Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Sự vận dụng quan điểm của v i lênin về đảng viên, và các nguyên tắc tổ chức của đảng của đảng ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.57 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
V.I Lê-Nin (22/4/1870 – 21/01/ 1924). Sinh ra và lớn lên trong một
gia đình trí thức Nga tiến bộ tại thành phố Xim-Biếc. Khi còn nhỏ. Ông là
một người học rất xuất sắc và luôn đạt kết quả học tập rất cao. Sau khi tốt
nghiệp trường trung học cổ điển ở Xim-Biếc. Năm 1877 Lê-Nin vào học
khoa luật ở trường Đại học Ca-Dan. Năm 17 tuổi Lê-Nin bị bắt và đày về
làng Cô-cư-sơ-ki-nô, cách Ca-Dan cách 40 dặm Nga. Tại đây ông đã tham
gia vào phong trào đấu tranh cách mạng ở Nga (Vào tháng chạp 1887)
Sau cách mạng Tháng Mười vấn đề Đảng cầm quyền luôn được
V.I.Lênin quan tâm và đã được ông đề cập trong nhiều bài viết và tác phẩm
lý luận. Năm 1894 Lê-Nin viết tác phẩm “Những người bạn dân là thế nào
và họ đấu tranh chống những người dân chủ xã hội ra sao”. Năm 1895 ông
viết bản “Dự thảo cương lĩnh của Đảng”. Mùa hè năm 1896 ông viết bản
“Dự thảo và thuyết minh cương lĩnh của Đảng dân chủ xã hội”. “Thuyết
minh về cương lĩnh”. Cuối năm 1897, trong khi bị đày ở Xi-bê-ri. Lê-Nin
viết tác phẩm “Nhiệm vụ của những người dân chủ xã hội Nga”. Năm
1899. Ông viết tác phẩm “Sự phát triển của nghĩa tư bản ở Nga”.v.v…
Năm 1904 ông viết tác phẩm “Một bước tiến, hai bước lùi”.
Và đặc biệt hơn cả ông đã đề cập đến những vấn đề quan trọng như
vấn đề đảng viên, tổ chức cơ sở Đảng và các nguyên tắc tổ chức của Đảng
trong tác phẩm “Dự thảo cương lĩnh của Đảng”. Mặc dù bước đầu còn khó
khăn, nhưng những nội dung trên là một thứ vũ khí sắc bén để chống lại
phái Mensêvích lúc bấy giờ.
Phát triển quan điểm của C.Mác, Ph. Ăngghen, V.I.Lênin đã xây dựng
chính Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân và chính Đảng kiểu mới của
giai cấp công nhân Nga đã thực hiện vai trò lãnh đạo giai cấp công nhân
Nga hoàn thành nhiệm vụ lịch sử thế giới của mình. Thắng lợi vĩ đại của
Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917 đã mở ra một kỷ
nguyên mới đưa cả loài người quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
1



hội trên phạm vi toàn thế giới. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy rằng. Đảng có
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức mới có khả năng tạo lập, giữ
vững và không ngừng nâng cao được vai trò đó.
Sức mạnh của Đảng được tạo thành và củng cố từ sự vững mạnh của
mỗi tổ chức Đảng và đội ngũ đảng viên cùng với việc thực hiện đầy đủ,
đúng đắn những nguyên tắc tổ chức của Đảng. Mặt khác, sức mạnh của
Đảng cũng được tạo ra và nhân lên thông qua các tổ chức của Đảng và các
đảng viên của đảng.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta khẳng định: phải tự đổi
mới và tự chỉnh đốn, chỉnh đốn Đảng là tiền đề để đổi mới xã hội. Là một
Đảng chiến đấu, một Đảng hành động, Đảng ta coi công tác đảng viên là một
trong những vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu. Chất lượng của tổ chức cơ
sở đảng và đảng viên phản ánh trực tiếp và cụ thể chất lượng của Đảng.
Nâng cao chất lượng đảng viên sẽ góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, từ đó nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của toàn Đảng. Hiện nay vấn đề này càng trở nên quan trọng
và cần thiết, khi mà “Không ít tổ chức đảng yếu kém, nhất là ở cơ sở, không
làm tròn vai trò hạt nhân chính trị và nền tảng của Đảng, không đủ sức giải
quyết những vấn đề phức tạp nẩy sinh từ cơ sở, thậm chí có những tổ chức
cơ sở đảng tê liệt, mất sức chiến đấu. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp, yếu kém cả về phẩm chất và
năng lực; thiếu tính chiến đấu và tinh thần bảo vệ quan điểm, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giảm sút lòng tin, phai nhạt lý
tưởng…”
Trước yêu cầu khách quan và thực tế công tác đổi mới, chỉnh đốn Đảng
ta hiện nay, em chọn vấn đề “Sự vận dụng quan điểm của V.I.Lênin về
đảng viên, và các nguyên tắc tổ chức của Đảng của Đảng ta” làm đề tài
tiểu luận cho học phần: Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin Hồ
Chí Minh về Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước.


