Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Ôn thi môn lịch sử nhà nước pháp luật thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.88 KB, 31 trang )

LỊCH SỬ XÂY DỰNG CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC
Chủ đề: Tìm hiểu quá trình hình thành chế độ phong kiến ở Trung Quốc,
cách thức tổ chức Bộ máy nhà nước triều Tần, Hán, Đường.
Quá trình hình thành chế độ phong kiến ở Tây Âu; Sự thiết lập, phát triển và
tan rã của Nhà nước Frăng; Cách thức tổ chức Bộ máy nhà nước của Nhà
nước phong kiến Frăng; Trạng thái phân quyền cát cứ ở Tây Âu.
A: Trung Quốc:
* Sự hình thành nhà nước phong kiến ở Trung Quốc:
- Thời kì Xuân Thu - Chiến Quốc ở Trung Quốc (khoảng thế kỉ V TCN) là
thời kì có nhiều biến động lớn về kinh tế - xã hội, chính trị và văn hoá dẫn
đến sự sụp đổ của chế độ chiếm nô và hình thành chế độ phong kiến ở Trung
Quốc.
- Về mặt kinh tế, công cụ đồ sắt xuất hiện làm cho nông nghiệp và thủ công
nghiệp có điều kiện phát triển mạnh. Quan lại và một số nông dân giàu có đã
lập trung trong tay nhiều của cải. Bằng quyền lực của mình, họ còn tước
đoạt thêm nhiều ruộng đất công. Do đó, một giai cấp mới hình thành - giai
cấp địa chủ bóc lột.
- Cùng với quá trình hình thành giai cấp địa chủ, nông dân cũng bị phân hoá.
Một bộ phận giàu có thì nhập vào giai cấp bóc lột. Số khác vẫn giữ được
ruộng đất dể cày cấy, họ là nông dân tự canh, có nghĩa vụ nộp thuế, đi lao
dịch cho nhà nước. Số còn lại thì nghèo khổ, không có ruộng đất, phải xin
nhận ruộng của địa chủ để cày cấy. Khi nhận ruộng, họ phải nộp một phần
hoa lợi cho địa chủ, gọi là tô ruộng đất. Tầng lớp xã hội cuối cùng này là
những tá điền, hay nông dân lĩnh canh.

1


Như vậy, quan hệ chủ yếu trước kia là quan hệ bóc lột giữa quý tộc đối với
nông dân công xã dần dần nhường chỗ cho quan hệ bóc lột địa tô của địa
chủ với nông dân tự canh. Quan hệ phong kiến do đó mà xuất hiện.


a: Nhà Tần: 221 TCN – 206 TCN
- Tần Thủy Hoàng xây dựng bộ máy chính quyền TW tập quyền theo
chính thể quân chủ chuyên chế.
- Hoàng đế là người nắm mọi quyền lực nhà nước. Dưới Hoàng đế là bộ
máy quan lại TW gồm có Tam Công và Cửu Khanh.
- Tam Công:
+ Thừa tướng.
+ Thái úy.
+ Ngự sử đại phu.
- Cửu Khanh:
+ Phụng thường.
+ Lang trung lệnh.
+ Vệ úy.
+ Đình úy.
+ Thái Bộc.
+ Điền khách.
+ Tông chính.
+ Tri túc nội sử.
+ Thiếu phủ.
- Tất cả được thể hiện thông qua hình ảnh dưới đây:

2


b: Nhà Hán: 206TCN – 220
- Nhà Hán được chia thành 2 giai đoạn:
+ Tây Hán: 206TCN – 9SCN.
+ Đông Hán: 23 – 220.
- Về cơ bản bộ máy nhà nước Triều Hán giống với Nhà Tần nhưng chế độ
TW tập quyền chưa rõ rệt.

- Đến thời Hán Vũ Đế (140 – 87TCN) chế độ TW tập quyền mới được
củng cố.
- Bộ máy chính quyền ở TW vẫn theo chế độ Tam Công và Cửu Khanh,
nhưng Thượng thư lệnh nắm quyền của Thừa tướng.
- Cả nước chia thành 13 Châu, dưới Châu là Huyện.
c: Nhà Đường: 618 – 907
-

Nhà Đường tiến hành cuộc cải cách tổ chức nhà nước nhằm củng cố và
tăng cường chính thể quân chủ chuyên chế.

3


-

Triều Đường là triều đại cực thịnh trong lịch sử phong kiến Trung
Quốc, lừng lẫy hơn cả thời nhà Hán, tổ chúc HC-QS rất chặt chẽ, quân
đội cơ động và linh hoạt, hậu cần giỏi, hoạt động bành trướng và ngoại
giao rộng lớn.

B: Tây Âu:
a: Sự hình thành chế độ phong kiến ở Tây Âu:
- Sự khủng hoảng của chế độ chiếm hữu nô lệ (thế kỉ III – V):
+ Từ thế kỉ thứ 3, ở La Mã đã xuất hiện những cuộc khởi nghĩa của nô lệ đã
làm cho xã hội tiêu điều.

4



+ Chính vì những cuộc khởi nghĩa của nô lệ xảy ra khắp nơi nên việc sử
dụng nô lệ một cách quy mô đã trở nên rất nguy hiểm, nguồn nô lệ trở nên
khan hiếm, giá nô lệ rất cao, vì vậy việc buôn bán nô lệ đã không còn mang
lại nguồn lợi lớn cho giai cấp chủ nô, buộc giai cấp chủ nô phải thay đổi
phương thức bóc lột.
- Sự xuất hiện của quan hệ sản xuất phong kiến:
+ Giai cấp chủ nô đã chia nhỏ ruộng đất của mình để cho nông dân tự do và
nô lệ lính canh canh tác và sau đó thu địa tô.
+ Vì vậy quá trình phong kiến hóa ở Tây Âu chứa đựng 2 mặt: Lãnh địa
hóa ruộng đất và nông nô hóa nông dân.
- Các yếu tố tác động từ bên ngoài khác:
+ Đo chính là sự xâm lược của người Giec-man đối với đế quốc La Mã.
+ Khi chinh phục được La Mã người Giec-man đã phải nhanh chóng
chuyển hóa cách thức quản lý nhà nước để thống trị những người La Mã.
Từ đó xuất hiện nhà nước phong kiến ở Tây Âu.
b: Nhà nước Frang:
* Sự hình thành:
- Năm 451, người Frăng cùng với người Vidigốt, người Buốcgôngđơ liên
minh với quân đội Rôma đánh bại quân đội Hung nô do Áttila chỉ huy ở
Catalôních gần Tơroay (Troyes).
- Sau khi Tây Rôma diệt vong, viên Tổng đốc cũ của Rôma là Xiagriút vẫn
tiếp tục cầm quyền ở xứ Gôlơ. Nhân khi chính quyển ở đẫy suy yếu, người
Frăng bắt đầu mở cuộc tấn công chinh phục vùng này. Năm 486, dưới sự chỉ
huy của Clôvít (Clovis), một thủ lĩnh bộ lạc của người Frăng ven biển, liên
minh bộ lạc Frâng đã đánh bại quân đội của Xiagriút Xoaxông và do đó
chiếm thêm được vùng đất đai nằm giữa sông Xen và sông Loa ở miền Bắc
xứ Gô-lơ.
5



