Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập với việc phân tích các mâu thuẫn biện chứng của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (72.24 KB, 12 trang )

Nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập với
việc phân tích các mâu thuẫn biện chứng của nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam hiện nay
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Như chóng ta đã biết, mâu thuẫn tồn tại trong tất cả các sự vật, hiện tượng cũng như
mọi lĩnh vực của đời sống. Từ tự nhiên, xã hội cho đến tư duy của con người… tất
cả những lĩnh vực đó nếu thiếu đi mâu thuẫn cơ bản tạo thành sự vật, hiện tượng đó
thì bản thân sự vật, hiện tượng không còn khả năng tồn tại. Mâu thuẫn có từ khi sự
vật, hiện tượng xuất hiện và chính nó là động lực cho sự phát triển, là nguồn gốc
của sự vận động bên trong sự vật, hiện tượng. Như nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay cũng vậy. Mặc dù đây là mô hình kinh tế
mới chuyển đổi sang cũng đã bắt gặp rất nhiều khó khăn cũng như thuận lợi. Thuận
lợi ở sự phù hợp với bối cảnh lịch sử của nước ta hiện nay và được tạo điều kiện
phát triển bởi các chính sách, đường lối chỉ đạo của Đảng - nhà nước. Nhưng cũng
gặp phải không Ýt khó khăn do vấp phải những mâu thuẫn vốn có, tiềm Èn trong
bản thân cơ chế thị trường, những mâu thuẫn giữa cơ chế thị trường và mục tiêu xây
dựng con người chủ nghĩa xã hội…
Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, em đã chọn đề tài "Nội dung quy luật thống nhất và
đấu tranh giữa các mặt đối lập với việc phân tích các mâu thuẫn biện chứng của nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay".
Qua đó, em mong muốn tìm ra được nhiệm vụ trung tâm cần giải quyết, góp phần
xây dựng nền kinh tế mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH
GIỮA CÁC MẶT ĐỐI LẬP.


Trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, V.I Lênin đã coi quy luật
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là "hạt nhân của phép biện chứng" bởi
vì quy luật này đã chỉ rõ nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động và phát
triển của sự vật, và là "chìa khoá" giúp chóng ta nắm vững thực chất của các quy


luật cơ bản và các cặp phạm trù của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Nghiên cứu vấn
đề này, có những nội dung đáng chú ý như sau:
1.1. Các mặt đối lập, sự thống và đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Theo phép biện chứng duy vật, khái niệm mặt đối lập là sự khái quát những thuộc
tính có xu hướng vận động trái ngược nhau, loại trừ, bài xích, chống đối lẫn nhau.
Chúng có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhưng lại song song tồn tại trong
cùng một sự vật, hiện tượng, tạo nên sự vật hiện tượng đó.
Giữa các mặt đối lập trên luôn luôn có sự liên hệ, quy định, ràng buộc lẫn nhau gọi
là sự thống nhất của các mặt đối lập. Thống nhất ở đây không phải là chúng đứng
bên cạnh nhau mà chúng có sự liên hệ phụ thuộc lẫn nhau. Mặt đối lập này lấy mặt
đối lập kia làm tiền đề tồn tại cho mình. Một sự vật không thể tồn tại nếu thiếu đi
một trong hai mặt đối lập chính tạo nên sự vật đó. Điều đó có nghĩa là sự tồn tại của
bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng không thể thiếu được sự thống nhất của các mặt
đối lập tồn tại trong bản thân sự vật, hiện tượng Êy.
Như vậy, trong sự thống nhất đã Èn chứa sự đối lập. Trong mâu thuẫn, sự thống
nhất của các mặt đối lập không tách rời với sự đấu tranh giữa chúng. Bởi vì trong
quy định ràng buộc lẫn nhau, hai mặt đối lập vẫn có xu hướng phát triển trái ngược
nhau, đấu tranh lẫn nhau. Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập thường được chia làm
nhiều giai đoạn. Thông thường, khi mới xuất hiện, hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ
nhưng xung khắc, đối chọi lẫn nhau. Nhưng khi các mặt đối lập này phát triển theo
hướng ngược chiều nhau đến một mức độ nào đó sẽ hình thành mâu thuẫn. Khi đó,
các mặt đối lập có xu hướng xung đột, bài trừ, phủ định lẫn nhau.


