Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Ứng dụng của tư duy trong hoạt động học tập của sinh viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (58.42 KB, 9 trang )

Ứng dụng của tư duy trong hoạt động học tập của sinh viên
MỞ ĐẦU
Con người từ chỗ là một loài động vật thích ứng với tự nhiên bằng bản năng tự
nhiên đã phát triển trở thành sinh vật cao cấp nhất, được như vậy là do con người đã
có thể nhận thức và cải tạo thế giới khách quan một cách có hiệu quả. Để có phương
hướng và biện pháp đúng đắn nhằm cải tạo thế giới khách quan và bản thân, con
người không thể chỉ dựa vào cảm giác, tri giác mà phải sử dụng nhận thức lí tính là
tư duy và tưởng tượng, đặc biệt là tư duy. Tư duy có phạm vi chủ thể lớn, phức tạp,
trừu tượng mới giúp con người hiểu được các thuộc tính, các quan hệ bên trong,
mới nắm được bản chất, quy luật phát triển của sự vật. Tư duy là một quá trình hình
thành, phát triển và hoàn thiện không ngừng, quá trình đó chứa đựng những thuộc
tính cơ bản.Ngay trong hoạt động học tập của sinh viên cũng cần phải sử dụng tư
duy thì mới có thể đạt được hiệu quả.Qua bài viết này, em xin phân tích những đặc
điểm của tư duy con người và ứng dụng của nó trong hoạt động học tập của sinh
viên.

NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận.
1. Nhận thức lý tính
Nhận thức lý tính là mức độ nhận thức cao ở con người, trong đó con người phản
ánh những thuộc tính bên trong, những mối quan hệ có tính quy luật của hiện thực
khách quan một cách gián tiếp.
2.Tư duy
Có nhiều quan điểm khác nhau về tư duy.


Theo triết học thì tư duy là phạm trù triết học dùng để chỉ những hoạt động của tinh
thần, đem những cảm giác của người ta sửa đổi và cải tạo thế giưới thông qua hoạt
động vật chất, làm cho người ta có nhận thức đúng đắn về sự vật và ứng xử tích cực
với nó.
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam( NXB Từ điển bách khoa. Hà Nội.


2005) thì tư duy là sản phẩm cao nhất của vật chất được tổ chức một cách đặc biệt
là bộ não người. Tư duy phản ánh tích cực hiện thực khách quan dưới dạng các khái
niệm, sự phán đoán, lý luận …
Ngoài ra, theo quan điểm của môn tâm lý học đại cương thì tư duy là một quá trính
nhận thức phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ và quan hệ bên
trong có tính quy luật của sự vật và hiện tượng trong hiện thực khách quan mà trước
đó ta chưa biết.
Quá trình tư duy bao gồm nhiều giai đoạn, từ khi cá nhân gặp những tình huống có
vấn đề và nhận thức được vấn đề đến khi vấn đề đó được giải quyết. Đó là các giai
đoạn xác định vấn đề và biểu đạt, xuất hiện các liên tưởng, sàng lọc các liên tưởng
và hình thành giả thuyết, kiểm tra giả thuyết, giải quyết nhiệm vụ tư duy.
Tư duy có vai trò đặc biệt quan trọng đối với hoạt động thực tiễn cũng như đối với
hoạt động nhận thức của con người: tư duy giúp con người nhận thức được quy luật
khách quan, từ đó có thể chủ động dự kiến xu hướng phát triển của sự vật, hiện
tượng và có kế hoạch, biện pháp cải tạo hiện thực khách quan. Ngoài ra, tư duy còn
giúp con người lĩnh hội nề văn hóa xã hội để hình thành và phát triển nhân cách của
mình.
II. Giải quyết vấn đề
1. Các đặc điểm của tư duy