- Năm 507, Hoàng đế Đông La Mã công nhận Clôvít là quốc vương nước
Frăng. Mở đầu triều đại Mêrôvanhgiêng.
* Triều đại Mêrôvanhgiêng ( thế kỉ V-VII)
- Bộ máy nhà nước: tổ chức còn thô sơ và đơn giản. Ở Trung ương: đứng
đầu là Vua. Dưới Vua là các quan lại cao cấp phụ trách quân sự, tư pháp, tài
chính, văn thư, kho rượu…song sự phân công ấy chưa thật rõ ràng và cố
định. Ngoài ra còn có các viên quan quản lý trông coi trang viên của
nhà vua, đứng đầu và quản lý các quan này là Tể tướng.
FKhi cần giải quyết những công việc chung và quan trọng, Clôvít chỉ cần
hỏi ý kiến của tầng lớp quý tộc và những người có chức sắc trong giáp hội
mà không cần triệu tập HĐND.
- Clôvít cho soạn thảo bộ luật Xaliêng, nhằm củng cố bảo vệ quyền lợi của
tầng lớp quý tộc Frăng & sự phân hóa xã hội Frăng.
1.2 Triều đại Cáclôvanhgiêng (thế kỉ VIII)
- Năm 714, Sáclơ Mácten giữ chức tể tướng. Ông lập được nhiều công cho
quốc gia bằng đấu tranh vũ trang, thống nhất toàn bộ Frăng hùng mạnh xưa
kia và mở rộng lãnh thổ. Năm 737, Ông trị vì Frăng do triều đình
Mêrôvanhgiêng không lập vua mới.
- Năm 714 Sáclơ Macten chết, chia lãnh thổ cho 2 con trai. Năm 741,
“Pepanh lùn”(741-768) được cử làm vua, mở đầu cho vương
triều Cáclôvanh-giêng.
- Năm 768, Pepanh lùn chết, con là Saclơ Manhơ thống nhất Frăng và mở
rộng lãnh thổ gồm cả Pháp, Đức, Ý, Hà Lan, Bỉ, Áo, một phần Tây Ban Nha
ngày nay.
* Bộ máy nhà nước: tổ chức ngày càng hoàn chỉnh, nhất là thời kỳ trị vì của
Sáclơ Manhơ.
- Ở Trung ương:
6



Đứng đầu vẫn là Vua. Bộ máy quan lại dưới Vua là : Thừa tướng,
Tổng giám mục & Đại thần cung đình.
+Thừa tướng: giữ chức vụ bí thư và chưởng ấn của Vua
+Tổng giám mục: quản lý giáo sĩ trong cả nước.
+Đại thần cung đình: quản lý các công việc hành chính của triều.
+Bên dưới có các quan lại khác như: Quan thống chế, Chánh án, quan coi
quốc khố, quản lý kho rượu…
+Địa phương: cả nước chia thành nhiều đơn vị hành chính địa phương.
Đứng đầu mỗi đơn vị là quan Bá tước.
* Sự tan rã:
Năm 814, Sáclơmanhơ chết, người con trưởng là Lui “Mộ đạo” lên nối ngôi
hoàng đế (814-840). Là một người nhu nhược bất tài, Lui phó mặc mọi việc
cho các giáo sĩ và các quý tộc phong kiến. Lợi dụng tình hình ấy,quý tộc xúi
giục hai người con của ông là Lôte và Lui “Xứ Giécmanh’”giết lại cha mình.
Chỉ có người con thứ ba là Sáclơ “Hói” đứng về phía cha mà thôi. Năm 840,
Lui “Mộ đạo” chết, cuộc nội chiến giữa ba người con lập tức bùng nổ. Lần
này, hai người em là Lui “Xứ Giécmanh” và Sáciơ “Hói” cùng chống lại
anh cả Lôte xưng làm hoàng đế, kết quả là đến năm 843, ba anh em phải kí
với nhau Hoà ước Vécđoong, đánh dấu sự tan rã của vương quốc Frang khi
mà 3 anh em chia nhau vương quốc thành 3 phần.
c: Trạng thái phân quyền cát cứ ở Tây Âu: Thế kỉ IX – XV:
- Phân quyền cát cứ là trạng thái cơ bản, nổi bật nhất trong thời kì phát
triển của chế độ phong kiến Tây Âu. Nó chính là sự phân chia sự ảnh
hưởng về chính trị tại những vùng đất khác nhau của một quốc gia do sự
phân chia của nhà vua cho những người thân cận.

7


- Thời kì này sự phân quyền cát cứ về lãnh thổ và phân quyền chính trị đã

làm cho quyền lực của hoàng đế bị các con lấn át, quyền lực của lãnh
chú thoát ki khỏi quyền lực của nhà vua.
- Chính vì vậy cuộc nội chiến của các lãnh chúa diễn ra thường xuyên.
- Về mặt kinh tế, trong thời kì cát cứ phong kiến, kinh tế của các lãnh địa
là kinh tế tự nhiên, khép kín chủ yếu phát triển nông nghiệp, chăn nuôi,
lãnh chúa toàn quyền sở hữu ruộng đất và bóc lột nông nô, công thương
nghiệp không phát triển.