1.2. Tính khách quan và phổ biến của quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt
đối lập (còn gọi là quy luật mâu thuẫn)
Một điều dễ nhận thấy là: tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới đều luôn luôn
khác biệt nhau, nhưng tất cả các sự vật, hiện tượng đó là tồn tại trong mối liên hệ
phổ biến với nhau (một cách trực tiếp hay gián tiếp…). Sự thống nhất và đấu tranh
giữa các mặt đối lập có tính khách quan vì là cái vôn có trong các sự vật, hiện tượng

và tính phổ biến do sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tồn tại trong tất
cả các lĩnh vực (như tự nhiên, xã hội và tư duy) … Do sự thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập có tính khách quan và phổ biến nên nó có tính đa dạng và phức
tạp. Mầu thuẫn trong mỗi sự vật và trong mỗi lĩnh vực khác nhau. Hay trong mỗi
một sự vật, hiện tượng không chỉ có một mâu thuẫn mà có nhiều mâu thuẫn … sự
đấu tranh giữa các mặt đối lập đặt đến một mức độ nào đó thì mâu thuẫn sẽ được
giải quyết, sự vật mới ra đời. Mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới ra đời và hình
thành một quá trình mới, làm cho sự vật không ngừng vận động và phát triển.
1.3. Vai trò của mâu thuẫn với sự vận động và phát triển.
Sự vận động và phát triển của sự vật thể hiện trong sự thống nhất biện chứng giữa
hai mặt: thống nhất của các mặt đối lập và đâu tranh của hai mặt đối lập. Trong đó:
thống nhất của các mặt đối lập là tạm thời, tương đối, còn đấu tranh giữa hai mặt
đối lập là tuyệt đối. Tính tuyệt đối của đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự
vận động và phát triển của sự vật là tự thân và diễn ra liên tục. Tính tương đối của
thống nhất giữa các mặt đối lập làm cho thế giới vật chất phân hoá thành các bộ
phận, các sự vật đa dạng phức tạp, giai đoạn … Như vậy, mâu thuẫn là khách quan
phổ biến, đa dạng. Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan đều là thống
nhất của các mặt đối lập. Chính sự đấu tranh của các mặt đối lập và sự chuyển hoá
giữa chúng là nguồn gốc, động lực của sù phát triển.


Như chóng ta đã biết, từ khi Chủ nghĩa xã hội được xây dựng, các mức xã hội chủ
nghĩa đều thực hiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập tủng, cơ chế vận hành và quản lý
kinh tế này được duy trì trong một thời gian khá dài và xem như đặc trưng riêng
biệt của Chủ nghĩa xã hội, là các đối lập với nền kinh tế thị trường. Các nước TBCN
cũng đã từng sử dụng cơ chế kinh tế tập trung nhưng nhanh chóng xoá bỏ nó ngay
sau chiến tranh và đã đạt được thành tựu to lớn về kinh tế và xã hội. Nhưng nền
kinh tế thị trường vẫn gặp phải rất nhiều mâu thuẫn tồn tại.
1.4. Những đặc điểm của nền kinh tế thị trường nhièn tư góc độ triết học.
Nhìn chung, nền kinh tế trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế thị trường vận động

theo cơ chế của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Nếu để tự phát, nền kinh tế
nhiều thành phần sẽ đi lên Chủ nghĩa tư bản. Nhưng nếu có sù đấu tranh thì có thể
giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một qúa trình khó khăn, phức
tạp nhất là đối với Việt Nam sản xuất nhỏ vẫn chiếm ưu thế. Hiện nay, chóng ta
đang chúng ta đang trong thời kỳ chuyển tiếp từ tập trung bao cấp sang nền kinh tế
thị trường có sự quản lý của nhà nước. Do vậy, nền kinh tế cũng mang những đặc
điểm của thời kỳ quá độ.
Trước hết, trong nền kinh tế tập trung, bao cấp, mọi chức năng kinh tế - xã hội của
nền kinh tế đều được triển khai trong quá trình kế hoạch hoá. Tất cả các khâu sản
xuất - lưu thông - phân phối đều mang nặng tính bao cấp. Động lực trực tiếp của
hoạt động xã hội là lợi Ých kinh tế gần như bị bỏ qua. Do đó, sự vận động của nền
kinh tế nhìn chung là chậm chạp, kém năng động.
Sau năm 1986, nước ta có sự thay đổi lớn, tạo ra bước ngoặt trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội Đảng lần thứ VII (12.1986) thực sự là đại hội của
những quyết sách lớn nhằm xoay chuyển tình hình, đánh dấu mốc phát triển mới
trong nền kinh tế ở nước ta. Đó là dứt khoát từ bỏ những nhận thức sai lầm, những
quan điểm lạc hậu, lỗi thời về chủ nghĩa xã hội mà vấn đề trung tâm là "phải vượt
qua mô hình chủ nghĩa xã hội cũ để xác lập mô hình mới về chủ nghĩa xã hội ở