2


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG CỦA V.I.LÊNIN VỀ ĐẢNG VIÊN
Về đảng viên
Tháng 3/ 1898. Đại hội lần thứ nhất của Đảng công nhân dân chủ xã
hội Nga họp đã tuyên bố thành lập Đảng. Kết quả của đại hội đã bầu được
Ban chấp hành trung ương, nhưng không thông qua cương lĩnh. Điều lệ
Đảng. Sau đại hội khoảng một thời gian dài. Đảng coi như bị tê liệt về tư
tưởng phân tán cũng như cả về tổ chức. Đảng không có cơ quan lãnh đạo
tập trung thống nhất. Trước tình hình đó Lê-Nin viết tác phẩm “Làm gì”
chuẩn bị về mặt tư tưởng cho việc thành lập Đảng và viết tác phẩm “Hai
sách lược của Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga” trong cách mạng dân
chủ mang tính chất xây dựng cương lĩnh chính trị của Đảng.
Với tinh thần và nỗ lực không mệt mỏi của Lê-Nin và những người
bạn cùng chiến đấu của Người. Đại hội II của Đảng công nhân dân chủ xã
hội Nga đã triệu tập vào tháng 7/1930. Mục đích của đại hội II là: Thông
qua cương lĩnh, thông qua điều lệ. Bầu BCHTW, bầu ban biên tập báo “Tia
lửa”. Đại hội là bước ngoặt trong phong trào công nhân thế giới. Bầu được
BCHTW, Lãnh đạo các cơ quan đảng. Ban biên tập báo tia lửa tập trung
thành một Đảng thống nhất từ những tổ chức Mác-xít rời rạc.
Trong quá trình đại hội. Lê-Nin và Mác-tốp đã mâu thuẫn về khoản 1.
Điều I. Điều lệ Đảng (Điều kiện để trở thành đảng viên) dẫn đến việc Đảng
chia làm 2 phái: Phái Bônsêvích do Lê-Nin đứng đầu. Phái Mensêvích do
Mác-tốp đứng đầu. Trong dự thảo của Mác-tốp ghi rất rõ: “Tất cả những
người nào thừa nhận cương lĩnh của Đảng, hoạt động tích cực để thực hiện
các nhiệm vụ của đảng dưới sự kiểm soát và chỉ đạo của các cơ quan của
Đảng thì đều được coi là đảng viên công nhân dân chủ xã hội Nga”

Lê-Nin trong dự thảo cũng ghi rất rõ: “Tất cả những người nào thừa
nhận cương lĩnh của Đảng và ủng hộ Đảng bằng những phương tiện vật
3


chất cũng như bằng cách tự mình tham gia một trong những tổ chức của
Đảng thì được coi là đảng viên của Đảng”
Như vậy, một câu hỏi đặt ra. “Đảng viên phải là người như thế nào”
và “như thế nào gọi là người đảng viên” v.v…
Qua hai định nghĩa của Lê-Nin và Mác-tốp chúng ta thấy sự khác
nhau căn bản về Điều 1 trong Điều lệ Đảng giữa công thức của Lê-Nin và
công thức của Mác-tốp.
Qua đó chúng ta cũng thấy trong công thức của Lê-Nin cũng đã nêu
cao vị trí, trách nhiệm của người đảng viên cộng sản. Đảng viên là những
người ưu tú nhất trong giai cấp công nhân, đảng viên mang tính tiền phong
trong lý luận và trong hành động thực tiễn, gương mẫu trước quần chúng
nhân dân, bản thân có ý thức phấn đấu vươn lên.
Như vậy về mặt thực tiễn: Những người cộng sản là bộ phận kiên
quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận cổ vũ tất
cả những bộ phận khác.Về mặt lý luận họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp
vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả của phong
trào vô sản.
Và trong công thức của Lê-Nin cũng nhấn mạnh: Bảo đảm sự trong
sạch của đội ngũ đảng viên, trong hàng ngũ của đảng chỉ bao gồm những
đại biểu ưu tú của giai cấp vô sản, có giác ngộ nhất, có tính tổ chức và kỷ
luật cao nhất, những người thực hiện sự phấn đấu quên mình cho lý tưởng,
mục đích của Đảng của giai cấp vô sản.
Một nội dung quan trọng nữa cũng được Lê-Nin đề cập trong công
thức của ông. Đó là: Phân biệt ranh giới rõ ràng giữa những người thực sự
hoạt động cho Đảng và những kẻ nói suông, phân biệt dứt khoát giữa người

cách mạng chân chính với kẻ cơ hội.
Lê-Nin cũng nhấn mạnh: Phải đảm bảo cho Đảng thật sự là một khối
đoàn kết thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đảm bảo thật sự cho

4


đảng có sức mạnh. Thật sự có uy tín sâu rộng đối với giai cấp công nhân,
đối với quảng đại quần chúng nhân dân lao động và đối với dân tộc.
Quan điểm của Lê-Nin về tiêu chuẩn đảng viên cộng sản mà ông đưa
vào trong dự thảo Điều lệ công nhân dân chủ xã hội Nga và trình bày trước
đại hội II của Đảng là một nội dung cực kỳ quan trọng, một nội dung đấu
trannh quyết liệt sau khi đã thông qua được cương lĩnh và cuối cùng ông đã
xác định kẻ cơ hội, ba hoa mà đứng đầu là Mác-tốp với công thức mơ hồ,
không rõ ràng về Điểm 1 của dự thảo Điều lệ Đảng lúc bấy giờ.
Mỗi người tham gia bãi công, tham gia biểu tình là đảng viên.
Công thức của Mác-tốp hướng tới một tổ chức đảng lỏng lẻo. Đảng không
có hình thức tổ chức chặn chẽ, công thức của Mác-tốp không bắt buộc mỗi
đảng viên phải tham gia vào một tổ chức nào của Đảng, xem đảng như một
câu lạc bộ, mọi người có thể tự nhận mình là đảng viên. Qua công thức của
Mác-tốp chúng ta cũng thấy ông đề cập đến sự vô hiệu hóa chế độ tập trung
trong đảng, các bộ phận, các tổ chức trong Đảng không cần phục tùng toàn
bộ, không phục tùng BCHTW, bộ phận có quyền tự trị khi quyết đinh
những quan hệ của nó với toàn bộ. Trong đảng có thể tồn tại nhiều nhóm tự
do. Phái Mác-tốp cho rằng: Thiểu số phải phục tùng đa số, đảng viên phải
phục tùng nghị quyết của Đảng là chủ nghĩa hình thức, không nên bắt buộc
mọi đảng viên từ lãnh tụ đến đảng viên thường đều phải tuân thủ kỷ luật
của Đảng, và với cách làm như vậy là thiết lập “chế độ chuyên chế”, chế
độ nông nô trong đảng.
Còn Lê-Nin chỉ rõ: Trên thực tế, công thức đó phục vụ cho những lợi ích