CHƯƠNG II
CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC TƯ SẢN THỜI KÌ HIỆN ĐẠI
II.Một số chính quyền nhà nước tiêu biểu thời kì này
1.Nhà nước cộng hòa tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kì
a. Mở rộng liên bang và tu chính hiến pháp
-Sau cuộc chiến tranh Nam-Bắc, quyền rút ra khỏi liên bang bị bãi bỏ. Vẫn
bằng con đường mua đất đai lãnh thổ và bành trướng,xua đuổi người da
đỏ,Hoa Kì thành lập thêm 14 bang mới,đó là :Neebrasca1867,Côlôrađô
1876,Bắc Đacôta 1889,Nam Đacôta 1889,Môntanna 1889, oasinhtơn 1889,
….
-Hiến pháp 1787 của liên bang vẫn có hiệu lực đến ngày nay và vẫn giũ
những nội dung cơ bản của nó.
b. Vai trò của tư bản độc quyền và của cơ quan hành pháp ngày càng
được tăng cường
-Lịch sử nhà nước Mĩ gắn liền với vai trò của các tổng thống.Đứng đầu cơ
quan hành pháp là tổng thống. Kể từ khi lập nước đến thời tổng thống
Clintơn hiện nay,nước Mĩ đã trải qua 42 đời tổng thống. Theo hiến
8


pháp,trong chính thể cộng hòa tổng thống,vai trò và quyền lực của tổng
thống đã rất lớn.Nhưng trong thưc tế,vai trò và thực quyền của tổng thống

còn ngày càng được tăng cường.Các tổng thống Mĩ thường dùng các thủ
đoạn sau để lạm quyền:
Lợi dụng hiến pháp với lời văn và từ ngữ rộng rãi và luật ủy quyền của
nghị viện giao cho,tổng thống ra văn bản pháp luật đáng ra phải do hiến
pháp hoặc đạo luật của nghị viện quy định.
Lợi dụng quyền phủ quyết,thông qua các nghị sĩ trong đảng của
mình,mua chuộc hoặc gây sức ép trong nghị viện,tổng thống là người tác
động trực tiếp đến việc lập pháp của nghị viện.
Trên thực tế,pháp viện tối cao phụ thuộc vào tổng thống, lợi dụng quyền
phán quyết,quyền giải thích luật,quyền quyết định các tiền tệ tư pháp,pháp
viện tối cao lái quá trình lập pháp và thi hành pháp luật theo sự chỉ thị của
tổng thống.
Xuất hiện những thỏa thuận không thành văn và dần dần trở thành tập
quán chính trị (như hiến pháp không thành văn) mà các chính phủ và hai
đảng đều kiên định nơi theo.
c. Trấn áp các trào lưu tiến bộ và phát triển nền dân chủ tư sản
-Năm 1872,nghị viện Mĩ đã thông qua đạo luật ân xá cho bọn chủ nô trước
đây.Từ năm 1881 có đạo luật quy định người da đen đi tàu phải ngồi toa
riêng,không được tới khách sạn,vườn hoa hoặc những nơi công cộng,không
được kết hôn với người da trắng.Tổ chức phân biệt chủng tộc.
-Năm 1898 tòa án tối cao liên bang đã thừa nhân những hạn chế về tu cách
cử trỉ của người da đen.
-Chính quyền Mĩ đã ban hành một loạt đạo luật đặc biệt chống phong trào
công nhân và đảng cộng sản Mĩ như: Đạo luật Táp hác lây năm 1947,sắc
9


lệnh về việc ‘kiểm tra lòng trung thành của công chức’ năm 1947,đạo luật
Mác ca ran-Vút năm 1950…
-Trên cơ sở các đạo luật trên,chính quyền Mĩ đã đẩy mạnh các cuộc đàn áp

phong trào công nhân,giam giũ và thủ tiêu nhiều nhà lãnh đạo công đoàn và
cộng sản.
=>Như vậy,trong hơn thế kỉ qua,trong đời sống chính trị-pháp lí hoa kì,nhà
cầm quyền vừa trấn áp các trào lưu tiến bộ,vừa phát triển nền dân chủ tư sản.
d. Bành trướng xâm lược và xen lấn quốc tế
-Trên cơ sở nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đứng đàu thế giới và để thực hiện
sự bành chướng xâm lược,sen lấn quốc tế,nhà cầm quyền Mĩ đã xây dựng bộ
máy quân sự khổng lồ.
-Đế quốc Mĩ tiến hành một loạt cuộc chiến tranh xâm lược ở triều tiên 1950
và 1983,Cu Ba 1961…Cuộc chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh kéo
dài và tàn bạo nhất từ sau chiến tranh thế giới thứ II.
-Mĩ tiến hành các chiến dịch ‘ diễn biến hòa bình’’ nhằm vào các nước xã
hội chủ nghĩa.Mĩ vẫn tiến hành các cuộc xâm lược vũ trang như ở
Irắc,Xômani…
2.Nhà nước liên bang Đức
a. Nước Đức thống nhất và nền quân chủ nghị viện (1871-1918)
-Hiến pháp 1871 quy định Đức là một nước liên bang,gồm 22 vương quốc
và 3 thành phố tự do.Hoàng đế là người đứng đầu nhà nước.
-Cơ quan lập pháp là nghị viện,gồm 2 viện: hội đồng liên bang (thượng nghị
viện) và hạ nghị viện (quốc hội). Chính phủ là cơ quan hành pháp.
-Nước Đức được thống nhất,mở đường cho nền kinh tế tu bản chủ nghĩa
phát triển mạnh mẽ.Đến đầu thế kỉ XX,kinh tế Đức vươn lên hàng đầu châu
Âu và đứng hàng thứ hai trên thế giới sau Mĩ.Cuối thế kỉ 19,chủ nghĩa tư
bản ở Đức cũng bắt đầu chuyển sang chủ nghĩa tư bản độc quyền.
10


-Trong hệ thống chính tri của nền quân chủ nghị viện Đức có nhiều đảng
phái chính trị tư sản: Đảng bảo thủ,Đảng bảo thủ tự do,Đảng dân tộc tự
do,Đảng trung tâm cơ đốc giáo.

