Lời mở đầu
Bộ luật Hồng Đức, bộ luật hình chính thống được hoàn chỉnh ở triều đại Lê
Thánh Tông (Hồng Đức) thế kỉ 15, là bộ luật cổ bằng chữ Hán còn lưu giữ được
tương đối đầy đủ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Hà Nội). BQTHL có 13 chương,
722 điều, gồm 6 quyển với những nội dung cơ bản sau:
- Giữ cho đất nước luôn ở thế phòng bị đối với quan xâm lược nước ngoài.
- Giữ nghiêm kỷ cương, phép nước.
- Chấn hưng nông nghiệp, coi nông nghiệp là nền tảng của sự ổn định kinh tế xã
hội.
- Mở rộng giao lưu khuyến khích thương nghiệp lành mạnh.
- Bảo vệ quyền sở hữu tài sản của muôn dân, bảo vệ quyền lợi tài sản của dân
chống lại sự đục khoét của quan lại sâu mọt.
- Khuyến khích nuôi dưỡng thuần phong mỹ tục.
- Bênh vực và bảo vệ quyền lợi phụ nữ.
- Chính sách hình sự nghiêm nhưng độ lượng.
Bài thuyết trình
I. Đặc Điểm Cơ Bản Và Giá Trị Kế Thừa Của Quốc Triều Hình Luật Trong
Bảo Vệ Quyền Lợi Cho Nhóm Người Yếu Thế.
Quốc Triều Hình Luật( hay chính là bộ Luật Hồng Đức) quy định các vấn đề
liên quan đến trách nhiệm dân sự của cá nhân trong thời đại phong kiến nhà Lê, là
một trong những bộ luật phong kiến tiến bộ nhất và đặc sắc nhất trong lịch sử pháp
luật Việt Nam. Nó đánh dấu thời kỳ hoàng kim, rực rỡ nhất của chế độ phong kiến
Việt Nam dưới triều đại Lê sơ, đặc biệt là dưới thời vua Lê Thánh Tông. Nó vượt
xa so với khuôn mẫu tư duy của thời đại phong kiến và để lại những dấu ấn sâu
đậm cho đến tận ngày nay. Luật Hồng Đức chứa đựng trong đó những yếu tố khá
tiến bộ trong việc điều chỉnh quan hệ dân sự, quy định, dự liệu phong phú các
trường hợp về tổn thất, thiệt hại trong thực tế cả về vật chất lẫn tinh thần từ đó xác
định trách nhiệm hình sự và dân sự.
Mặc dù mang bản chất giai cấp phong kiến nhưng bộ luật Hồng Đức lại chứa
đựng nhiều yếu tố tiến bộ với những quy phạm bảo vệ quyền lợi của người dân,
của tầng lớp dưới, của nô tì, người cô quả, tật … Nhiều quy định của bộ luật tập
chung bảo vệ người dân chống lại sự ức hiếp, sách nhiễu của cường hào, quan
lại. Đặc biệt là có một số quy định bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, trẻ em, người dân
tộc thiểu số, điều đó phản ánh truyền thống nhân đạo, tôn trọng phụ nữ, tư tưởng
“lấy dân làm gốc”, lấy làng xã làm nền tảng của quốc gia.
1. Những quy định nhân đạo đối với người phạm tội
- Điều luật đầu tiên đề cập đến vấn đề này là điều 16, theo đó:
+ những người phạm tội “từ 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống và những kẻ
phế tật (tức những kẻ si, câm, cơ thể què quặt, gãy tay chân) phạm tội lưu,
đổ trở xuống được chuộc bằng tiền…
+ 80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống và những kẻ bệnh nặng (là những ác tật
như điên cuồng, tay chân bại liệt, mù hai mắt) phạm tội phản nghịch, giết
người, đáng lẽ phải xử tử thì trong trường hợp này phải tâu lên để vua quyết
định. Những người này phạm tội trộm, đánh người bị thương thì cũng cho
chuộc tội
+ 90 tuổi trở lên, 7 tuổi trở xuống, dù phạm tử tội cũng không áp dụng
hình phạt”.