của những người tri thức tư sản sợ kỷ luật và tổ chức của những người của
những người vô sản.
Về tư cách người đảng viên cộng sản.
Sau thắng lợi của cách mạng Tháng Mười, khi đã trở thành Đảng cầm
quyền, nhiệm vụ chủ yếu của Đảng là lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ tổ quốc,
xây dựng chủ nghĩa xã hội, quản lý đất nước. Đây là nhiệm vụ mới mẽ và
5


đầy khó khăn, vì phải tổ chức theo phương thức mới, những cơ sở kinh tế
của đời sống hàng chục, hàng trăm triệu con người. V.I.Lênin đã phát triển
những quan điểm của mình về vai trò, hình mẫu, tiêu chuẩn người đảng
viên cộng sản đáp ứng nhiệm vụ của giai đoạn mới.
Theo V.I.Lênin, tiêu chuẩn của người đảng viên cộng sản trong điều
kiện Đảng cầm quyền thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:
- Trước tiên: đảng viên cộng sản là người giác ngộ lý tưởng cộng
sản chủ nghĩa.
Ở nội dung thứ nhất này thể hiện sự tự nguyện nhiệt tình đi theo chủ
nghĩa cộng sản, trung thành tuyệt đối với hệ tư tưởng của giai cấp công
nhân, với sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Sự giác ngộ, lòng trung thành ấy phải được thể hiện bằng sự nhất trí, tin
tưởng, gương mẫu chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, không đòi hỏi lợi lộc,
sẵn sàng gánh vác một công tác gian khổ hơn và nguy hiểm hơn. Trong bài
“Báo cáo về vai trò và nhiệm vụ của công đoàn tại phiên họp của Đảng
đoàn Đảng cộng sản trong Đại hội ngày 23 tháng giêng” V.I.Lênin viết:
“Trong Đảng, chúng ta cũng đã đấu tranh hơn 20 năm, chúng ta đã chứng
minh bằng việc làm, chứ không phải bằng lời nói suông cho công nhân
thấy rằng Đảng là một tổ chức đặc biệt, đảng cần có những con người giác
ngộ, sẵn sàng hy sinh tính mạng, đảng phạm sai lầm thì đảng sửa chữa,

đảng lãnh đạo và lựa chọn những người biết rõ con đường mà chúng ta sẽ
đi, biết rõ khó khăn mà chúng ta sẽ gặp”
Thứ hai: đảng viên cộng sản phải có trình độ văn hoá, lý luận,
chuyên môn nghiệp vụ và năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, người đảng viên cộng sản
được bố trí vào hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh
tế, văn hoá, xã hội của đất nước, vì vậy họ phải thấu hiểu công việc mà
mình được giao, nghĩa là phải có tri thức nhất định, phải thông thạo chuyên
6


môn. Cái thiếu của người đảng viên cộng sản chính là ở “ trình độ văn
hoá”, làm cho họ gặp nhiều khó khăn trong việc hoàn thành nhiệm vụ được
giao và giữ vững vai trò lãnh đạo, làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong trước
quần chúng trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin dạy rằng:
“Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm giàu trí óc của
mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo
ra”. V.I.Lênin đã dặn đi dặn lại những người cộng sản rằng: nếu chỉ có
nhiệt tình và lòng dũng cảm không thôi thì không thể chiến thắng được chủ
nghĩa tư bản, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, mặc dù nhiệt tình cách
mạng và lòng dũng cảm là yếu tố cực kỳ quan trọng. Để chiến thắng được
chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, những người cộng
sản còn phải có kiến thức, có trình dộ văn hóa cao, có trí thông minh và
năng lực làm việc. Muốn thế phải không ngừng học tập, học tập một cách
kiên trì và nghiêm túc; đừng bằng lòng với những kinh nghiệm của mình;
kiêu ngạo cộng sản là báo hiệu sự tục hậu. V.I.Lênin nhấn mạnh rằng,
những người cộng sản, dù đó là những người cộng sản đã từng làm nên
cuộc cách mạng vĩ đại chưa từng thấy trên thế giới, vẫn cần phải học tập,
học tập ngay một người bán hàng tầm thường. Người sẵn sàng đổi một tá
những người cộng sản kém hiểu biết để lấy một chuyên gia thành thạo công