Tư duy có các đặc điểm cơ bản: tính có vấn đề, tính gián tiếp, tính trừu tượng và
tính khái quát hóa, tư duy gắn liền với ngôn ngữ, tư duy liên hệ với nhận thức cảm
tính.
a. Tính “có vấn đề” của tư duy
Tư duy chỉ được nảy sinh trong tình huống có vấn đề. Tình huống có vấn đề là tình
huống chưa có đáp số nhưng đáp số đã tiềm tàng bên trong tình huống chứa điều
kiện giúp ta tìm ra đáp số đó hay nói cách khác tình huống, hoàn cảnh này là một
vấn đề mà những hiểu biết cũ, những phương pháp hoạt động cũ tuy còn cần thiết
song không đủ sức giải quyết, muốn giải quyết vấn đề đó con người phải tim cách

thức giải quyết mới, những biện pháp, công cụ trước đây không thể giải quyết vấn
đề hiệu quả sẽ làm khởi nguồn cho các hoạt động tư duy của con người. Con người
sẽ không thể tư duy nếu như không có vấn đề nảy sinh trong cuộc sống.
Tuy nhiên, không phải tình huống có vấn đề nào cũng kích thích được hoạt động tư
duy. Muốn kích thích quá trình tư duy phải thỏa mãn 3 điều kiện: tình huống có vấn
đề phải được chủ thể nhận thức đầy đủ, có nhu cầu giải quyết, có tinh thần trách
nhiệm và tri thức tri thức cần thiết liên quan đến vấn đề nghĩa là con người xác định
được cái gì đã biết, đã cho và cái gì chưa biết, cần phải tìm và có nhu cầu tìm kiếm
nó. Ngoài việc thỏa mãn 3 điều kiện, còn tùy thuộc vào năng lực và điều kiện thực
tế của mỗi cá nhân trong quá trình nhận thức và tư duy mà việc tư duy và tìm ra
được phương pháp giải quyết vấn đề sẽ cho kết quả khác nhau. Vấn đề nảy sinh sẽ
là động lực thôi thúc con người tư duy để tìm cách giải quyết hiệu quả nhất. Đối với
những tình huống có vấn đề phù hợp, người giải quyết có nhận thức đầy đủ, có năng
lực và có nhu cầu giải quyết thì sẽ thúc đẩy nhanh chóng khả năng tư duy giải quyết
vấn đề. Đối với một tình huống, con người luôn tìm ra được những cách khác nhau
để giải quyết vấn đề đó, tùy vào khả năng tư duy của mỗi người mà sẽ tìm được
phương pháp hiệu quả nhất, ứng dụng hiệu quả nhất đối với thực tiễn.


b.Tính gián tiếp của tư duy
Tư duy con người không nhận thức thế giới một cách trực tiếp mà có khả năng nhận
thức nó một cách gián tiếp.Trong quá trình tư duy, con người không thể trực tiếp tri
giác nội dung mà phải sử dụng các công cụ, phương tiện khác nhau để nhận thức sự
vật, hiện tượng, thông qua sự vật, hiện tượng này để phản ánh sự vật, hiện tượng
khác. Những phát minh, những kết quả, tư duy của người khác cũng như kinh
nghiệm cá nhân của con người đều là công cụ để con người tìm hiểu thế giới xung
quanh để giải quyết những vấn đề mới đối với họ. Ngoài ra, những công cụ do con
người tạo ra cũng giúp chúng ta hiểu biết được những hiện tượng có trong hiện thực
mà không thể tri giác chúng một cách trực tiếp được. Sở dĩ có thể nhận thức được
gián tiếp vì giữa các sự vật, hiện tượng có mối liên hệ mang tính quy luật.

Ngoài ra tính gián tiếp của tư duy còn thể hiện ở việc con người sử dụng ngôn ngữ
để tư duy. Đây là một loại phương tiện nhận thức đặc thù của con người. Nhờ có
ngôn ngữ mà con người sử dụng các kết quả nhận thức như các quy tắc, khái niệm,
công thức, quy luật… và kinh nghiệm của bản thân vào quá trình tư duy( phân tích,
tổng hợp, so sánh, khái quát) để nhận thức được cái bên trong, bản chất của sự vật,
hiện tượng.
Nhờ có tính gián tiếp của tư duy mà con người đã mở rộng không giới hạn khả năng
nhận thức của con người, con người không chỉ phản ánh những gì diễn ra trong hiện
tại mà còn phản ánh được cả quá khứ và tương lai.
c. Tính trừu tượng và khái quát hóa của tư duy
Tư duy không chỉ hướng vào cái riêng mà còn hướng vào cái chung, cơ bản, mối
liên hệ, quan hệ mang tính quy luật của sự vật, hiện tượng