- Trong xử lý tội phạm, bộ luật Hồng Đức còn lưu ý đến thời điểm phạm tội
sao cho có lợi cho tội nhân khi áp dụng luật, theo đó “khi phạm tội chưa già,
tàn tật. Khi già, tàn tật mới phát giác tội thì xử tội theo luật già, tàn tật…Khi
còn nhỏ mà phạm tội, khi lớn mới phát giác tội thì xử tội theo luật tuổi nhỏ”
(điều 17).
- Luật còn nghiêm cấm áp dụng hình thức tra khảo với một số đối tượng và
vấn đề liên quan đến người làm chứng, tại điều 665 quy định: “Những người
đáng được nghị xét giảm tội như 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống, người bị
phế tật thì không được tra khảo họ, chỉ cần căn cứ lời khai của nhân chứng
mà định tội.
+ Nếu trái luật này thì coi như cố ý buộc tội cho người. Luật có ghi điều
được phép ẩn giấu cho nhau như người 80 tuổi trở lên, 10 tuổi trở xuống và
người bệnh nặng đều không được buộc họ làm chứng”.
- Trong những trường hợp nhất định, pháp luật nghiêm cấm việc đối xử bạo
ngược với tù nhân, như trường hợp người tù bị mắc bệnh thì không được
tiến hành tra khảo: “…Nếu tù có bệnh ung nhọt, không chờ lành lại tra khảo
thì người ra lệnh bị xử biếm. Nếu tù bệnh ấy mà đánh roi, trượng thì phạt 30
quan tiền, nhân đó tù chết thì bị biếm 2 tư…” (điều 669).
- Nếu thuộc trường hợp phải nộp tiền ứng với tang vật bị tịch thu nhưng “tội
nhân nghèo khổ cùng cực không nộp nổi thì thuộc lại được phép trình bản ty,
để nơi đây tâu lên vua định đoạt” (điều 697).
- Bên cạnh đó để tránh việc lạm dụng bạo lực với tù nhân và bảo vệ quyền
lợi thiết yếu của họ, tại điều 707 có quy định: “Ngục giám vô cớ hành hạ tù
nhân đến bị thương thì xử theo luật đánh người bị thương. Nếu xén bớt áo
quần, cơm, đồ ăn của tù nhân thì căn cứ vào việc bớt xén đó kết tội ăn trộm;
hoặc bởi đánh đập, bớt cơm mà tù nhân chết thì bị xử đồ hay lưu. Ngục quan
và giám ngục quan biết sự việc không tố giác thì cũng bị tội trên, nhưng
được giảm một bậc”.
2. Những quy định nhân đạo đối với người gặp khó khăn đặc biệt
- Đối với những người gặp hoàn cảnh khó khăn, không có ai để nương tựa
thì quan chức địa phương phải có trách nhiệm giúp đỡ họ, điều 294 quy
định: “Ở những phường hẻm hay trong kinh thành hoặc ở hương thôn, xã có
người bệnh tật không ai nuôi nấng, nằm ở dọc đường sá, cầu, điếm, chùa,
quán thì cho phép quan bản phường xã đó dựng lều cho họ ở, chăm sóc che
chở, cấp cơm cháo, thuốc men cứu sống họ, không được bỏ mặc họ rên rỉ,
khốn khổ. Không may kẻ ấy chết thì trình quan trên, liệu bề chôn cất, không
được để hài cốt phơi bày ra đó. Nếu trái lệnh này thì quan phường xã bị
biếm hay bị bãi chức ”.
- Một số đối tượng cũng cần được giúp đỡ khác là “những người góa vợ,
góa chồng cô độc và người tàn phế nặng, nghèo khổ không người thân
nương tựa, không khả năng tự kiếm sống thì quan sở tại phải nuôi dưỡng họ,
nếu bỏ rơi họ thì bị đánh 50 roi biếm một tư. Nếu họ được cấp cơm áo mà
thuộc lại ăn bớt thì xử theo luật người giữ kho ăn trộm của công”.