việc, dù đó là chuyên gia tư sản. Vì vậy, V.I.Lênin còn yêu cầu những
người cộng sản “ phải biết quý trọng khoa học, gạt bỏ thái độ huênh hoang
“cộng sản” của những nhà tài tử và của những anh chàng quan liêu, phải
học tập làm việc một cách có hệ thống, sử dụng chính ngay kinh nghiệm
của mình và thực tiễn của mình!”
Thứ ba: người đảng viên cộng sản phải có ý thức tổ chức kỷ luật
cao.
Người phê phán kịch liệt những thói quen dẫn đến vi phạm kỷ luật
đảng như: tính tự do tiểu tư sản, tính tản mạn, vô tổ chức kỷ luật, chia rẽ,
bè phái… Đảng cầm quyền lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở những
7


nước mà giai cấp vô sản chiếm thiểu số trong dân cư thì “chính đảng của
giai cấp vô sản phải thực hiện được, trong nội bộ của mình, một chế độ tập
trung chặt chẽ và một kỷ luật nghiêm ngặt”.
Thứ tư: người đảng viên cộng sản phải gắn bó mật thiết với quần
chúng, giáo dục, tổ chức quần chhúng thực hiện thắng lợi đường lối,
chính sách của Đảng, là tấm gương mẫu mực cho quần chúng noi theo.
V.I.Lênin viết: “Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội không phải là việc
riêng của Đảng cộng sản… mà là việc của tất cả quần chúng lao động”.
Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với dân. Vì thế,
“chỉ trông vào bàn tay của những người cộng sản để xây dựng xã hội cộng
sản, đó là một tư tưởng hết sức ngây thơ. Những người cộng sản chỉ là một
giọt nước trong đại dương, một giọt nước trong đại dương nhân dân”.
Song, họ có thể lãnh đạo nhân dân đi theo con đường của mình nhờ họ
vạch ra được và gương mẫu thực hiện đường lối, chính sách đúng đắn, gắn
bó mật thiết với quần chúng, tuyên truyền, giáo dục cho quần chúng hiểu
và tổ chức quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách ấy. Trong
quá trình đó, đảng viên phải nêu tấm gương mẫu mực về lòng trunh thành

với chủ nghĩa cộng sản, về ý thức tổ chức kỷ luật, phẩm chất đạo đức và lối
sống, nhất là học tập và công tác. Trong quan hệ với quần chúng, đảng viên
phải tìm hiểu, nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng và các sáng kiến của họ,
phải giải quyết các nhu cầu chính đáng của nhân dân, nhưng không được hạ
thấp trình độ của mình xuống ngang với quần chúng, không được mị dân,
theo đuôi quần chúng.

8


CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG CỦA V.I.LÊNIN VỀ CÁC NGUYÊN
TẮC TỔ CHỨC CỦA ĐẢNG
Quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài trong những điều kiện khác
nhau. Mỗi tổ chức muốn tồn tại và phát triển thì không chỉ có sự thống nhất
cả ý chí và hành động mà còn phải có cả những nguyên tắc để liên kết các
thành viên, thống nhất và điều khiển hành vi của các thành viên, vì vậy LêNin coi nguyên tắc giữ vai trò như những “Đinh chốt” của một “dây sích”.
Thiếu các nguyên tắc về tổ chức thì sẽ không thành tổ chức và do đó không
có sự thống nhất, với tư cách là “Đảng công nhân dân chủ xã hội Nga” thì
càng phải có những nguyên tắc cơ bản để cố kết các thành viên.
Từ thực tiễn và tầm quan trọng trên. Lê-Nin đã đưa ra những nguyên
tắc cơ bản về xây dựng Đảng vô sản kiểu mới trong tác phẩm “Một bước
tiến, hai bước lùi” 1.1. như sau:
Thứ nhất, Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân
Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân đã được Mác-Ăngghen nêu ra trong tuyên ngôn của Đảng cộng sản năm 1848. Lúc này vì để
chống lại quan điểm của phái Mensêvích chủ trương xóa nhòa ranh giới
giữa đảng và giai cấp, coi đảng và giai cấp là một, Lê-Nin phải khẳng định
lại: Đảng là “Đội tiên phong của giai cấp công nhân, với toàn bộ giai cấp” .
Người chỉ rõ rằng, những người nào nghĩ rằng dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa, gần hết toàn bộ giai cấp hay toàn bộ giai cấp một ngày kia sẽ đủ sức
vươn mình lên đến chỗ đạt tới trình độ giác ngộ và tích cực của đội tiên

phong của mình, của đảng dân chủ xã – hội của mình thì người ấy sẽ mắc
cái bệnh của Manilốp và “chủ nghĩa theo đuôi”. Dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa, ngay cả tổ chức công đoàn (…) cũng không đủ sức bao hàm gần hết
hay toàn bộ giai cấp công nhân
Là đội tiên phong, Đảng trung thành tuyệt đối với sự nghiệp của giai
cấp công nhân, có lý luận tiên phong và có tổ chức chặn chẽ.
Thứ hai, Đảng là bộ phận có tổ chức của giai cấp công nhân
9