- Tưởng tượng là dùng trí óc để gạt bỏ những mặt, những thuộc tính, những mối liên
hệ, những mối quan hệ thứ yếu, không cần thiết mà chỉ giữ lại những yếu tố cần
thiết cho tư duy.
- Khái quát là dùng trí óc để hợp nhất nhiều đối tượng khác nhau thành một nhóm,
một loại, một phạm trù theo những thuộc tính, liên hệ, quan hệ chung nhất định.
Trừu tượng và khái quát có mối liên hệ mật thiết với nhau nên không có trừu tượng
thì không có cơ sở để tiến hành khái quát nhưng trừu tượng mà không khái quát thì
con người không thể nhận thức được sự vật, hiện tượng hiệu quả.
Tư duy có khả năng trừu xuất khỏi sự vật, hiện tượng những thuộc tính, những dấu
hiệu cụ thể, cá biệt chỉ giữ lại những thuộc tính bản chất nhất, chung cho nhiều sự
vật, hiện tượng rồi trên cơ sở đó mà khái quát các sự vật, hiện tượng riêng lẻ khác
nhau nhưng có chung những thuộc tính bản chất thành một nhóm, một loại, một
phạm trù. Trước những sự vật, hiện tượng khác nhau, nhờ có tính trừu tượng và khái
quát hóa mà con người mới có thể tìm ra được những mặt, những đặc tính giống
nhau giữa chúng, từ đó nâng lên thành các khái niệm, quy luật.
Nếu chỉ dừng lại ở nhận thức cảm tính, con người chỉ có thể nhận thức một cách rất

hạn chế về sự vật, hiện tượng và chỉ có thể phản ánh nhữn thuộc tính riêng lẻ của
một sự vật, hiện tượng cụ thể mà chưa có sự kết nối, gắn kết các dữ liệu với nhau.
Chỉ có tư duy, con người mới phản ánh được những thuộc tính khách quan nhất của
các sự vất, hiện tượng. Nhờ có tư duy mà con người con ngừơi có thể giải quyết
được những nhiệm vụ hiện tại và cả những nhiệm vụ của tương lai, trong khi giải
quyết vẫn có thể sắp xếp nó vào một nhóm, một loại, một phạm trù để có những quy
tắc, những phương pháp giải quyết tương tự.
e. Tư duy gắn liền với ngôn ngữ.
Đây là một trong những đặc điểm khác biệt cơ bản giữa tâm lý người và tâm lý
động vật. Động vật vì không có ngôn ngữ nên tâm lý động vật bao giờ cũng chỉ


dừng lại ở tư duy lao động trực quan, không có khả năng vượt ra khỏi phạm vi đó.
Chính do tư duy gắn chặt với ngôn ngữ đã làm cho tư duy con người mang tính gián
tiếp, tính trừu tượng và khách quan.
Nhu cầu giao tiếp của con người chính là điều kiện để phát sinh ngôn ngữ. Ngay từ
khi xuất hiện, tư duy đã gắn liền với ngôn ngữ và được thực hiện thông qua ngôn
ngữ. Ở thời kỳ sơ khai, tư duy được hình thành thông qua hoạt động vật chất của
con người và từng bước được ghi lại bằng các ký hiệu từ đơn giản đến phức tạp, từ
đơn lẻ đến tập hợp, từ cụ thể đến trừu tượng Sự ra đời của ngôn ngữ đánh đấu bước
phát triển nhảy vọt của tư duy và tư duy cũng bắt đầu phụ thuộc vào ngôn ngữ.
Tư duy và ngôn ngữ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.Tư duy không thể tồn tại
dưới bất kỳ hình thức nào khác ngoài ngôn ngữ.Bất kỳ ý nghĩ, tư tưởng nào cũng
đều nảy sinh, phát triển gắn liền với ngôn ngữ. Bất cứ ý tưởng nào xuất hiện trong
đầu óc con người tại bất kì thời điểm, địa điểm nào thì cũng chỉ xuất hiện và tồn tại
được là nhờ vào ngữ liệu, chính là từ ngữ và câu. Tư duy tách ra khỏi ngôn ngữ là
không thể được.Nếu không có ngôn ngữ, con người không thể có được tư duy đồng
thời các sản phẩm của tư duy cũng không được thể hiện ra để chủ thể và những
người khác tiếp nhận.Ngôn ngữ là phương tiện biểu đạt của tư duy, nhờ có ngôn
ngữ, tư duy mới được biểu thị và truyền đạt cho người khác.Ngược lại, con người