nước ta". Dù nền kinh tế thị trường mới được hình thành ở Việt Nam nhưng cũng đã
tác động khá rõ đến mọi mặt của đời sống xã hội và để lại ở đó những dấu Ên của
mình về mặt văn hoá…"Sự đan xem chi phối mãnh liệt của các nhân tố khác của
đời sống xã hội trong bối cảnh một xã hội vừa ra khỏi cơ chế hành chính bao cấp đã
làm cho cơ chế thị trường bị khúc xạ theo nhiều chiều hướng khác nhau.
Trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì vai trò quản lý
của nhà nước là vô cùng quan trọng. Nhà nước trực tiếp quyết định các vấn đề kinh
tế, xã hội.
Hiện nay, cơ chế quản lý trong đang ở trong giai đoạn mới hình thành nên còn đang
thiếu hụt, chưa hoàn chỉnh, dẫn đến môi trường sản xuất, kinh doanh thiếu ổn định,

an toàn. Tính chất không rõ ràng, thiếu xác định trên cả phương diện kinh tế - xã hội
dường như đang rất phổ biến, rất đặc trưng cho các quan hệ trong nền kinh tế nước
ta. Do vậy quá trình chuyển hoá này vấp phải rất nhiều mâu thuẫn nội tại.
2. NHỮNG MÂU THUẪN TRONG QUÁ TRÌNH CHUYỂN HOÁ TỪ CƠ CHẾ
TẬP TRUNG QUAN LIÊU BAO CẤP SANG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT
NAM.
2.1. Trước hết, cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết vĩ nền kinh tế do sự tác động
của các quy luật vốn có của nã.
Cơ chế thị trường là hệ thống hữu cơ những sù Thích ứng lẫn nhau, điều tiết lẫn
nhau của các yếu tố: giá cả, cung, cầu, cạnh tranh...cơ chế thị trường với những quy
luật khó nắm bắt, thường biểu hiện như là một cơ chế tự phát hơn, tự nhiên hơn và
nằm xa sù chi phối của con người hơn. Trong các giai đoạn quá độ, chuyển tiếp, yếu
tố tự phát thể hiện vai trò của mình mạnh hơn yếu tố tự giác. Bởi vậy, nền kinh tế
nước ta hiện nay, việc nắm được các yếu tố tự phát, tự giác của nền kinh tế, hiểu
được phương thức hoặc tìm ra phương pháp kiểm soát thích hợp là điều rất có ý
nghĩa. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có quá nhiều hiện tượng, quá trình mà ta còn


buông lỏng sự kiểm soát hoặc chưa thực sự đủ khả năng kiểm soát. Sản xuất hàng
hoá cùng nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường không đối
lập với chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường được xem là khách quan tất yếu với
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Tuy nhiên nhận ra sức mạnh của cơ chế thị trường bao nhiêu, chúng ta cũng hiểu rõ
thêm bấy nhiêu mặt trái của nó đối với sự vận động của đời sống xã hội: Nó có khả
năng tạo ra điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội nhưng tăng trưởng kinh tế
chưa hẳn nhất thiết đi liền với sự tiến bộ xã hội. Do vậy, sự chuyển dịch cơ chế tập
trung - bao cấp sang cơ chế thị trường nhất thiết phải có sự quản lý của nhà nước.
2.2. Những mâu thuẫn biện chứng của nền kinh tế thị trường:
Thứ nhất: ta xét đến mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận

hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay, vấn đề lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất là vấn đề rất
phức tạp. Mâu thuẫn giữa hai lực lượng này là những biểu hiện của nó xét trên
phương diện triết học Mác - Lênin thì: lực lượng sản xuấ là nội dung còn quan hệ
sản xuất là ý thức của sự vật. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. Lực
lượng sản xuất là yếu tố vận động luôn luôn thay đổi. Khi lực lượng sản xuất phát
triển đến một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất không còn phù hợp nữa. Khi
đó, quan hệ sản xuất trở thành yếu tố kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Để mở đường cho lực lượng sản xuất cần thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ
sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Quá trình mâu thuấn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến và quan hệ sản xuất lạc hậu
kìm hãm nó diễn ra gay gắt và quyết liệt, cần được giải quyết.