Trong tác phẩm “Làm gì”, Lê-Nin đã chỉ rõ: “… chỉ đảng nào được
một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò
chiến sĩ tiên phong” Trong tác phẩm này, để chống lại phái Mensêvích với
chủ trương là mọi người bãi công, mọi giáo sư và học sinh đều có thể tự
tuyên bố vào Đảng. Lê- Nin khẳng định lại: Đảng là một đội tiên phong của
giai cấp thì phải có tổ chức. Đảng chỉ nên thu nhận những phần tử ít nhất
cũng phải chấp nhận một tính tổ chức tối thiểu.
Lê-Nin cho rằng: Đảng là bộ phận có tổ chức, điều đó có nghĩa. Đảng
là một chính thể có cố kết vững chắc, có kỷ luật nghiêm minh chặt chẽ,
quy định rõ những mối quan hệ giữa cá nhân với tổ chức, giữa bộ phận này
với bộ phận khác, giữa bộ phận với toàn bộ,v.v…
Lê-Nin còn nhấn mạnh rằng, trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư
sản, giai cấp vô sản không có vũ khí nào tốt hơn là sự tổ chức; Rằng tổ
chức quả là một vũ khí nhờ đó mà giai cấp vô sản sẽ tự giải phóng; rằng,
đối với giai cấp vô sản thì tổ chức là vũ khí đấu tranh giai cấp.
Thứ ba, Đảng là hình thức tổ chức cao nhất của giai cấp công
nhân
Theo Lê-Nin, Đảng chẳng là những đội tiên phong, đội tiên phong có
tổ chức mà còn là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân. Lê-Nin viết:
“Chúng ta là Đảng của giai cấp, bởi vậy hầu như toàn bộ giai cấp (và

trong thời kỳ chiến tranh, trong thời kỳ nội chiến thì toàn bộ giai cấp
không trừ một người nào cả) cần phải hoạt động dưới sự lãnh đạo của
Đảng ta, phải triệt để xiết thật chặt hàng ngũ chung quanh Đảng”
Sở dĩ Đảng có trách nhiệm và khả năng lãnh đạo tất cả các tổ chức của
giai cấp công nhân, hướng mọi hoạt động của tất cả các tổ chức của giai
cấp công nhân vào một mục đích chung là thủ tiêu chế độ bóc lột, xây dựng
chế độ xã hội chủ nghĩa. Vì Đảng bao gồm những phần tử tiên tiến giác
ngộ nhất, được vũ trang bằng lý luận khoa học và có tổ chức chặt chẽ.
Thứ tư, Đảng được tổ chức theo chế độ tập trung
10


Để xứng đáng là đội tiên phong có tổ chức và là tổ chức cao nhất của
giai cấp thì Đảng phải được tổ chức theo chế độ tập trung.
Chế độ tập trung đòi hỏi Đảng phải có một điều lệ thống nhất, một kỷ
luật thống nhất, một cơ quan lãnh đạo thống nhất, số ít phục tùng số nhiều,
cấp dưới phục tùng cấp trên, toàn Đảng phục tùng Đại hội Đảng toàn quốc
và BCHTW. Chỉ có như vậy mới bảo đảm cho Đảng thật sự thống nhất và
do đó mới thật sự có sức mạnh.
Lê-Nin cũng khẳng định: Bênh vực chế độ tự trị, chống lại chế độ tập
trung, là một đặc điểm có tính nguyên tắc của chủ nghĩa cơ hội trong các
vẫn đề tổ chức. Người chỉ ra biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân của những
phần tử trí thức tham gia phong trào xã hội dân chủ là: “Cái tâm lý của
người trí thức tư sản của mình là ở trong số “những người được lựa
chọn” đứng trên tổ chức quần chúng và kỷ luật quần chúng”. Lê-Nin cũng
nhấn mạnh tập trung không có nghĩa là xem nhẹ dân chủ, tập trung phải đi
đôi với dân chủ, tập trung và dân chủ là hai mặt không thể tách rời trong
chế độ tổ chức của Đảng Mác-xít.
Thứ năm, Đảng là hiện thân của sự liên lạc giữa đội tiên phong
của giai cấp công nhân và đông đảo quần chúng nhân dân lao động

Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân chứ không phải bao
gồm hết toàn bộ giai cấp. Vậy đội tiên phong đó muốn tồn tại, phát triển và
có đủ lực lượng, sức mạnh hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình thì
phải liên hệ chặn chẽ với quần chúng. Lê-Nin viết; “Muốn trở thành một
Đảng dân chủ xã hội thì cần phải được sự ủng hộ của chính giai cấp…”
Trong mối liên hệ với quần chúng, Đảng phải khắc phục khuynh
hương lêch lạc, vượt quá xa trình độ của quần chúng, xa rời quần chúng,
đồng thời cũng đề phòng khuynh hướng theo đuôi, hạ thấp trình độ Đảng
ngang trình độ quần chúng. Lê-Nin viết: “Chúng ta sẽ chỉ tự lừa dối mình,
nhắm mắt trước những nhiệm vụ bao la của chúng ta, thu hẹp những
nhiệm vụ đó lại, nếu chúng ta quên mất sự khác nhau giữa đội tiền phong
11