không tư duy thì ngôn ngữ không thể có nội dung, hoàn toàn vô nghĩa.Nếu không
có tư duy thì ngôn ngữ cũng chỉ là những âm thanh trống rỗng, thực chất là cũng
không có ngôn ngữ. Do đó, ngôn ngữ và tư duy có mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
cùng song song tồn tại, tuy nhiên, ngôn ngữ không phải là bộ phận của tư duy mà
có một vai trò là phương tiện biểu đạt cho tư duy.
f. Tư duy liên hệ với nhận thức cảm tính.
Tư duy là một mức độ nhận thức mới về chất so với cảm giác và tri giác.Nếu cảm
giác và tri giác mới chỉ phản ánh được những thuộc tính bên ngoài, những mối liên
hệ bên ngoài của sự vật, hiện tượng thì tư duy phản ánh thuộc tính bên trong, bản


chất của sự vật, hiện tượng.Tuy nhiên, tư duy bao giờ cũng có mối liên hệ mật thiết
với nhận thức cảm tính tức là với cảm giác, tri giác, biểu tượng.Nhận thức cảm tính
là “cửa ngõ” là kênh duy nhất, qua đó tư duy liên hệ với thế giới bên ngoài.Tư duy
thường bắt đầu bằng nhận thức cảm tính, trên cơ sở nhận cảm tính mà nảy sinh tình
huống có vấn đề. Xuất phát điểm là những cảm giác, tri giác và biểu tượng được
phản ánh từ thực tiễn khách quan với những thông tin về hình dạng, hiện tượng bên
ngoài được phản ánh một cách riêng lẻ, hoạt động tư duy tiến hành các thao tác so
sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp những thông tin đơn lẻ, gắn chúng vào mối
quan liên hệ phổ biến, lọc bỏ những cái ngẫu nhiên, không căn bản của sự vật, hiện
tượng để tìm ra nội dung, bản chất của chúng, quy nạp nó trở thành những khái
niệm, phạm trù, định luật. Chúng ta không thể tư duy nếu thiếu đi cảm giác và tri
giác. Lê nin đã nói: “Không có cảm giác thì không có quá trình nhận thức nào cả”,
“Tất cả các hiểu biết đều bắt nguồn từ kinh nghiệm, từ cảm giác, tri giác.” Dựa vào
nhận thức cảm tính, bắt đầu từ những thuộc tính riêng lẻ, cơ bản của sự vật, hiện
tượng là cơ sở cung cấp tài liệu cho tư duy.Phải thông qua các giác quan của mình,
con người mới có thể phản ánh một cách trực tiếp thế giới khách quan, từ đó mới có
được nguồn nguyên liệu cho hoạt động nhận thức lý tính, trong đó có tư duy.Tư duy
muốn đạt hiệu quả cao phải dựa trên kinh nghiệm đã có trên cơ sở trực quan sinh
động.

Đồng thời, tư duy cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhận thức cảm tính, làm cho khả
năng cảm giác của con người tinh vi, nhạy cảm hơn và làm cho tri giác của con
người mang tính lựa chọn, tính ý nghĩa. Tư duy nói riêng và nhận thức lý tính nói
chung nhờ có tính khái quát cao hiểu được bản chất nên đóng vai trò định hướng ,
chi phối cho nhận thức cảm tính có thể phản ánh được sâu sắc, tinh vi, nhạy bén và
chính xác hơn. Nhận thức cảm tính tự nó không thể biết cái gì cần, cái gì không cần
nhận thức. Tư duy chính là kim chỉ nam định hướng cho nhận thức cảm tính cần tập
trung vào sự vật, hiện tượng nào, từ đó đạt đến cái đích đúng theo định hướng, như
vậy nhận thức cảm tính mới sâu sắc và chính xác được.
2. Ứng dụng của tư duy trong hoạt động học tập của sinh viên.


