Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của việc ban hành luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.73 KB, 12 trang )

--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
NGUYỄN VĂN HẢI - 3405
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
LỜI MỞ ĐẦU
Tại Việt Nam, hệ thống pháp luật về thuế nhìn chung còn khá non trẻ và đi sau
các nước trên thế giới một khoảng cách rất lâu dài. Trong quá trình đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế của đất nước, hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật về
thuế nói riêng đã được chú trọng xây dựng, từng bước hoàn thiện, góp phần cải thiện
môi trường đầu tư, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, động viên mọi nguồn lực tài chính
vào ngân sách nhà nước. Mặc dù qua nhiều lần sửa đổi nhưng luật hiện hành vẫn còn
một số hạn chế nhất định cần khắc phục kịp thời. Do đó để đảm bảo tính thống nhất,
đồng bộ trong quá trình cải cách hệ thống pháp luật về thuế, cần sửa đổi để bao quát
hết các đối tượng nộp thuế, các khoản thu nhập chịu thuế, đảm bảo tính công bằng,
minh bạch trong căn cứ tính thuế và đáp ứng kịp thời những yêu cầu thực tiễn đặt ra.
Với sự cấp thiết trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế hiện
hành, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp - một trong những đạo luật quan trọng có ảnh
hưởng lớn đến sự thu hút cho môi trường đầu tư của một quốc gia đã được quốc hội
nước ta thông qua vào năm 2008. Với mục đích đi sâu phân tích, đánh giá những cơ
sở lý luận và thực tiễn của việc ban hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 để
góp phần nhìn nhận hệ thống pháp luật thuế Việt Nam trong điều kiện phát triển, hội
nhập kinh tế hiện nay, nhóm em xin lựa chọn Đề tài số 06 : Phân tích cơ sở lý luận
và thực tiễn của việc ban hành luật thuế thu nhập doanh nghiệp 2008.
Trong quá trình làm bài tập thể nhóm đã cố gắng nhiều, song với trình độ hiểu
biết vấn đề còn hạn chế nên bài viết khó thể tránh khỏi những thiếu sót. Bởi vậy,
chúng em rất mong có thể nhận được sự đóng góp ý kiến từ phía thầy cô cũng như
các bạn để bài làm của chúng em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
N06 – TL2 – NHÓM 1
1
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
NGUYỄN VĂN HẢI - 3405


--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
NỘI DUNG
A. TỔNG QUAN PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP VIỆT
NAM
Có thể nhận thấy rằng pháp luật thuế TNDN được hình thành và phát triển từ
đầu những năm 90 của thế kỷ XX. Trước năm 1990 có một loại thuế đánh vào thu
nhập của các cơ sở sản xuất, kinh doanh gọi là thuế lợi tức chỉ được áp dụng cho kinh
tế ngoài quốc doanh. Sau năm 1990, nước ta thực hiện công cuộc cải cách căn bản
chính sách thuế và ban hành Luật thuế lợi tức mới để áp dụng thống nhất đối với tất cả
các tổ chức, cá nhân kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế có thu nhập từ hoạt động
sản xuất kinh doanh.
Ngày 10/05/1997, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật Thuế TNDN (có hiệu
lực từ ngày 01/01/1999) thay thế cho Luật Thuế lợi tức nhằm khắc phục những nhược
điểm cơ bản (như tên gọi chưa phản ánh đầy đủ nội dung kinh tế của loại thuế này,
phạm vi điều chỉnh còn hạn hẹp…) và để thực hiện các mục tiêu và yêu cầu hội nhập,
phù hợp định hướng cải cách hệ thống chính sách thuế. Sau 4 năm thực hiện, Luật
Thuế TNDN 1997 đã đạt được những thành công (góp phần khuyến khích phát triển
sản xuất kinh doanh, đầu tư; điều tiết được hầu hết khoản thu nhập từ hoạt động sản
xuất, kinh doanh,…) cũng như bộc lộ những hạn chế (một số khoản chi phí chưa
được quy định hay chưa phù hợp với thực tiễn, vẫn có quy định khác biệt giữa doanh
nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,…).
Để khắc phục một số nhược điểm của Luật Thuế TNDN 1997, Quốc hội nước
ta đã thông qua Luật Thuế TNDN 2003 vào ngày 17/06/2003, có hiệu lực vào ngày
01/01/2004 bao gồm 8 chương với 32 điều.
Đến năm 2008, Quốc hội đã thông qua Luật Thuế TNDN mới thay thế Luật
Thế TNDN 2003 (có hiệu lực vào ngày 01/01/2009) thể hiện một bước tiến mới trong
cải cách pháp luật thuế với những thay đổi căn bản và quan trọng. Việc ban hành Luật
Thuế TNDN mới này đã góp phần củng cố chính sách về thuế của nước ta nhằm đáp
ứng nhu cầu hội nhập và phát triển hiện nay.
N06 – TL2 – NHÓM 1