Để giải quyết được mâu thuẫn đó cần tiến hành cách mạng xã hội. Ví dụ như công
cuộc chuyển đổi nền kinh tế ở nước ta hiện nay. Nhiệm vụ quan trọng nhất, thể hiện
tính chất cách mạng rõ nhất của công cuộc đổi mới Việt Nam hiện nay là phấn đấu
xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp hoá - hiện đại hoá,"dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh".
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là chủ trương, biện pháp vừa mang tính
cách mạng, vừa mang tính khoa học. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nghĩa là từng
bước xây dựng nền sản xuất tiên tiến lực lượng sản xuất phát triển phù hợp với sự
phát triển của quan hệ sản xuất. Đây là phương thức tốt nhất để đưa nền kinh tế
nước ta thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ nghèo nàn, lạc hậu, nhằm tạo điều kiện cơ
sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội được xây dựng và phát triển.
Thứ hai: ta xét mâu thuẫn giữa cái hình thái sở hữu trước đây và trong cơ chế thị
trường.
Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế tập trung bao cấp, hai hình thức sở hữu cơ
bản là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể được áp dụng triệt để. Sự tồn tại của hai
hình thức sở hữu này là tất yếu khách quan vì nó phù hợp với điều kiện lịch sử khi

tiến hành cách mạng CNXH và xây dựng CNXH. Sau khi giành được chính quyền,
công nhân đứng trước hai hình thức sở hữu tư nhân khác nhau. Một là hình thức sở
hữu tư nhân TBCN, có thể giải quyết bằng cách tước đoạt hoặc "chuộc lại" để
chuyển sang sở hữu toàn dân. Hai là với hình thức sở hữu tư nhân của những người
sản xuất hàng hoá nhỏ thì có thể dùng biện pháp giáo dục, vận động, thuyết phục họ
trên cơ sở tự nguyện chuyển sang sở hữu tập thể bằng con đường hợp tác hoá hai
hình thức. Sở hữu đó là hai con đường đặc thù tiến lên chủ nghĩa cộng sản của giai
cấp công nhân và nông dân tập thể.
Các hình thức sở hữu trước đây và trong thời kỳ quá độ sang nền kinh tế thị trường
ở Việt Nam bắt đầu xuất hiện nhiều mâu thuẫn. Thực tiễn cho thấy rằng một nền


kinh tế nhiều thành phần sẽ kéo theo sự đa dạng về hình thức sở hữu chứ không
phải chỉ hai hình thức sở hữu như trong nền kinh tế cũ.
+ Hình thức thứ nhất: sở hữu toàn dân
Theo quan niệm cũ, sở hữu toàn dân thuộc về công hữu, do nhà nước trực tiếp đứng
ra quản lý. Hiện nay, quan niệm đó đã có nhiều thay đổi. Theo hiến pháp và luật đất
đai quy định: "đất đai thuộc sở hữu toàn dân". Xét về mặt kinh tế, đất đai là phương
tiện tồn tại của cả một cộng đồng. Về mặt xã hội, đất đai là nơi cư trú của cả một
cộng đồng việc đất đai là sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện quản lý không
hề mâu thuẫn với việc tạo quyền sở hữu.v..v.Văn kiện đại hội Đảng lần thứ VII đã
chỉ rõ: "Trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, ruộng đất được giao cho nông
dân sử dụng lâu dài. Nhà nước quy định bằng luật pháp các vấn đề thừa kế, chuyển
nhượng, sử dụng đất đai". Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Như vậy,
hình thức sở hữu toàn dân ở nước ta đã được xác định theo nội dung mới.
+ Hình thức sở hữu thứ hai: sở hữu nhà nước
Trong cơ chế cũ, sở hữu nhà nước thường không có sự tách biệt với sở hữu toàn
dân. Do vậy mà trong một thời gian dài người ta chỉ quan tâm tới sở hữu toàn dân
mà bỏ quên hình thức sở hữu Nhà nước. Vì vậy mà chúng ta đã ra sức quốc doanh
hoá nền kinh tế với sù tin chắc chỉ như vậy mới đi đến chủ nghĩa xã hội. Nhưng sự