b. Chính thể cộng hòa đại nghị (1918-1933)
-Cuộc chiến tranh thế giới I giữa các đế quốc kết thúc bằng sự thảm bại của
Đức.Điều đó đẩy nước Đức vào tình trạng kiệt quệ mọi mặt.
-Như vậy cuộc cách mạng dân chủ tư sản 1918 đã xoa bỏ nền quân chủ lập
hiến và thay thế vào đó vẫn là một chính quyền tư sản,nhưng dưới hình thức
mới là chính thể cộng hòa.
- Theo hiến pháp 1919,đó chính là chính thể cộng hòa đại nghị.
Nghị viện liên bang gồm hai viện: hôi đồng liên bang và hạ nghị viện.
Tổng thống là người đứng đầu nhà nước ,có nhiệm lì 4 năm,bầu theo
nguyên tắc bầu phiếu trực tiếp.
-Chính phủ có đầy đủ quyền hành của cơ quan hành pháp và phải chịu sự
giám sát của quốc hội.
c. Chính quyền tư sản phát xít (1933-1945)
-Do khủng hoảng kinh tế 1929-1933,trước tình hình hệ thống chính trị tư sản
bị lung lay tận gốc.Ngày 31/11/1933,tập đoàn tư bản lũng đoạn đưa Hitslethủ lĩnh Đảng công nhân quốc xã Đức lập nên chính phủ mới,thiết lập nền
chuyên chính tư sản phát xít.
- Chính quyền phát xít điên cuồng đàn áp mọi lực lượng tiến bộ và cách
mạng đặc biệt là Đảng cộng sản.
-Chính quyền phát xít đẩy mạnh chưa từng thấy cuộc chạy đua vũ trang,xây
dựng bộ máy chiến tranh khổng lồ
-Bên cạnh việc phát xít hóa bộ máy nhà nước ,quân sự hóa đời sống kinh tế
xã hội và các chiến dịch khủng bố,chủ nghĩa phat xit còn ra sức tuyên truyền
mị dân,lừa bịp quần chúng…
11


=>Nói tóm lại chủ nghĩa phát xít đã triệt để lợi dụng sự bất mãn của quần
chúng đối với chính thể dân chủ tư sản trong những năm khủng hoảng kinh
tế.
d. Chính thể cộng hòa đại nghị (1949-nay)

-Năm 1949 vùng chiếm đóng của Mĩ,Anh,Pháp thành lập nên nước Cộng
hòa Liên bang Đức ( ngày 7-9)
Theo hiến pháp năm 1949 Cộng hòa liên bang Đức theo hình thức kết cấu
nhà nước liên bang và chính thể cộng hòa nghị viện,thủ đô là Bon.
-Cộng hòa Liên bang Đức có 10 bang.Quốc hội liên bang Đức là cơ quan
luật pháp cao nhất,gồm 2 viện: Hội đồng liên bang (Thượng nghị viện) và hạ
nghị viện.
-Tổng thống là nguyên thủ quốc gia. Chính phủ Liên bang là cơ quan hành
pháp và chịu trách nhiệm trước quốc hội.
-Trong suốt hai thập niên đầu Liên minh dân chủ thiên chúa giáo là đảng
cầm quyền.9/1969 Đảng xã hội dân chủ dành thắng lợi trong cuộc bầu cử
quốc hội và trở thành đảng cầm quyền,có chính sách đối ngoại tiến bộ.Từ
thập niên 80 đến nay,chính quyền lại thuộc về liên minh dân chủ Thiên chúa
giáo.
-Ngày 3/10/1990,cộng hòa Liên bang Đức và cộng hòa dân chủ Đức thống
nhất thành Cộng hòa Liên bang Đức. Hiện nay ở Cộng hòa Liên Bang Đức
có nhiều đảng phái tư sản như Liên minh dân chủ Thiên chúa giáo,Xã hội
dân chủ…
NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT THỜI KỲ XÃ HỘI XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA
A. Công xã Pari
a. Nguyên nhân bùng nổ và sự thành lập nhà nước công xã Pari
12


Giữa những năm 60 của thế kỷ XIX,đế chế II của Napoleong III
khủng hoảng, nông dân lâm vào tình cảnh đói kém, công nhân thất
nghiệp ,phong trào của quần chúng diễn ra mạnh mẽ.
Napoleong III tuyên chiến với Phổ 1870 -1871nhằm gia tăng áp lực
các cuộc đấu tranh trong nước.

Diễn biến: Đế chế II sụp đổ giai cấp tư sản Pháp tiến tới thành lập
chính phủ Vệ Quốc( 4/9/1871) , Khi quân Phổ tấn công Pari chính phủ
đầu hàng ( 28/1/1871) với mục đích mượn tay Phổ đàn áp cách mạng
trong nước.
Trước tình hình thù trong giặc ngoài quần chúng Pari tràn vào thủ đô
lật đổ chính phủ hiện hành và thiết lập nền cộng hòa(18/3/1871), 8
ngày sau vào ngày 26/3/1871 ,Ủy ban Trung ương thành lập hội đồng
Công xã Pari với khoảng 70% - 80% công nhân tham gia chính quyền
mới còn lại là nông dân tư sản tiểu chủ và Hội đồng này là cơ quan
cấp cao của nhà nước.
b. Tổ chức bộ máy nhà nước công xã Pari
Sau thắng lợi của cuộc cách mạng , Ủy ban Trung ương quân sự
Pari quyết định thành lập Hội đồng công xã bầu cử người vào nắm
giữ chức vụ trong hội đồng theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu.
Kết quả nhân dân bầu được 85 người trong hội đồng trong đó có
25 người đại diện cho tư sản ,30 người đại diện cho Quốc tế cộng
sản, 15 người thuộc giai cấp tư sản nhưng không tham gia công
xã .Hội đồng công xã có thể bị bãi nhiệm nếu không được nhân
dân tín nhiệm.
Ngày 29/3 Hội đồng công xã cử ra 10 Ủy ban giúp việc cho mình để
giúp việc cho Hội đồng gồm Ủy ban hành pháp, ủy ban Tài chính, Ủy ban
Quân sự, Ủy ban Tư pháp, Ủy ban An ninh. Ủy ban Lương thực, Ủy ban
13


Lao động, Ủy ban giáo dục, Ủy ban Ngoại giao, Ủy ban Công – thương
nghiệp. Các ủy ban này có 5 – 8 thành viên, đứng đầu là Chủ tịch chỉ chịu
trách nhiệm trước Hội đồng Công xã. Ngoài ra, Hội đồng còn thành lập các
tòa án cách mạng để trấn áp các lực lượng phản cách mạng, thành lập nhiều
tổ chức quần chúng như Công đoàn, Hội phụ nữ làm chỗ dựa cho Công xã.