và tất cả số quần chúng hướng theo đội tiện phong đó: nếu chúng ta quên
mất rằng đội tiền phong có nghĩa vụ thường xuyên phải nâng các tầng lớp
ngày càng đông đảo đó lên trình độ tiên tiến ấy”.
Thứ sáu, phê bình và tự phê bình là quy luật phát triển của Đảng
Theo Lê-Nin. Đảng phải luôn luôn tự phê bình và phê bình, tự vạch ra
sai lầm khuyết điểm, phân tích rõ nguyên nhân và tìm cách sửa chữa. LêNin coi đây là một trong những căn cứ quan trọng để xem xét một Đảng có
thật sự là Đảng Mác-xít chân chính hay không. Trong tác phẩm này. LêNin đã vạch mặt phái Mênsêvích lợi dụng phê bình và phê bình vô nguyên
tắc “Ngồi lê đôi mách ở bên ngoài đại hội”, Người cho đó là hành vi vu
khống, là hành động thiếu nhân cách.
Đảng ra đời, tồn tại, phát triển là để lãnh đạo cách mạng. Để thực hiện
tốt nhiệm vụ vẽ vang đó, Đảng phải được xây dựng ngày càng vững mạnh.
Song thực tiễn cách mạng luôn luôn vận động, nhiệm vụ cách mạng ngày
càng nặng nề, phức tạp hơn, hoạt động lãnh đạo của Đảng tuy đã được chủ
nghĩa Mác-Lênin soi sáng, dẫn dắt cũng không thể có những chỉ dẫn cặn kẽ
trong hoạt động xây dựng nội bộ đảng cũng như trong lãnh đạo cách mạng
Đảng khó tránh khỏi sai lầm, khuyết điểm. Theo V.I.Lênin, trong quá trình

lãnh đạo Đảng “Không thể tránh khỏi những khuyết điểm, sai lầm, thiếu sót
được. Ai sợ khó khăn trong việc kiến thiết xã hội chủ nghĩa, ai để cho khó
khăn đó làm cho mình khiếp đảm, ai tỏ ra tuyệt vọng hay hoang mang hèn
nhát, người đó không phải là một người xã hội chủ nghĩa”. Vì vậy, Đảng
phải vừa làm, vừa tổng kết, rút kinh nghiệm, tức Đảng phải coi trọng tự phê
bình và phê bình, trước hết là tự phê bình.
V.I.Lênin cho rằng: “Thái độ của một chính đảng trước những sai lầm
của mình là một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất và chắc chắn
nhất để xem xét đảng ấy có nghiêm túc không và có thật sự làm tròn nghĩa
vụ của mình đối với giai cấp mình và đối với quần chúng lao động không.
Công khai thừa nhận sai lầm, tìm ra nguyên nhân sai lầm, phân tích hoàn
12


cảnh đã đẻ ra sai lầm, nghiên cứu cẩn thận những biện pháp để sửa chữa
sai lầm ấy, - đó là dấu hiệu chứng tỏ một đảng nghiêm túc, đó là đảng làm
tròn những nghĩa vụ của mình, đó là giáo dục và huấn luyện giai cấp, rồi
đấn quần chúng”, và “Chúng ta không nên che giấu những sai lầm của
chúng ta trước kẻ thù. Ai sợ điều đó, người ấy không phải người cách
mạng. trái lại, nếu chúng ta tuyên bố công khai với công nhân: “Phải,
chúng tôi đã phạm sai lầm”, như thế có nghĩa là từ nay về sau chúng ta
không tái phạm những sai lầm đó nữa và chúng ta sẽ biết lực chọn thời cơ
một cách tốt hơn”, “Nếu cứ giữ mãi sai lầm, đi sâu thêm để bào chữa cho
nó, “đưa nó đến chổ tột cùng” thì từ một sai lầm chỏ, người ta luôn luôn
có thể làm cho nó thành một sai lầm ghê gớm”. Hơn nữa, “…Những sai
lầm thường khi lại bổ ích, nếu người ta học tập được những sai lầm đó,
nếu những sai lầm đó tôi luyện con người”.

13



CHƯƠNG 3: SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG CỦA V.I.LÊNIN VỀ
ĐẢNG VIÊN VÀ CÁC NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC ĐẢNG CỦA ĐẢNG
TA
3.1. Sự vận dụng của Đảng ta về tư tưởng đảng viên của Lênin
Tư tưởng của V.I.Lênin về tiêu chuẩn của người đảng viên cộng sản
và những nguyên tắc cơ bản trong xây dựng đội ngũ đảng viên của Đảng có
ý nghĩa hết sức to lớn trong công tác đổi mới và chỉnh đốn Đảng ta hiện
nay. Việc nghiên cứu, học tập một cách nghiêm túc tư tưởng đó sẽ giúp cho
Đảng ta có cơ sở khoa học trong việc xây dựng hình mẫu, tiêu chuẩn người
đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, trên cơ sở đó làm tốt hơn công tác xây
dựng đội ngũ đảng viên của đảng đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
Trung thành với học thuyết về xây dựng chính Đảng cách mạng của
giai cấp công nhân, từ thực tiễn cách mạng Việt Nam Đảng ta đã vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào việc chăm lo xây dựng đội ngũ đảng
viên, đặc biệt là tư cách người đảng viên cộng sản giữ một vị trí quan trọng
trong công tác xây dựng đảng nói riêng và trong sự nghiệp cách mạng của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động nói chung. Đảng viên là lực lượng
nòng cốt trong bộ máy tổ chức của Đảng và Nhà nước, sức chiến đấu và
năng lực lãnh đạo của đảng cao hay thấp, việc tổ chức thực hiện đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đạt hiệu quả nhiều hay ít phụ
thuộc rất lớn ở chất lượng đội ngũ đảng viên của Đảng.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đưa ra hình mẫu, tiêu chuẩn người đảng viên cộng sản rất
phong phú và sâu sắc, có thể khái quát một số nội dung chủ yếu sau đây.
Người đảng viên cộng sản phải là người:
- Trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênnin; kiên trì phấn đấu vì sự
nghiệp cách mạng của dân tộc và của nhân loại; kết hợp tinh thần yêu nước,
độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước chân chính với
chủ nghĩa quốc tế trong sáng.