thực, sở hữu toàn dân không thuộc quyền sở hữu của một cá nhân nào. Hình thức sở
hữu nhà nước xét về tổng thể mới chỉ là kết cấu bên ngoài của sở hữu. Còn kết cấu
bên trong của sở hữu nhà nước ở nước ta là khu vực kinh tế quốc doanh, khu vực
các doanh nghiệp nhà nước.v.v...
+ Hình thức thứ ba: sở hữu tập thể
Ở nước ta trước đây, hình thức sở hữu tập thể chủ yếu tồn tại dưới hình thức hợp tác
xã (gồm cả hợp tác xã nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp) mà các xã viên là chủ


sở hữu chính. Vì vậy mà với hình thức sở hữu này, quyền mua bán hoặc chuyển
nhượng tư liệu sản xuất, trong thực tế sản xuất và lưu thông ở nước ta đã diễn ra hết
sức phức tạp. Quyền của các tập thể sản xuất thường rất hạn chế, đôi khi còn có tình
trạng lạm phát. Sự không xác định, sự "nhập nhằng" với quyền sở hữu nhà nước và
với sở hữu tư nhân trá hình cũng là hiện tượng phổ biến. Để thoát khỏi tình trạng
đó, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện nay, cần xác định rõ quyền mua,
bán, chuyển nhượng tư liệu sản xuất đối với các tập thể sản xuất kinh doanh. Như
vậy thì sở hữu tập thể mới trở thành hình thức sở hữu có hiệu quả.
Như chóng ta biết,hợp tác xã không phải là hình thức đặc trưng cho nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà là hình thức sở hữu tiến bọ trong thời
kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy chúng ta cần duy trì và phát triển hơn nữa hình
thức này khi xây dựng chủ nghĩa xã hội, như V.I.Lênin đã khẳng định: "chế độ của
người xã viên hợp tác xã văn minh là chế độ xã hội chủ nghĩa".
Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hoá, các nhu cầu kinh tế về vốn, cung ứng vật
tư, tiêu thụ sản phẩm đòi hỏi các hộ sản xuất phải hợp tác với nhau mới có khả năng
phát triển. Thực tiễn ở nước ta hiện nay đã có những hình thức hợp tác xã kiểu mới
ra đời cho nhu cầu tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường. Điều này cho thấy
kết cấu bên trong của sở hữu tập thể đã thay đổi phù hợp với thực tiễn ở nước ta
hiện nay.
Thứ ba: xét mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người
XHCN.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có
con người XHCN, yếu tố con người giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp
cách mạng, bởi vì con người là chủ thể của mọi sáng tạo, của mọi nguồn của cải vật
chất và văn hoá con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong
phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội


mới, là mục tiêu của XHCN, chóng ta phải bắt đầu từ con người, lấy con người làm
điểm xuất phát.
Xuất phát từ sự phân tích trên đây, chúng ta thấy rằng đổi mới ở nước ta hiện nay
không thể xây dựng và phát triển con người nếu thiếu yếu tố kinh tế thị trường. Việc
xây dựng củng cố, hoàn thiện cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng XHCN cũng đồng nghĩa với việc tạo ra điều kiện vật chất cơ bản để
thực hiện chiến lược xây dựng, phát triển con người xã hội chủ nghĩa.
Trong những năm qua, kinh tế thị trường ở nước ta đã được nhân dân hưởng ứng
rộng rãi và đi vào cuộc sống nhanh chóng, góp phần khơi dậy nhiều tiềm năng sáng
tạo, làm cho nền kinh tế sống động hơn, bộ mặt thị trường được thay đổi và sôi
động hơn. Đây là kết quả đáng mừng, đáng được phát huy, nó thể hiện sự phát hiện
và vận dụng đúng đắn các quy luật xã hội. Quá trình biện chứng đi lên CNXH từ
khách quan đang trở thành nhận thức chủ quan trên quy mô toàn xã hội.
Những phân tích trên cho thấy, kinh tế thị trường là mục tiêu xây dựng con người
XHCN là một mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn nước ta hiện nay. Đây chính là
hai mặt đối lập của một mâu thuẫn xã hội, giữa quá trình xây dựng con người vừa
có sự thống nhất, vừa có sự đấu tranh. Kinh tế thị trường vừa tạo ra những điều kiện
để xây dựng, phát huy nguồn lực con người, vừa tạo ra những độc tố huỷ hoại con
người. Việc giải quyết mâu thuẫn trên đây là việc làm không đơn giản. Ở nước ta,
mâu thuẫn giữa nền kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người CNXH được
giải quyết bằng vai trò lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước theo định
hướng XHCN. Đảng ta xác định: "Sản xuất hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa
xã hộ mà là thành tựu nền phát triển văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần

thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng". Như vậy
Đảng ta đã vạch rõ sự thống nhất giữa nền kinh tế thị trường với mục tiêu xây dựng
con người XHCN. Việc áp dụng cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực
quản lý tầm vĩ mô của nhà nước, đồng thời xác nhận đầy đủ chế độ tự chủ của các
đơn vị sản xuất kinh doanh. Thực hiện tốt vấn đề này sẽ góp phần phát huy tcá động


tích cực to lớn cũng như ngăn ngõa, hạn chế, khắc phục những tiêu cực, khiếm
khuyết của kinh tế thị trường. Các hoạt động kinh doanh phải hướng vào phục vụ
xây dựng nguồn lực con người. Cần phải tiến hành các hoạt động văn hoá, giáo dục
nhằm xoá bỏ tâm lý sùng bái đồng tiền, bấp chấp đạo lý, coi thường các giá trị nhân
văn. Phải ra sức phát huy các giá trị tinh thần nhân đạo, thẩm mĩ, các di sản văn
hoá, nghệ thuật của dân téc như nội dung của nghị quyết T.W V đã nêu. Đây chính
là công cụ, phương tiện quan trọng để tác động, góp phần giải quyết mâu thuẫn này.
2.3. Những giải pháp.
Qua những phân tích trên, ta thấy cơ chế thị trường cùng với những mâu thuẫn nội
tại của nó có rất nhiều những ưu thế như: Nó kích thích hoạt động của các chủ thể
kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ. Bên cạnh đó, kinh tế thị
trường còn điều tiết khối lượng hàng hoá,...phù hợp với nhu cầu của thị trường,thực
hiện một cách tối ưu các nguồn lực kinh tế thị trường mềm dẻo hơn sự điều chỉnh
của cơ quan nhà nước, có khả năng thích nghi cao hơn trước những điềukiện kinh tế
- chính trị biến đổi. Tuy vậy, cơ chế của nền kinh tế thị trường cũng gây không Ýt tá
động xấu như: phân hoá giàu nghèo ngày một rõ rệt, khoảng cách giàu nghèo ngày
càng xa. Ngoài ra, mục đích của các chủ thể kinh tế là tối đa hoá lợi nhuận nên có
thể lạm dụng tài nguyên xã hội, gây ô nhiễm môi trường.v.v..Bởi vậy tất yếu nảy
sinh yêu cầu có sự điều tiết của nhà nước. Để thực hiện các chức năng kinh tế của
mình, nhà nước cần thực hiện tốt các nội dung và các công cụ để quản lý như: áp
dụng hệ thống luật pháp, các chính sách, các kế hoạch, các công cụ kinh tế đối
ngoại...để điều tiết nền kinh tế vĩ mô, nhằm xây dựng nền kinh tế mới hoạt động
theo cơ chế của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Mâu thuẫn là khách quan, là nguồn gốc, là động lực của sự phát triển nên nắm được
bản chất của sự vật cần phải phân đôi các thống nhất và nhận thức các bộ phận đối
lập của chúng.


Mâu thuẫn là phổ biến, đa dạng, trong đó khi nhận thức và hoạt động thực tiễn phải
có phương pháp luận phân tích mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn một cách cụ thể.
Việc giải quyết mẫu thuẫn chỉ bằng con đường đấu tranh các mặt đối lập và với
những điều kiện đã chín muồi.

Quy luật vận động của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay cũng không nằm ngoài quy luật đã nêu trên. Thực tiễn kinh tế đát
nước từ khi chuyển sang mô hình kinh tế mới đã và đang chứng minh tính khách
quan khoa học, tính hiệu quả cao của cơ chế kinh tế mới đó. Nhưng chúng ta chưa
thể xem đó là mô hình thiết kế hoàn chỉnh mà cần có thời gian và kinh nghiệm thực
tiễn để bổ sung, phát triển và hoàn thiện mô hình đó.



×