Ngày 19/4, Hội đồng công bố bản tuyên ngôn đầu tiên, khẳng định
Công xã là một nhà nước kiểu mới ở Pháp – nhà nước Cộng hòa kiểu liên
kết các công xã tự do. Các công xã đều có quyền tự trị, có lực lượng vũ trang
riêng. Nhưng đây cũng chính là nhược điểm của Công xã, vội thành lập
chính quyền ngay trong khi chưa dẹp tan hoàn toàn lực lượng tư sản, tạo
điều kiện cho nó nổi dậy, tổ chức lực lượng chống lại Công xã.
Về tổ chức bộ máy thì chúng tôi có nhận xét chung: mặc dù nhà nước tổ
chức còn sơ sài, chưa phân định quyền lực của các ủy ban, nhưng nó đã đem
lại nhiều quyền lợi lớn cho nhân dân.
. Pháp luật của Công xã Paris
Sắc lệnh là hình thức chủ yếu của pháp luật nước Pháp thời Công xã
Paris. Ngay sau khi thành lập các ủy ban, Hội đồng công xã đã ban bố sắc
lệnh 29/3, tuyên bố chỉ có công xã mới có quyền ra các sắc lệnh. Sau đây là
một số sắc lệnh quan trọng:
- Sắc lệnh ngày 3/4 khẳng định quyền tự do tín ngưỡng, tách nhà thờ ra
khỏi hoạt động của nhà nước
+ Điều 1: Tách nhà thờ ra khỏi bộ máy nhà nước
+ Điều 2: Hủy bỏ ngân sách về tôn giáo
+ Điều 3: Những tài sản bất động sản được coi là tài sản quốc gia.
- Sắc lệnh ngày 15/4 giao cho công nhân quản lý các xí nghiệp mà bọn
chủ bỏ trốn, mọi công việc đặt dưới sự kiểm soát của nhân dân.

14


Sắc lệnh ngày 27/4 cấm mọi hình thức cúp phạt công nhân, đặt ra quy
định ngày làm 8 giờ.
Các sắc lệnh khác quy định giá bánh mỳ, giá thịt bò, thịt cừu để bình ổn
giá cả.
Công nhân được rời bỏ những nhà hầm tối tăm đến ở các dinh thự của

bọn quý tộc, tư sản đã bỏ trốn. mọi người được hưởng nền giáo dục không
mất tiền…
Như vậy có thể nói, pháp luật của công xã đa phần là các sắc lệnh thể
hiện tính chất của một nhà nước non trẻ, chưa ổn định. Điểm tiến bộ của các
sắc lệnh là những điều lệnh của chúng đều mang lại lợi ích chính đáng cho
người dân. Sự ra đời của Công xã Paris – một nhà nước vô sản mới, tiến bộ
hơn so với tư sản – chứng tỏ một trật tự mới đã được xác lập, đem lại quyền
lợi thiết thực cho nhân dân lao động; đồng thời sự ra đời này cũng thể hiện
được mong mỏi, nguyện vọng của quần chúng nhân dân và bảo vệ người lao
động. Pháp luật của Công xã có bản chất khác với pháp luật, đó là bản chất
của nhà nước vô sản, thể hiện mong muốn xây dựng mô hình nhà nước mới
phù hợp với nguyện vọng chính đáng của nhân dân đó là tự do, hạnh phúc và
bình đẳng trong làm việc, học tập và sinh hoạt cộng đồng
. Nguyên nhân thất bại và bài học lịch sử của Công xã Paris
+ Nguyên nhân thất bại:
- Chủ nghĩa tư bản còn mạnh, lực lượng đấu tranh của giai cấp công
nhân trên thế giới chưa trở thành mặt trận thống nhất chống chủ nghĩa tư
bản.
- Lực lượng cách mạng trì hoãn việc tấn công quân chính phủ ở
Versailles nên chúng có thời gian tập hợp lực lượng chống lại Công xã.
- Không tịch thu các ngân hang Paris trong lúc công xã đang rất cần
tiền, không kịp thời chống bọn phản động ở Paris.
15


- Chưa chú trọng đến việc huấn luyện, trang bại cho lực lượng vũ
trang.
- Chưa có sự liên minh mạnh mẽ với giai cấp nông dân.
Bài học lịch sử:
- Công xã Paris là hiện thực đầu tiên của chuyên chính vô sản, là hình

thức chủ yếu đầu tiên của nhà nước vô sản. Nền chuyên chính được thiết lập
tuy chưa đầy đủ và hoàn thiện nhưng khác hẳn về chất so với nhà nước tư
sản.
- Xây dựng một loạt hệ thống các sắc lệnh tiến bộ bảo vệ quyền lợi của
quần chúng lao động.
- Cho thấy sự cần thiết phải thành lập một chính đảng tiên phong của
giai cấp công nhân.
- Bài học sâu sắc về việc giai cấp vô sản đã nắm chính quyền thì phải
đập tan bộ máy nhà nước cũ, sau đó mới xây dựng nhà nước mới.
- Bài học sâu sắc về giữ chính quyền: giành được chính quyền đã khó,
nhưng giữ vững chính quyền còn khó hơn gấp nhiều lần. Đồng thời, để củng
cố chính quyền cần mở rộng dân chủ, lien hệ mật thiết giữa chính quyền và
nhân dân, tăng cường khối liên minh công nông.
- Ngoài ra, sự thất bại của công xã để lại nhiều bài học quý về nắm thời
cơ, chiến lược, sách lược.
B. Nhà nước Liên Xô (1917 – 1991)
a. Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười và sự thành lập nhà nước
Xô Viết
+ Tình hình Nga trước cách mạng
- Kinh tế: Nga chuyển sang giai đoạn tư bản chủ nghĩa nhưng còn lạc
hậu hơn so với các nước tư bản khác.
16


- Chính trị: Nga là nước quân chủ chuyên chế dưới sự thống trị của Sa
hoàng Nga. Tư sản Nga không những tham gia lật đổ chế độ phong kiến mà
ngược lại còn câu kết với phong kiến chống lại cách mạng.
- Xã hội: Nga là đất nước có nhiều dân tộc (95 dân tộc), các dân tộc này
bị phong kiến Nga áp bức, bóc lột nặng nề. Vì thế ở nước Nga, những mâu
thuẫn xã hội diễn ra gay gắt nhất, điển hình nhất. Cuối thế kỷ XIX, với sự ra