14


- Vừa có tài, vừa có đức, đức là gốc; tích cực rèn luyện, nâng cao đạo
đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
- Gắn bó mật thiết với nhân dân; luôn lấy dân làm gốc; vừa là người
lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân; thống nhất lời
nói với vịêc làm; thực hiện “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, đặt lợi
ích của nhân dân lên trên hết, trước hết.
- Luôn giữ gìn đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc
tế.
- Kiên quyết đấu tranh chống các tư tưởng và hành động sai trái, phản
động, trước hết là chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội, bệnh giáo điều.
- Chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật của Đảng, chính sách và pháp luật
của Nhà nước.
Vận dụng một cách sáng tạo quan điểm của Người, Đảng ta đã đề ra
chuẩn mực về tư cách người đảng viên cộng sản phù hợp với yêu cầu của
giai đoạn cách mạng hiện nay. Điều I, Điều lệ Đảng thông qua tại Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta ghi rõ: “Đảng viên Đảng Cộng sản
Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công
nhân Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt
lợi ích của tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên
lợi ích cá nhân, chấp hành nghiêm chỉnh cương lĩnh chính trị, điều lệ
Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước, hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết
với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống
nhất trong Đảng”.
3.2. Sự vận dụng nguyên tắc tổ chức trong Đảng theo quan điểm
của Lênin
Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân. Để làm tròn sứ mệnh

lịch sử của đội tiên phong chiến đấu đó, đảng phải được tổ chức một cách
chặn chẽ, tập trung, thống nhất ý trí và hành động, muốn thực hiện được
15


điều đó thì đảng phải có những nguyên tắc để các thành viên trong tổ chức
Đảng thực hiện một cách tự giác. Qua nghiên cứu các nguyên tắc của LêNin trước cách mạng tháng 10 cho chúng ta thấy, các nguyên tắc đó vẫn
còn nguyên giá trị. Nó đã bảo vệ tính chất tiên phong của Đảng, nâng cao
danh hiệu đảng viên, phòng ngừa phần tử cơ hội vào Đảng, từ đó mà bảo
vệ vai trò tiên phong của Đảng về tổ chức. Nó quy định rõ được những mối
quan hệ giữa cá nhân và tổ chức, giữa bộ phận này với bộ phận khác, giữa
bộ phận với toàn bộ.Nhằm làm cho Đảng thực sự trở thành tổ chức cao
nhất của giai cấp công nhân, ở các nguyên tắc chúng ta cũng thấy đòi hỏi
Đảng phải có một điều lệ thống nhất, một kỷ luật thống nhất, một cơ quan
lãnh đạo thống nhất, số ít phục tùng số nhiều, cấp dưới phục tùng cấp trên,
toàn Đảng phục tùng đại hội Đảng toàn quốc và BCHTW, chỉ có như vậy
mới bảo đảm cho Đảng thật sự thống nhất và do đó mới thật sự có sức
mạnh.Bên cạnh đó các nguyên tắc của Lê-Nin còn có ý nghĩa hết sức to
lớn. Nó vạch trần khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa về mặt tổ chức của phái
Men sê vích, Lê-Nin viết: “Lẽ tự nhiêm là chủ nghĩa cơ hội về mặt cương
lĩnh thì gắn liền với chủ nghĩa cơ hội về mặt sách lược, và gắn liền với chủ
nghĩa cơ hội trong các vấn đề tổ chức.” .
Qua hơn 20 năm đổi mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam, nhân dân có những bước phát triển đáng kể. công cuộc đổi mới ở
nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trên tất cả
các lĩnh vực: kinh tể tăng trưởng, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều loại hình thị trường. Đời sống nhân dân
được cải thiện rõ rệt, những vấn đề về phát triển nền văn hóa, xã hội, con
người có nhiều tiến bộ. Chính trị xã hội ổn định. Hệ thống chính trị và khối
đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Quan hệ đối ngoại

có bước phát triển mới và ngày càng mở rộng trong khu vực và trên thế
giới. Nhận thức về lý luận và tổng kết thực tiễn được đẩy mạnh. Năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu được nâng cao, không ngừng đổi mới hệ thống
16


chính trị, Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh v.v. Nhờ đạt được những
thành tựu trên là do chúng thực hiện tốt sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của
Nhà nước, đặc biệt là chúng ta đã thực hiện tốt các nguyên tắc trong xây
dựng đảng. Đó là nguyên tắc: Tập trung dân chủ. Tự phê bình và phê bình.
Đoàn kết thống nhất trong Đảng. Mối liên hệ giữa Đảng và nhân dân. Hoạt
động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật.
Ngày nay, các thế lực phản động vẫn đang tấn công điên cuồng vào
chủ nghĩa Mác. Đối với nước ta để tiến lên chủ nghĩa cộng sản thì phải kiên
quyết chống lại các luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch
nhằm phủ nhận đường lối đổi mới của Đảng ta, phủ nhận vai trò lãnh đạo
của Đảng và con đường XHCN. Càng ngày sự chống phá của các thế lực
thù địch càng tinh vi hơn, bọn cơ hội chính trị ở trong nước đưa ra các luận
điệu xuyên tạc và phát tán các tài liệu có quan điểm chống đối tuyên truyền
nói xấu chế độ và Đảng ta, xuyên tạc lịch sử, xuyên tạc đường lối, chính
sách, ngoài ra còn cường điệu một số khuyết điểm, sai lầm cụ thể của
chúng ta, lợi dụng những sơ hở của chúng ta để khuyết sâu, nâng cao quan
điểm....để minh chứng cho các luận điệu nguỵ biện thâm hiểm của chúng.
Đặc biệt đáng chú ý là chúng thường dùng các chiêu bài “Dân chủ”, “nhân
quyền”, “Tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo”, “Ly khai dân tộc”… để kích
động, gây rối, chia rẽ nội bộ của Đảng ta.
Trong bối cảnh hiện nay, nhiệm vụ chủ yếu của cuộc đấu tranh chống
chiến lược “Diễn biến hòa bình” trên mặt trận tư tưởng của Đảng là tăng
cường giáo dục một cách sâu rộng trong Đảng và trong toàn xã hội về chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng,