Tư duy là một quá trình nhận thức quan trọng giúp con người có thể nhận thức được
thế giới khách quan, đặc biệt tư duy cũng có vai trò quan trọng đối với sinh viên
trong hoạt động học tập. Khi nghe thầy giáo giảng bài hay khi tự đọc giáo trình,
sinh viên cần phải tư duy, suy luận để nhận thức được bài học. Nếu sinh viên không
tư duy thì sẽ không thể học tập, không thể có hiểu biết về những vấn đề mà mình
đang học tập, rèn luyện. Khả năng tư duy của mỗi người sẽ quyết định xem người
đó có tiếp thu được bài học và áp dụng vào trong thực tế một cách đúng đắn và đạt
hiệu quả cao hay không. Nếu không tư duy tốt thì ta khó có thể đạt kết quả cao, tuy
nhiên tư duy là một kỹ năng mà mỗi người đều có thể học tập và rèn luyện được. Vì
vậy, việc nâng cao khả năng tư duy là một nhiệm vụ bắt buộc đối với sinh viên
chúng ta.
Trên cơ sở các đặc điểm cơ bản của tư duy, ta có thể ứng dụng tư duy vào trong việc
học tập của sinh viên.Tình huống có vấn đề có tác dụng thúc đẩy, là động lực cho tư
duy, do đó để nâng cao khả năng học tập cho sinh viên, giảng viên phải thường
xuyên đưa ra các câu hỏi phù hợp với bài học hoặc chính sinh viên cũng có thể tự
đặt ra câu hỏi cho nhau rồi trả lời nhằm kích thích khả năng tư duy giúp nhớ bài và
hiểu bài sâu sắc hơn. Khi không ngừng học tập, trau dồi bản thân, sinh viên sẽ có cơ
hội tiếp xúc thường xuyên với những vấn đề phức tạp, từ đó nâng cao kỹ năng giải

quyết các vấn đề. Đối với sinh viên, việc học tập và rèn luyện đôi khi gây ra nhiều
khó khăn nhưng đó cũng là động lực giúp chúng ta có thể trưởng thành hơn.
Phát triển tư duy phải gắn liền với rèn luyện cảm giác, tri giác, năng lực quan sát và
trí nhớ của con người. Bởi vì nếu thiếu những tài liệu cảm tính thì tư duy không thể
diễn ra được. Đối với sinh viên, muốn tư duy, muốn hiểu bài mới thì cần phải có cơ
sở ban đầu, phải nắm vững kiến thức cũ. Do đó, việc học bài cũ và đọc trước bài
mới là việc làm cần thiết nếu không muốn nói là bắt buộc. Vì việc học tập là một
quá trình, các phần kiến thức có mối quan hệ với nhau, bổ trợ cho nhau chứ không
hoàn toàn riêng rẽ, do đó, kiến thức của bài cũ chính là phần nguyên liệu của nhận
thức cảm tính dành cho tư duy trong việc tiếp nhận kiến thức của phần bài mới.


Trong quá trình học tập, để có thể hiểu bài sâu sắc thì một phương pháp hiệu quả,
đó chính là so sánh, phân biệt và tìm ra mối quan hệ giữa các phần, ở đây, chỉ có tư
duy mới có khả năng giải quyết. Nhờ vào đặc điểm trừu tượng và khái quát hóa, mà
con người có thể tìm ra những thuộc tính bản chất chung của nhiều vấn đề riêng lẻ,
từ đó khái quát lên thành quy luật. Đây chính là phần kiến thức cốt lõi nhất mà sinh
viên cần nắm trong mỗi bài học.
KẾT LUẬN
Qua những phân tích trên, thông qua năm đặc điểm cơ bản của tư duy, có thể thấy
được tầm quan trọng của tư duy trong hoạt động nhận thức của con người. Tư duy
được sử dụng đối với đời sống của con người trên nhiều lĩnh vực khác nhau, trong
đó nó ứng dụng cao trong hoạt động học tập của sinh viên . Qua đây mỗi sinh viên
cần hiểu một cách sâu sắc về hoạt động tư duy và áp dụng nó một cách hiệu quả,
chính xác vào hoạt động học tập của bản thân.



×