đời của Đảng Công nhân xã hội dân chủ Nga (1898) thì giai cấp công nhân
đã hình thành và bước đầu nắm quyền lãnh đạo cách mạng. Sau cách mạng
1905 – 1907, đảng này bị phân hóa thành 2 phái: Bolshevich và Melshevich,
trong đó phái Bolshevich chiếm đa số trong đảng, có chủ trương đưa giai
cấp vô sản trở thành giai cấp cầm quyền và thực hiện liên minh công nông.
Cách mạng tháng Hai
Đầu năm 1917, mâu thuẫn giữ các tầng lớp diễn ra gay gắt, làm bùng nổ
các cuộc khởi nghĩa của nông dân, công nhân. Ngày 27/2/1917, công nhân,
nông dân và binh lính khởi nghĩa giành thắng lợi ở Petrograd, chính quyền
Sa hoàng sụp đổ và các Xô viết của họ (những người khởi nghĩa) thành lập ở
nhiều nơi trên cả nước.
Tuy nhiên sau cách mang tháng Hai, ở nước Nga xảy ra sự kiện mới:
tồn tại hai chính quyền song song là chính phủ tư sản – chính phủ của các
Xô viết. Tình trạng này nếu kéo dài sẽ gây nhiều khó khăn mới cho cách
mạng nên Đảng Bolshevich (đứng đầu là Lenin) đặt ra nhiệm vụ phải đánh
bại chính phủ tư sản thì mới mong lập được chính quyền Xô viết của giai
cấp công nhân.
+ Cách mạng tháng Mười và sự thành lập nhà nước Xô viết
Trước tình hình cách mang như trên, Lenin từ Phần Lan trở về nước
trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Trong Hội nghị 4/4/1917, Người nhận định lúc
này Xô viết đang thành lập và chính quyền tư sản chưa củng cố nên tiến
17


hành biện pháp hòa bình. Luận cương tháng Tư do Lenin viết và công bố
ngay trong hội nghị đã nhận định tình hình và vạch ra các con đường đi tiếp
của cách mạng, dẫn cách mạng từ buổi đầu là cách mạng tư sản lên thẳng
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Sau hội nghị tháng Tư, phong trào cách mạng lại diễn ra sôi nổi với
mục đích chống lại chính sách phản động của chính phủ lâm thời. Đến tháng

7, khởi nghĩa bị đàn áp. Ngày 26/7/1917, Đại hội VI của Xô viết họp lại,
quyết định không dùng phương pháp hòa bình mà sẽ tiến hành khởi nghĩa vũ
trang chống chính quyền tư sản. Tháng 10, Lenin về nước trực tiếp lãnh đạo
cách mạng và tới ngày 25/10 thì phát động khởi nghĩa vũ trang giành thắng
lợi hoàn toàn ở thủ đô, tuyên bố thành lập Chính phủ công nông đầu tiên
trong lịch sử.
Ý nghĩa lịch sử:
- Cách mạng tháng Mười thiết lập một nhà nước vô sản cua nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân, mở ra kỷ nguyên mới là thời kỳ quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới.
- Cách mạng tháng Mười có ảnh hưởng lớn đến toàn thể giới. Nó làm
sụp một mảng lớn của chủ nghĩa đế quốc, tác động mạnh mẽ đến phong trào
giải phóng dân tộc ở các thuộc địa và các vùng phụ thuộc.
- Để lại nhiều kinh nghiệm về giành chính quyền, vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, liên minh công nông, bạo lực cách mạng và quan hệ giữa
cách mạng trong nước và thế giới.
Tổ chức bộ máy nhà nước Xô viết
+ Giai đoạn 1: 1917 - 1922
Sau khi cách mạng giành thắng lợi, những người lãnh đạo trong các Xô
viết Nga đứng đầu là Lenin quyết định thông qua các sắc lệnh thành lập nhà
nước mới. Ngày 25/10, sau khi giành được chính quyền về tay nhân dân,
18


Lenin cùng ban lãnh dao trong Đại hội các Xô viết toàn Nga quyết định
thành lập Đại hội Xô viết toàn Nga – đây là cơ quan cao nhất nước. Đại hội
bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Xô viết toàn Nga, các Hội đồng các ủy
viên nhân dân như: Hội đồng tối cao về kinh tế (2/12/1917), Ủy ban đặc biệt
toàn Nga (20/12/1917), Hồng quân công nông (15/1/1918) và Hải quân công
nông (19/1/1918). Ngày 27/1/1918, Đại hội III Xô viết toàn Nga họp và

tuyên bố nước Nga là nhà nước Liên bang cộng hòa Xô viết. Tháng 7/1918
thông qua Hiến pháp đầu tiên.
+ Giai đoạn 2: 1922 – 1991
Ở giai đoạn này, do Liên Xô là nhà nước cộng sản đầu tiên nên mô hình
chính trị của nhà nước Liên Xô là mẫu hình chung cho các quốc gia xã hội
chủ nghĩa khác. Đặc điểm bao trùm của thể chế chính trị của nhà nước Liên
Xô là chế độ một đảng lãnh đạo.
Khác với các nhà nước khác tổ chức trong mô hình tam quyền phân lập,
nhà nước Liên Xô tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Đảng Cộng
sản Liên Xô nắm toàn quyền mọi mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Cơ
quan quyền lực cao nhất của Liên Xô là Xô viết tối cao Liên Xô (Верховный
Совет), có 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, và trực tiếp đảm nhiệm
chức năng lập pháp. Cơ quan thường trực của nó chính là Đoàn Chủ tịch Xô
viết tối cao Liên Xô (Chủ tịch Đoàn chỉ nắm quyền trên danh nghĩa, người
có quyền tối cao nhất là Tổng Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô).
Xô viết Tối cao bầu ra Hội đồng Bộ trưởng (đứng đầu là Chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng (tức Thủ tướng) và Hội đồng này có quyền hành pháp; đồng thời
nó cũng bầu ra Tòa án Tối cao để nắm quyền tư pháp.
Ở địa phương cũng bắt chước cách tổ chức của Trung ương, cũng chia
thành 3 cấp là Xô viết địa phương (nắm quyền lập pháp, do dân bầu); Ủy
ban hành chính (nắm quyền hành pháp) và Tòa án tối cao ở các địa phương.
19


Về chính trị thì đặc điểm nổi bật nhất của tổ chức bộ máy nhà nước
Liên Xô, đó là sự bao trùm của Đảng Cộng sản lên hệ thống chính trị. Đảng
Cộng sản Liên Xô là cơ quan lãnh đạo toàn liên bang và không do dân bầu.
Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, chính phủ áp dụng hệ thống
“Nomenclatura" (nghĩa là hệ thống cơ cấu cán bộ theo sự chỉ định của
Đảng): ở mỗi cấp hành chính, Xô viết và tư pháp luôn song hành với Đảng

