nguồn nô lệ chính là tù binh, ngoài ra còn
một số người đồng tộc bị biến thành nô lệ do phá sản hoặc phạm tội. Công việc chủ


yếu của nô lệ là hầu hạ và làm các công việc trong gia đình. Có một số được làm
việc trong các xưởng thủ công và tổ chức buôn bán của nhà nước. Nô lệ thường bị
thích chữ vào mặt và bị coi như hàng hoá để đổi chác và mua bán.
Như vậy, hệ thống quan lại của Tây Chu được hình thành, củng cố theo chế độ tông
pháp (quan hệ tông tộc) và chế độ cha truyền con nối (quan hệ thế tập). Hầu hết các
chức vụ quan trọng từ triều đình đến địa phương đều do những người thuộc họ hàng
nhà vua nắm giữ. Phẩm tước cao hay thấp là phụ thuộc vào quan hệ thân tộc gần
hay xa. Do đó có thể nói đây là chính thể quân chủ chuyên chế quý tộc (chủ nô).
4. Kết luận.
Suốt 2000 năm lịch sử cổ đại, nhà Tây Chu cũng như các triều đại Trung Quốc đều
thiết lập hình thức chính thể quân chủ chuyên chế quý tộc, đó là điểm đặc biệt của
nhà nước Trung Quốc cổ đại. Những cơ sở về kinh tế, chính trị, xã hội là những
điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại của hình thức chính thể ấy.




×