3. Những quy định nhân đạo, tiến bộ đối với phụ nữ và trẻ em
- Đối với phụ nữ, quyền lợi của đối tượng này được đề cập chủ yếu trong
hai chương “Hộ hôn” và “Điền sản” với những quy định thể hiện sự coi
trọng cá nhân và vai trò của người phụ nữ cũng như bảo vệ quyền lợi của họ
trong việc hương hỏa, tế lễ, thừa kế và sở hữu tài sản.
+ Người vợ, theo phong tục và quy định phải lệ thuộc vào chồng nhưng
trong bộ luật Hồng Đức địa vị của người vợ có những độc lập nhất định như
họ có quyền có tài sản riêng, có quyền xin ly hôn trong một số trường hợp,
ví dụ tại điều 308 quy định: “Chồng xa cách vợ không lui tới suốt 5 tháng thì
vợ được phép trình quan sở tại, quan xã làm chứng thì chồng đó mất vợ. Nếu
đã có con thì gia hạn 1 năm. Những người công sai đi xa không áp dụng luật
này. Nếu đã thôi vợ mà cản trở người khác cưới vợ cũ thì xử biếm”.
+ Trong trường hợp cưỡng ép phụ nữ kết hôn cũng bị tội, điều 320 quy
định như sau: “Mãn tang chồng nhưng người vợ thủ tiết, nếu ngoài ông bà,
cha mẹ, kẻ nào khác gả ép người phụ nữ đó thì bị biếm ba tư và buộc phải ly
dị. Trả người đàn bà về chồng cũ…” hoặc “những nhà quyền thế mà ức hiếp
để cưới con gái lương dân thì xử phạt, biếm hay đồ” (điều 338).
+ Khi xảy ra tình trạng ly hôn, luật xác định tài sản của vợ chồng được hình
thành từ 3 nguồn: Tài sản của chồng thừa kế từ gia đình nhà chồng; tài sản
của người vợ thừa kế từ gia đình nhà vợ và tài sản do hai vợ chồng tạo dựng
trong quá trình hôn nhân (tài sản chung). Khi gia đình tồn tại, tất cả tài sản
được coi là của chung; khi ly hôn, tài sản của ai, người đó được nhận riêng
và chia đôi tài sản chung của hai người.
+ Đặc biệt, bộ luật Hồng Đức xử rất nặng đối với những trường hợp xâm
phạm thân thể, tiết hạnh của người phụ nữ, kẻ nào “hiếp dâm thì xử lưu hay
chết. Phải nộp tiền tạ tội hơn một bậc đối với tiền tạ tội gian dâm thường.
Nếu gây thương tích cho người đàn bà thì xử nặng hơn một bậc đánh người
bị thương.
+ Nếu làm chết người đàn bà thì điền sản kẻ phạm tội phải giao cho nhà
người bị chết” (điều 403); “gian dâm với con gái nhỏ 12 tuổi trở xuống, dù
nó thuận tình thì vẫn xử như tội hiếp dâm” (điều 404).
- Nếu “chồng đánh vợ bị thương thì xử như tội đánh người bị thương
nhưng nhẹ hơn 3 bậc. Nếu đánh chết thì xử như tội đánh chết người nhưng
nhẹ hơn 3 bậc, tiền đền mạng bớt 3 phần. Cố ý giết vợ thì giảm một bậc tội;
nếu có tội bị chồng đánh, không may chết thì xử riêng. Đánh vợ bé bị
thương, sứt gãy trở lên thì nhẹ tội hơn đánh vợ 2 bậc…” (điều 482).
- Trong trường hợp người phụ nữ có việc liên quan đến kiện tụng hoặc bị
tội thì họ vẫn được bảo vệ ở mức độ nhất định, nếu “quan coi ngục, lại
ngục, ngục tốt gian dâm với đàn bà, con gái có chuyện thưa kiện thì tội nặng
hơn một bậc so với tội gian dâm thông thường. Nếu có thuận tình thì giảm 3
bậc tội cho các gian phụ ấy.
+ Nếu họ bị hiếp thì không xử tội họ” (điều 409). Đặc biệt tại điều 680 quy
định: “Đàn bà phạm tội tử hình trở xuống, nếu đang mang thai thì phải đợi
sau khi sinh đẻ 100 ngày mới đem hành hình. Nếu chưa sinh mà đem hành
hình thì ngục quan bị biếm hai tư, ngục lại bị tội đồ làm bản cục đinh.