ủy (Parkom). Các đảng viên của Parkom luôn chi phối các Xô viết theo tỉ lệ
đảm bảo sự lãnh đạo: ứng viên vào Xô viết phải do Parkom đề cử, ứng viên
ngoài đảng luôn chiếm tỉ lệ áp đảo so với ứng viên được đề cử. Các vị lãnh
đạo ở các cơ quan hành pháp cũng là từ Parkom bầu ra (Phó bí thư Đảng là
Chủ tịch ủy ban hành chính). Các Xô viết và Ủy ban hành chính các cấp đều
chấp hành các văn bản pháp luật, chỉ thị một cách nghiêm túc, nhất quán
(không thay đổi, theo chiều dọc đi từ trên xuống các cấp dưới). Ở các nước
cộng hòa cấp liên bang cũng vậy. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Chủ tịch Xô
viết tối cao, Chánh án Toà án tối cao, các Bộ trưởng thường là các Uỷ viên
Bộ chính trị của Đảng, đôi khi Tổng bí thư kiêm luôn Chủ tịch Đoàn Chủ
tịch Xô viết tối cao (như Brezhnev) hoặc Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (như
Khrushchov). Các Bộ trưởng thường là Uỷ viên Bộ chính trị hoặc Trung
ương Đảng. Khi họp Chính phủ hoặc Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao thì thực
tế là họp Bộ Chính trị mở rộng. Tại Liên Xô chỉ đạo của Đảng là trực tiếp:
Đảng ủy có thể đưa ra các chỉ đạo thẳng đến các Xô viết và các Uỷ ban hành
chính chứ không cần thiết phải biến các nghị quyết đảng đó thành các nghị
định của các ngành này nữa.
Tổ chức bộ máy nhà nước như vậy mang tính tập trung quyền lực rất
lớn vào Đảng. Tuy việc tập trung này có thể sẽ là tốt, có ích nhưng nó sẽ có
hại khi có hiện tượng lạm dụng quyền lực ở các cấp ủy Đảng (vì nó không bị
nhân dân kiểm soát, Đảng độc quyền về pháp luật), dẫn tới tình trạng mất tự
20


do, dân chủ và đất nước dần dần đi xuống (thời Brezhnew); về sau
Gorbachov cải tổ lại nhưng càng lún sâu vào khủng hoảng và kết quả là nhà
nước này bị lật đổ (1991).
Pháp luật nhà nước Xô viết:
* Các bản hiến pháp chính:
- Pháp luật nhà nước Xô viết lúc này chủ yếu là các Hiến pháp. Trong

suốt quá trình tồn tại của mình, nhà nước Xô viết ban hành năm bảng Hiến
pháp là Hiến pháp 1918, Hiến pháp 1924, Hiến pháp 1936, Hiến pháp 1977
và Hiến pháp 1990. Mục tiêu chính của Hiến pháp là tạo cơ sở pháp lý cho
Đảng và nhân dân Liên Xô tiếp tục xây dựng đất nước, chống thù trong giặc
ngoài.
- Hiến pháp năm 1918 quy định bộ máy nhà nước gồm: Đại hội các Xô
viết toàn Liên bang và Đại hội này có quyền lập pháp. Ban Chấp hành Trung
ương toàn liên bang là cơ quan thường trực giữa hai kỳ đại hội. Cơ quan này
có 2 Viện: Viện Liên bang gồm 451 đại biểu do các Xô viết thuộc Liên bang
bầu ra và Viện Dân tộc gồm 136 đại biểu do các nước cộng hòa thành viên
cử ra. Cả hai viện này cũng có quyền lập pháp. Chủ tịch đoàn của Ban Chấp
hành Trung ương toàn liên bang gồm lãnh đạo của hai viện, 9 người khác
của hai viện bầu chung vào, Hội đồng các Ủy viên nhân do Ban chấp hành
Trung ương lien bang bầu ra.
- Hiến pháp năm 1936: quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân.
Văn bản này khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, Đại hội Xô
viết Liên Xô có quyền lập hiến, Xô viết tối cao có quyền lập pháp và cơ
quan này cũng có 2 Viện: Viện Liên bang đại diện cho cử tri toàn Liên bang,
cứ 30 vạn người thì bầu ra 1 đại biểu và Viện Dân tộc: các nước cộng hòa
thành viên cử ra 25 đại biểu, cộng hòa tự trị bầu ra 11 người. Cả hai viện này
cũng có quyền lập pháp.
21


Hiến pháp năm 1977: Điểm mới của Hiến pháp là nó khẳng định nhà
nước Xô viết là nhà nước của toàn dân, do dân và vì dân. Hiến pháp kêu gọi
các tầng lớp, giai cấp được tham gia quản lý, giám sát bộ máy nhà nước. Cơ
quan cao nhất của nó là Đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô, cơ quan nắm
quyền hành pháp là Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô. Chủ tịch Hội đồng và các
thành viên đều do Xô viết tối cao bầu ra.

- Hiến pháp năm 1990: quyết định lập chế độ Tổng thống, do nhân dân
bầu ra bằng phổ thông đầu phiếu và có nhiệm kỳ 5 năm. Tổng thống đứng
đầu Hội đồng liên bang Xô viết, là tổng chỉ huy quân đội, có quyền bổ
nhiệm hoặc bãi miễn Chủ tịch Hội đồng Bô trưởng Liên Xô.
Đặc điểm của Hiến pháp Liên Xô:
- Pháp luật Liên Xô là hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên
thế giới, là cơ sở và có ảnh hưởng đến tư tưởng chính trị - pháp luật, cơ cấu
và định chế pháp luật đối với các nhà nước xã hội chủ nghĩa khác.
- Hiến pháp khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và
toàn xã hội.
- Hệ thống pháp luật Xô viết gồm nhiều ngành luật như luật hiến pháp,
luật hành chính, luật đất đai, luật dân sự, luật hôn nhân – gia đình và luật tố
tụng dân sự.
- Pháp luật Liên Xô có hai hệ thống:
+ Hệ thống pháp luật chung, có hiệu lực của toàn liên bang
+ Hệ thống pháp luật của các nước cộng hòa thành viên trong Liên bang
(Mặc dù các nước cộng hòa đều có pháp luật riêng nhưng không trái với
pháp luật Liên bang)
C. Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa khác (ngoài Liên Xô) (1945 –
1991)

22


Sau Thế chiến thứ hai, các nước Á – Phi – Mỹ latin bị đế quốc phương
Tây chiếm đóng. Trước tình hình đó, giai cấp tư sản không còn tiến bộ nữa,
mất quyền lãnh đạo cách mạng và phải nhường lại cho giai cấp vô sản. Giai
cấp vô sản lớn mạnh, nắm quyền lãnh đạo cách mạng và góp phần vào hoàn
thành nhiệm vụ chống đế quốc.
Ở châu Âu, sau khi chủ nghĩa phát xít Đức, Ý bị đánh bại thì các nước