2
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
NGUYỄN VĂN HẢI - 3405
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
B. CƠ SỞ BAN HÀNH LUẬT THUẾ THU NHẬP DOANH NHIỆP 2008
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Cơ sở ra đời thuế thu nhập doanh nghiệp
Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) là loại thuế trực thu đánh giá trên phần
thu nhập sau khi trừ đi các khoản chi phí được trừ liên quan đến thu nhập của cơ sở
sản xuất kinh doanh, dịch vụ.
Thuế thu nhập doanh nghiệp xuất hiện rất sớm trong lịch sử phát triển của
thuế . Hiện nay ở các nước phát triển, thuế thu nhập doanh nghiệp giữ vai trò đặc biệt
quan trọng trong việc đảm bảo ổn định nguồn thu ngân sách Nhà nước và thực hiện
phân phối thu nhập. Mức thuế cao hay thấp áp dụng cho các chủ thể thuộc đối tượng
nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là khác nhau, điều đó phụ thuộc vào quan điểm điều
tiết thu nhập và mục tiêu đặt ra trong phân phối thu nhập của từng quốc gia trong
từng giai đoạn lịch sử nhất định. Thuế thu nhập doanh nghiệp ra đời bắt nguồn từ các
lý do chủ yếu sau:
- Thuế thu nhập doanh nghiệp ra đời bắt nguồn từ yêu cầu thực hiện chức năng
tái phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội.
- Sự ra đời của thuế thu nhập doanh nghiệp xuất phát từ nhu cầu tài chính của
Nhà nước.
- Thuế thu nhập là công cụ để nhà nước quản lý và điều tiết các hoạt động kinh
tế xã hội.
1.2. Mục đích của thuế thu nhập doanh nghiệp
Thuế thu nhập doanh nghiệp ra đời nhằm mục đích :
Thứ nhất là làm tăng ngân sách nhà nước. Thuế thu nhập doanh nghiệp là một
khoản thuế nộp vào ngân sách nhà nước thông qua thu nhập chịu thuế của các doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế và các hộ kinh doanh…
Thứ hai, điều tiết nền kinh tế. Nhà nước sử dụng sắc thuế để điều tiết vĩ mô cho

phù hợp với từng ngành nghề, từng lĩnh vực kinh doanh và từng khu vực.
Thứ ba, khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước thông qua các chính sách về
thuế suất và miễn giảm thuế.
Thứ tư, tạo sự công bằng cho các doanh nghiệp. Đảm bảo sự bình đẳng trong
kinh doanh, giữa doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, và giữa
N06 – TL2 – NHÓM 1
3
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
NGUYỄN VĂN HẢI - 3405
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
các doanh nghiệp với nhau, phù hợp với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần mà Đảng đã đề ra.
1.3. Vai trò của thuế thu nhập doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
Thứ nhất, thuế thu nhập doanh nghiệp là công cụ quan trọng để Nhà nước thực
hiện chức năng tái phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội:
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta, tất cả các thành phần kinh tế
đều có quyền tự do kinh doanh và bình đằng trên cơ sở pháp luật. Các doanh nghiệp
với lực lượng lao động có tay nghề cao, năng lực tài chính mạnh thì doanh nghiệp đó
sẽ có ưu thế và có cơ hội để nhận được thu nhập cao; ngược lại các doanh nghiệp với
năng lực tài chính, lực lượng lao động bị hạn chế sẽ nhận được thu nhập thấp, thậm
chí không có thu nhập. Ðể hạn chế nhược điểm đó, Nhà nước sử dụng thuế thu nhập
doanh nghiệp làm công cụ điều tiết thu nhập của các chủ thể có thu nhập cao, đảm
bảo yêu cầu đóng góp của các chủ thể kinh doanh vào ngân sách Nhà nước được công
bằng, hợp lý.
Thư hai, thuế thu nhập doanh nghiệp là nguồn thu quan trọng của ngân sách
Nhà nước:
Phạm vi áp dụng của thuế thu nhập doanh nghiệp rất rộng, gồm cá nhân, nhóm
kinh doanh, hộ cá thể và các tổ chức kinh tế có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng
hoá, dịch vụ có phát sinh lợi nhuận. Nền kinh tế thị trường nước ta ngày càng phát
triển và ổn định, tăng trưởng kinh tế được giữ vững ngày càng cao, các chủ thể hoạt