+ Dù đã sinh nhưng chưa hết hạn 100 ngày mà hành hình thì ngục quan và
ngục lại bị xử biếm hay bị phạt. Nếu khi chưa sinh mà thi hành tội đánh roi
thì ngục quan bị phạt 20 quan tiền, ngục lại bị đánh 80 trượng. Nếu do đánh
roi đưa đến trọng thương hay chết thì xử vào tội “quá tất sát thương” (lỡ tay
giết người, làm bị thương người)…”.
- Một số tội, nếu người phạm tội là phụ nữ thì được giảm nhẹ, như việc xử
lý tội ăn trộm, ăn cướp: “Ăn trộm có cầm khí giới thì xử tội ăn cướp và có
giết người thì xử tội giết người. Đàn bà được giảm tội” (điều 429), hoặc
trường hợp đầy tớ ăn trộm đồ của chủ, nếu là “tớ gái thì được giảm tội”
(điều 441).
- Luật cũng quy định một số vấn đề khác liên quan đến phụ nữ, như cấm
“lấy thuốc sảy thai làm người sảy thai, hay là người xin thuốc sảy thai cũng
đều xử đồ. Vì sthai mà chết thì người cho thuốc bị xử theo tội giết người”
(điều 424). Với một số tội, mức xử phạt đối với phụ nữ còn nhẹ hơn đàn
ông, ví dụ điều 450 quy định: “…Kẻ lạ vào vườn người ta thì xử biếm, đàn
bà được giảm một bậc”.
- Bên cạnh bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ, bộ luật Hồng Đức còn chú
ý đến đối tượng trẻ em, tại điều 313 có quy định: “Trẻ nhỏ mồ côi và phụ nữ
tự bán mình không người bảo lãnh thì kẻ mua và kẻ viết văn khế, kẻ làm
chứng đều bị xử roi, trượng theo luật (nữ bị đánh 50 roi, nam bị đánh 80
trượng) đòi lại tiền trả cho kẻ mua, hủy bỏ văn khế. Kẻ cô độc, khốn cùng từ
15 tuổi trở lên tự nguyện bán mình thì cho phép”.
+ Nếu ai “bắt được trẻ con đi lạc thì phải báo quan làm bằng chứng thật,
có ai đến nhận thì được lấy tiền nuôi dưỡng (mỗi tháng 5 tiền), trái luật
không cho người ta nhận con thì xử tội nhẹ hơn tội quyến rũ một bậc” (điều
604). Trường hợp kẻ nào “làm chuyện ngược ngạo (lượm trẻ lạc về, không
nuôi còn hành hạ) để đến nỗi con người ta chết thì đánh 80 trượng, đền 5
quan tiền nhân mạng cho cha mẹ đứa trẻ chết” (điều 605).
4. Những quy định nhân đạo đối với một số đối tượng khác
- Những đối tượng này gồm có người thiểu số, nô tỳ, người làm thuê, ở
đợ, người mất khả năng nhận thức…, như tại điều 435 quy định hình thức
xử lý với hành vi “trấn lột quần áo, đồ đạc của trẻ em, của kẻ khùng điên,
của người say rượu thì bị xử tội đồ và phải đền gấp đôi”.
+ Theo điều 363 “mua nô tỳ mà không đem văn tự trình quan xét hỏi mà lại tự ý
xâm chữ vào mặt nô tỳ thì phạt 10 quan tiền”, trường hợp “xâm chữ vào kẻ ở đợ
bắt làm nô tỳ cho mình” thì bị xử lưu, phạt 50 quan tiền, ngoài ra còn phải “trả tiền
xóa chữ theo luật định” (điều 365). Nếu “những nô tỳ được cho về làm lương dân,
cấp giấy rồi mà còn bắt chúng ở lại làm tôi tớ với mình thì bị phạt 50 roi, biếm một
tư. Người nô tỳ vẫn được trở về theo giấy cấp” (điều 291).