ở phía Đông châu Âu nổi dậy, phối hợp Hồng quân Liên Xô đánh tan quân
phát xít để giành chính quyền về tay mình. Bắt kịp phong trào đấu tranh ở
các nước châu Âu, nhiều Đảng Cộng sản ở các nước châu Á như Trung
Quốc, các nước Đông Nam Á phát động nhân dân nổi dậy giành chính
quyền về tay mình
Sau Thế chiến II, các nước xã hội chủ nghĩa ra đời đã tiến hành xây
dựng nhà nước cùng hệ thống pháp luật để đưa quốc gia phát triển, bảo vệ
độc lập dân tộc
Các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu
Nhìn chung, hệ thống chính trị - pháp luật trải qua 2 giai đoạn là (1)
hình thành chuyên chính công nông (1945 – 1949) và (2) hình thành chuyên
chính vô sản, xây dựng chủ nghĩa xã hội (1949 – 1990).
Cộng hòa nhân dân Albani
Sau khi phát xít Ý đầu hàng Đồng minh (1943), Hồng quân Liên Xô
đến phổi hợp quân dân Albani đứng lên giành chính quyền về tay mình.
Ngày 11/1/1946, nhân dân Albani bầu cử Quốc hội, thành lập Chính phủ
mới. Sau khi được thành lập, Chính phủ đã làm nhiều việc có lợi cho nhân
dân như: tuyên bố Albani là nước cộng hòa nhân dân, quốc hữu hóa xí
nghiệp, ban hành cải cách ruộng đất. Năm 1976, Hiến pháp mới của Albani
ban hành đã đối tên nước là Cộng hòa nhân dân xã hội chủ nghĩa Anbani.
Mô hình nhà nước của nó chịu ảnh hưởng sâu sắc của Liên Xô, đứng đầu là
23


Chủ tịch đoàn, Chủ tịch Quốc hội (do Quốc hội bầu ra). Đến năm 1989, chế
độ dân chủ nhân dân bị sụp đổ, chính phủ mới của nó hướng đất nước theo
chế độ Cộng hòa Nghị viện. Hiến pháp mới thông qua ngày 22 tháng 12 năm
1998.
Cộng hòa nhân dân Bulgaria
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Công nhân, quần chúng nhân dân đã đấu

tranh chống lại phát xít Đức chiếm đóng. Năm 1942, Mặt trận Tổ quốc
Bulgaria ra đời đã cùng với nhân dân lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân
Đức và giành thắng lợi hoàn toàn.
Tháng 11/1945, Bulgaria bầu cử Quốc hội. Quốc hội mới của nó ra Sắc
lệnh cải cách ruộng đất (3/1946), Sắc lệnh về quốc hữu hóa xí nghiệp
(12/1946) và đến tháng 9/1946 thì tuyên bố: Bulgaria là nước Cộng hòa dân
chủ nhân dân, và nhân dân bước vào thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Năm 1990 sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa bị lật đổ thì Bulgaria theo chế độ
Nghị viện. Hiến pháp hiện hành được thông qua ngày 12-7-1991. Bulgaria
chú trong quan hệ hợp tác với Hoa Kỳ, Tây Âu, Nga, SNG, Đông Âu và các
nước Châu Á
Cộng hoà nhân dân Hungaria
Sau hơn 4 năm bị phát xít Đức chiếm đóng, năm 1994, quân đội Liên
Xô giải phóng Hungaria và thành lập chính phủ mới. Chính phủ đó thực thi
các nhiệm vụ của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (ban hành sắc lệnh
cải cách ruộng đất năm 1946). Sau gần 1 năm ổn định, Hungaria có sự
khủng hoảng nội bộ. Đảng Tiểu nông do bọn tư sản phản động muốn lật đổ
chính phủ để đưa Hungaria về với tư bản chủ nghĩa. Trước tình hình đó,
Đảng Cộng sản đã liên minh với các đảng khác như Đảng Xã hội dân chủ,
Đảng Nông dân và Công đoàn đã đánh bại Đảng Tiểu nông của tư sản, đựa
đất nước trở lại quỹ đạo xã hội chủ nghĩa. Tháng 8/1947, Quốc hội mới được
24


thành lập và trong đó thành viên của Đảng Cộng sản chiếm đại đa số. Tháng
6-1948, Đảng Lao động Hunggari được thành lập trên cơ sở hợp nhất Đảng
Cộng sản và Đảng Xã hội dân chủ. Năm 1949, Hiến pháp đã được Quốc hội
thông qua, khẳng định con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Năm 1989,
Hungaria xóa bỏ chế độ hiện hành và thành lập chế độ Nghị viện, đến 2004
trở thành thành viên của EU …

D. Các nhà nước xã hội chủ nghĩa ở châu Á
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Năm 1911, sau thắng lợi của cách mạng Tân Hợi thì nhà nước Trung
Hoa Dân quốc ra đời do Tôn Trung Sơn đứng đầu. Sau đó, Trung Quốc
bước vào thời kỳ ổn định khá ngắn (1911 – 1925) về sau thì xảy ra khủng
hoảng nội bộ (tiêu biểu là cuộc đấu tranh giữa Đảng Cộng sản và Quốc dân
Đảng) làm Trung Quốc suy yếu, đến năm 1937 thì bị Nhật xâm lược. Được
sự giúp đỡ của Liên Xô, Đảng Cộng sản Trung Quốc (thành lập năm 1921)
lãnh đạo nhân dân chiến đấu và giành nhiều thắng lợi to lớn trên chiến
trường. Nhưng sau khi đánh bại quân Nhật, nhân dân Trung Hoa lại lao vào
cuộc nội chiến khốc liệt (1946 – 1949), kết quả là Đảng Cộng sản giành
thắng lợi trước Quốc dân Đảng, tuyên bố thành lập nước Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa (1/10/1949) do Mao Trạch Đông đứng đầu.
Lịch sử phát triển của Cộng hòa nhân dân Trung chia thành 2 thời kỳ:
1949 – 1978 và 1978 đến nay.
+ Thời kỳ đầu (1949 – 1978) là thời kỳ định hình và phát triển của nhà
nước và pháp luật Trung Quốc. Trung Quốc là nước nông nghiệp lạc hậu,
dân số cao. Nhờ có Liên Xô giúp đỡ, Trung Quốc đã dần phát triển nhanh
chóng về nhiều mặt. Cùng với sự phát triển chung của kinh tế, xã hội, hệ
thống chính trị của Trung Quốc đã thành lập và sử dụng pháp luật làm công
cụ điều chỉnh xã hội. Theo Hiến pháp ngày 20/9/1954, cơ quan quyền lực
25


×