động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ngày càng mang lại nhiều lợi nhuận thì khả năng
huy động nguồn tài chính cho ngân sách Nhà nước thông qua thuế thu nhập doanh
nghiệp ngày càng dồi dào.
Thứ ba, thuế thu nhập doanh nghiệp là công cụ quan trọng để góp phần khuyến
khích, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển theo chiều hướng kế hoạch, chiến lược,
phát triển toàn diện của Nhà nước:
Nhà nước ưu đãi, khuyến khích đối với các chủ thể đầu tư, kinh doanh vào
những ngành, lĩnh vực và những vùng, miền mà Nhà nước có chiến lược ưu tiên phát
triển trong từng giai đoạn nhất định.
Thứ tư, thuế thu nhập doanh nghiệp còn là một trong những công cụ quan trọng
của Nhà nước trong việc thực hiện chứng năng điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội
trong từng thời kỳ phát triển kinh tế nhất định.
N06 – TL2 – NHÓM 1
4
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
NGUYỄN VĂN HẢI - 3405
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Nhà nước sử dụng chính sách thuế để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Vì lợi ích xã
hội, Nhà nước có thể tăng thuế hoặc giảm thuế đối với thu nhập của các doanh nghiệp
để kích thích hoặc hạn chế sự phát triển các lĩnh vực, các ngành nghề khác nhau của
nền kinh tế. Cụ thể trong những năm khủng khoảng hoặc suy thoái kinh tế, nhà nước
có thể hạ thấp mức thuế, tạo ra những điều kiện thuận lợi kích thích tiêu dùng, tăng
đầu tư và mở rộng sản xuất. Ngược lại trong thời kỳ nền kinh tế phát triển quá mức,
có nguy cơ dẫn đến mất cân đối, bằng cách tăng thuế thu hẹp đầu tư, Nhà nước có thể
giữ vững nhịp độ tăng trưởng theo mục tiêu đã đặt ra.
Thư năm, thuế thu nhập doanh nghiệp là công cụ thực hiện kiểm tra, kiểm soát
các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thông qua khai báo thuế của các doanh nghiệp, công ty và thông qua công tác
kiểm tra, kiểm soát của cơ quan thuế, có thể kiểm tra, kiểm soát và nắm được thực
trạng các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, từ đó có thể phát hiện

ra những vấn đề gian lận thương mại, lậu thuế, khai báo sai tình hình sản xuất kinh
doanh trong thực tế, góp phần chấn chỉnh các hoạt động sản xuất kinh doanh và nâng
cao vai trò giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh trong xã hội của cơ quan thuế.
1.4. Những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với thuế thu nhập
doanh nghiệp
Để góp phần thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và chủ động thực hiện thắng lợi hội nhập kinh
tế quốc tế, Bộ Chính trị đã thông qua chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2010
và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 201/2004/QĐ-TTg ngày
06/12/2004 về việc phê duyệt chương trình cụ thể để thực hiện chiến lược nêu trên.
Theo Quyết định này, thì pháp luật về thuế TNDN cần được hoàn thiện “theo hướng
giảm mức thuế suất, giảm diện miễn, giảm thuế; thống nhất mức thuế suất và ưu đãi
thuế giữa các thành phần kinh tế để khuyến khích đầu tư và đảm bảo bình đẳng trong
cạnh tranh”. Đây cũng là cơ sở lý luận của việc ban hành Luật Thuế thu nhập doanh
nghiệp 2008.
Hơn nữa, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X ngày 25/4/2006
cũng nêu rõ chính sách cơ bản trong vấn đề về thuế: “Tiếp tục hoàn thiện hệ thống
pháp luật về thuế theo nguyên tắc công bằng, thống nhất và đồng bộ, bảo đảm môi
N06 – TL2 – NHÓM 1
5

×