pháp luật của nhà nước. Thực sự coi giáo dục lý luận chính trị cho đảng
viên, cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành, các đoàn thể chính trị xã hội.. . Và
các lực lượng khác trong xã hội đảm bảo cho họ luôn kiên định, giữ vững
mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kiên định
sự lãnh đạo của Đảng, nhất trí cao và có trách nhiệm vận dụng thực hiện
17


thành công nghị quyết đại hội X; mặc khác phải đẩy mạnh công tác nghiên
cứu lý luận để tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh nhằm cung cấp vũ khí lý luận sắc bén, nâng cao hiệu quả công tác
tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ đảng viên và nhân dân
để bác bỏ có hiệu quả các luận điệu sai trái của kẻ thù. Để chiến thắng triệt
để trong cuộc đấu tranh này, điều quan trọng là toàn Đảng, toàn dân phải là
một khối thống nhất nhằm thực hiện thành công tinh thần nghị quyết Đại hội
X của Đảng đề ra: nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng,
phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới,
sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển. Và mỗi thắng lợi trong
sự nghiệp này sẽ tăng thêm hiệu quả của cuộc đấu tranh trên mặt trận tư
tưởng góp phần xây dựng đảng trong sạch vững mạnh trên các lĩnh vực đủ
sức chèo lái con thuyền cách mạng đi đến thắng lợi cuối cùng

18


KẾT LUẬN

Nghiên cứu các tác phẩm kinh điển của V.I.Lênin giúp chúng ta
nhận thức đầy đủ và đúng đắn vai trò lịch sử và sự cống hiến vĩ đại
của ông đối với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân, và càng

khẳng định không có học thuyết nào có thể thay thế được. Nhất là
những tư tưởng về đảng viên, tổ chức cơ sở đảng và các nguyên tắc tổ
chức của Đảng được V.I.Lênin đề cập trong các tác phẩm viết sau
cách mạng Tháng Mười cho đến nay vẫn còn giá trị cả lý luận và thực
tiễn đối với công tác xây dựng Đảng ta trong điều kiện cầm quyền
hiện nay. Qua các tác phẩm V.I.Lênin đã chỉ cho Đảng ta thấy được
rằng: trong công tác đảng viên, công tác tổ chức, công tác cán bộ phải
giữ vững nguyên tắc, không thoả hiệp, phải chăm lo đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, đảng viên, nhất là các bộ chủ chốt. Để phát triển các tổ
chức đảng, điều cốt lõi là phải tổ chức giác ngộ giai cấp công nhân,
đồng thời chăm lo đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho Đảng. Phải thường
xuyên đấu tranh tự phê bình và phê bình, phê bình phải kịp thời, đúng
lúc, đúng chổ, có lý luận sắc bén.
Từ khi khởi xướng sự nghiệp đổi mới, với quan điểm nhìn thẳng
vào sự thật, nói rõ sự thật, tự phê bình và phê bình nghiêm túc, thẳng
thắn chỉ ra được ưu điểm, khuyết điểm, tìm ra nguyên nhân, đề ra giải
phát thiết thực để phát huy tích cực, hạn chế tiêu cực. Nhờ đó mà “sức
mạnh khối đại đoàn kết toàn dân được phát huy, công tác xây dựng
Đảng đạt được kết quả tích cực”.

19


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dẫn theo xây dựng Đảng: Nxb, tập 1, Sách giáo khoa Mác-Lê-Nin, H,
1982.
2. C.Mác, Ăng-ghen: Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1995.
3. V.I.Lê-Nin: Toàn tập, tập 8, Nxb. Tiến bộ, Matxcova, 1978.
4. V.I.Lê-Nin: Toàn tập, tập 34, Nxb. Tiến bộ, Matxcova, 1978.
5. V.I.Lê-Nin: Toàn tập, tập 41, Nxb. Tiến bộ, Matxcova, 1978.

6. I.Lê-Nin: Toàn tập, tập 45, Nxb. Tiến bộ, Matxcova, 1978.
7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
10. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
11. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
12. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
13. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
14. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
15. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 21, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
16. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2002, t. 21.
17. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 37, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
18. Xem Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII. 21. Báo cáo Xây dựng Đảng, Nxb. Sự thật. Hà Nội,
1991.
19. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội, 1996.
20. Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện hội nghị lần thứ VI (lần 2)
BCHTW, Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội, 1999.
20


MỤC LỤC

21




×