+ Trong trường hợp “nô tỳ có tội, chủ không thưa quan mà đánh chết thì xử biếm
3 tư. Các nô tỳ ấy không có tội mà đánh chết thì xử đồ. Giết nô tỳ coi từ đường, mồ
mả thì xử nặng hơn tội trên một bậc. Nô tỳ sai phạm, dạy bảo đánh bằng roi vô tình
làm nó chết, hay ngộ sát thì xử tùy nặng nhẹ…” (điều 490).
+ Đối với người dân tộc thiểu số, bộ luật Hồng Đức cũng có một số điều đề cập
đến, đặc biệt là nhằm bảo vệ họ trước sự sách nhiễu của quan lại, như việc cấm
quan quân giữ cửa ải khi thấy “khách buôn bán và dân Man Liêu qua cửa ải mà đòi
tiền của họ thì bị biếm hai tư.
+ Đền trả lại cho gấp hai số tiền” (điều 71) hoặc “khi chiêu dụ dân Man Liêu mà
tự tiện phá nhà cửa lấy súc vật tài sản của dân thì bị tội biếm hay bị đồ, lại phải bồi
thường gấp đôi số tiền trả cho dân” (điều 163). Nếu giả mạo chỉ lệnh của quan trên
để “đòi trưng thu sản vật của dân Man Liêu thì xử lưu châu ngoài và đền gấp hai
tang vật” (điều 531), còn nếu “thu thuế của dân Man Liêu mà không đến trình
người cai quản thì xử biếm một tư” (điều 595).
+ Việc xử lý đối với người dân tộc phạm tội cũng có những cân nhắc nhẹ nhàng
hơn, áp dụng cả tục lệ của họ, tại điều 40 có quy định: “Những người miền thượng
du (miền núi) cùng phạm tội với nhau thì theo phong tục xứ ấy mà định tội. Những
người thượng du phạm tội với người trung châu (vùng đồng bằng) thì theo luật mà
định tội”.
+ Trong trường hợp “người Man Liêu cướp, giết lẫn nhau thì xử nhẹ hơn tội
cướp, giết người thường một bậc. Nếu hoà giải được với nhau thì cũng cho” (điều
451), trường hợp “quan quản giám các dân Man Liêu tự ý trông coi các vụ kiện
trong hạt riêng, sai người đem tráp đi bắt người hoặc ức hiếp dân thì xử phạt 40
trượng biếm 2 tư” (điều 164), còn khi bắt tội phạm là người thiểu số mà “không
trình quan quản giám người Man Liêu thì bị xử biếm một tư” (điều 703).
II. Kết Luận
Có thể nói bộ luật Hồng Đức hay Quốc triều hình luật là văn bản pháp lý bậc
nhất, là đỉnh cao nhất của thành tựu pháp luật Việt Nam so với các triều đại trước
đó và cả về sau. Đánh giá về giá trị của bộ luật Hồng Đức, sách Lịch triều hiến
chương loại chí của Phan Huy Chú viết: “Đời vua Lê có ban hành bộ Hồng Đức
hình luật, các đời sau vẫn theo bộ luật ấy.
Tuy có vài sự sửa đổi nhỏ trong lời văn, hay trong cách xếp đặt loại mục tuỳ theo
thời kỳ, song các điều khoản căn bản vẫn không thay đổi. Bộ luật ấy đã được dùng
làm quy củ để cai trị trong nước và cải thiện lòng người”.
Trong sớ tấu dâng lên vua Gia Long năm Ất Hợi (1815), tổng tài Nguyễn Văn
Thành viết: “Nước ta trong các triều đại trị vì từ trước đến nay, triều đại nào cũng
đều có bộ luật của triều đại ấy. Xem qua bộ luật Hồng Đức thì biết rằng thời bấy
giờ việc phạm tội đã được xếp thành thứ bậc để dễ truy tầm, còn sắc luật thì rất
giản lược mà phân minh…”.
Những điều đó đã đủ thấy rằng bộ luật Hồng Đức đã được vận dụng vào công
quyền Việt Nam và được xem là chuẩn mực của nền cổ luật nước ta qua nhiều triều
đại; bên cạnh tính giai cấp nó còn mang tính nhân đạo, tiến bộ và tính dân tộc đặc
trưng.