Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

bài tập lớn môn luật thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.93 KB, 16 trang )

MỞ ĐẦU
Ở Việt Nam, hiện nay, đất nước đang trong quá trình công nghiệp hóa ,
hiện đại hóa nhưng nền kinh tế nông nghiệp vẫn chiếm tỉ trọng chủ yếu. Trong
tình hình đó, kèm theo là trình độ lao động thấp, nguồn vốn thấp, vì vậy để có
thể phát triển tốt nền kinh tế thì hợp tác xã đóng một vai trò không thể thiếu.
Luật Hợp tác xã ra đời năm 2003 đã bước đầu giúp cho việc tổ chức và khuyến
khích thành lập mới hợp tác xã trên toàn quốc, góp phần đổi mới, phát triển và
nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Mặc dù, luật hợp tác xã 2003 đã đem lại nhiều
lợi ích to lớn cho sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của đất nước nhưng sau
nhiều năm thực hiện thì những hạn chế đã bắt đầu xuất hiện. Ngày 20/11/2012
tại kì hợp thứ 4 quốc hôi khóa 13 đã thông qua luật Hợp tác xã 2012. Luật hợp
tác xã 2012 được ban hành với nhiều quy định mới tiến bộ đã khắc phục được
đa số các hạn chế, thiếu sót còn tồn tại trong luật cũ. Để làm rõ vấn đề này, em
xin được “phân tích và đánh giá một số điểm mới của Luật Hợp tác xã 2012 so
với Luật Hợp tác xã năm 2003”
NỘI DUNG
I.Khái quát về hợp tác xã
1.Khái niệm về hợp tác xã
Trong bản khuyến nghị phát triển hợp tác xã của tổ chức lao động quốc tế
được thong qua tại kì họp thứ 90 tại Geneve- Thụy Sĩ đã định nghĩa về hợp tác
xã: “ Hợp tác xã là một tổ chức tự chủ của những người tình nguyện liên kết lại
với nhau nhằm thỏa mãn nhu cầu và mong muốn về kinh tế, văn hóa và xã hội
thông qua việc thành lập một doanh nghiệp sở hữu tập thể, góp vốn bình đẳng,
chấp nhận việc chia sử lợi ích và rủi ro, với sự tham gia tích cực của các thành
viên trong điều hành và quản lý dân chủ.”
Việt Nam căn cứ vào tình hình, đặc điểm kinh tế- xã hội của đất nước
cũng đã đưa ra định nghĩa hợp tác xã cho phù hợp với điều kiện nước ta. Luật
1


Hợp tác xã đang có hiệu lực thi hành năm 2012 có nêu khái niệm về hợp tác xã


tại điều 3 như sau:
1. Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do
ít nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong
hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của
thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong
quản lý hợp tác xã.
Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp
nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính, trong phạm vi vốn
điều lệ, vốn tích lũy và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của
pháp luật.
2. Nguyên tắc tổ chức, hoạt động
Điều 7 Luật hợp tác xã 2012 đã liệt kê ra 7 nguyên tắc tổ chức, hoạt động
của hợp tác xã:
1. Cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân tự nguyện thành lập, gia nhập, ra khỏi hợp
tác xã. Hợp tác xã tự nguyện thành lập, gia nhập, ra khỏi liên hiệp hợp tác xã.
2. Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã kết nạp rộng rãi thành viên, hợp tác xã thành
viên.
3. Thành viên, hợp tác xã thành viên có quyền bình đẳng, biểu quyết ngang nhau
không phụ thuộc vốn góp trong việc quyết định tổ chức, quản lý và hoạt động
của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; được cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời,
chính xác về hoạt động sản xuất, kinh doanh, tài chính, phân phối thu nhập và
những nội dung khác theo quy định của điều lệ.
4. Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động của
mình trước pháp luật.
5. Thành viên, hợp tác xã thành viên và hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có trách
nhiệm thực hiện cam kết theo hợp đồng dịch vụ và theo quy định của điều lệ.
2


Thu nhập của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được phân phối chủ yếu theo mức

độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của thành viên, hợp tác xã thành viên hoặc theo
công sức lao động đóng góp của thành viên đối với hợp tác xã tạo việc làm.
6. Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng cho
thành viên, hợp tác xã thành viên, cán bộ quản lý, người lao động trong hợp tác
xã, liên hiệp hợp tác xã và thông tin về bản chất, lợi ích của hợp tác xã, liên hiệp
hợp tác xã.
7. Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã chăm lo phát triển bền vững cộng đồng thành
viên, hợp tác xã thành viên và hợp tác với nhau nhằm phát triển phong trào hợp
tác xã trên quy mô địa phương, vùng, quốc gia và quốc tế.
3.Luật hợp tác xã
Luật hợp tác xã có thể hiểu là luật quy định về việc thành lập, tổ chức và
hoạt động đối với hợp tác xã trong các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc
dân,nhằm khuyến khích và phát triển mô hình Hợp tác xã kiểu mới, đồng thời
định hướng phát triển các hợp tác xã hiện có hoạt động theo đúng bản chất hợp
tác xã.
Nước ta đến nay đã cho ra đời 3 luật hợp tác xã 1996, 2003 và đang có
hiệu lực thi hành là luật năm 2012. Các luật đều có những điểm mạnh phù hợp
với từng thời kỳ, bên cạnh đó là những hạn chế, bất cập đã được sửa đồi, bổ sung
trong các luật thay thế giúp hoàn thiện tổ chức, hoạt động hợp tác xã, liên hiệp
hợp tác xã; phát huy được sức mạnh tập thể, nâng cao đời sống vật chất cho
thành viên hợp tác xã

và góp phần phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
II. Sự cần thiết phải sửa đồi, thay thế luật hợp tác xã 2003
1,Những điểm hạn chế, thiếu sót trong luật Hợp tác xã 2003
3


Luật hợp tác xã 2003 có nhiều ưu điểm giúp phát huy tích cực vai trò của
hợp tác xã trong nền kinh tế thị trường. Luật đã kế thừa quy định của Luật hợp

tác xã 1996, tiếp tục khẳng định vai trò của kinh tế hợp tác xã, là một tổ chức
kinh tế mang tính cộng đồng và xã hôi sâu sắc. VIệc thành lập hợp tác xã dựa
trên nhu cầu, lợi ích chung của các thành viên nằm phát huy sức mạnh tập thể,
cùng giúp nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, nâng cao đời sống xã viên.
Luật cũng mở rộng hơn về đối tượng tham gia hơp tác xã là cá nhân, hộ gia đình
và pháp nhân so với luật năm 1996. Điều này đã tạo điều kiện cho kinh tế hợp
tác xã phát triển về số lượng và mở rộng them nguồn vốn đầu tư, tham gia vào
hợp tác xã.
Tuy nhiên, bên cạnh một số ưu điểm, Luật hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã
2003 có nhiều bất cập cần phải sửa đổi, bổ sung nhằm thúc đẩy phát triển hợp tác
xã một cách vững chắc hơn. Những hạn chế, thiếu sót có thể kể đến như:
Thứ nhất, luật chưa làm rõ được bản chất của tổ chức hợp tác xã, liên
hiệp hợp tác xã, sự khác biệt về bản chất giữa tổ chức hợp tác xã với doanh
nghiệp và với tổ chức xã hôi- từ thiện; chưa làm thật rõ lợi ích, vai trò của người
chủ của xã viên khi tham gia hợp tác xã và mối quan hệ giữa nghĩa vụ, trách
nhiệm, lợi ích của xã viên với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.
Luật Hợp tác xã 2003 chưa quy định rõ về mục tiêu của hợp tác xã và lợi
ích của xã viên. Luật quy định chưa thật rõ hợp tác xã phải lấy lợi ích của xã
viên là mục tiêu hoạt động và phát triển của hợp tác xã, chưa thể hiện thật rõ lợi
ích của xã viên hợp tác xã là được hợp tác xã cung cấp sản phẩm, dịch vụ hoặc
tạo việc làm có hiệu quả hơn so với xã viên đơn lẻ tự thực hiện hoặc không thực
hiện được, vai trò của người chủ xã viên trong việc quyết định các vấn đề cơ bản
của hợp tác xã.

4


Thứ hai, luật hợp tác xã 2003 chưa làm rõ tính chất phục vụ xã viên của
tổ chức hợp tác xã, chưa làm rõ loại hình tổ chức hợp tác xã của người lao động
là xã viên vừa góp vốn vừa góp sức, là loại hình đặc biệt của tổ chức hợp tác xã.

Mục đích của xã viên thành lợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã là nhằm tạo ra
việc làm và thu nhập cho chính mình, xã viên được hưởng lợi ích từ việc trả
lương và được chia lãi theo mức độ vốn góp, vừa là chủ sở hữu vừa là người lao
động trong hợp tác xã. Việc chưa làm rõ bản chất tổ chức hợp tác xã dẫn đến tình
trạng nhiều hợp tác xã rất lúng túng trong tổ chức, xây dụng phương án sản xuất,
kinh doanh, hoạt động.
Thứ ba, Luật 2003 chưa quy định thật rõ chức năng quản lý nhà nước của
các Bộ, ngành, ủy ban nhân dân các cấp.
Còn thiếu các quy định về quyền và nhiệm vụ của các cơ quan chức năng
nhà nước đối với việc thực hiện quy định pháp luật về hợp tác xã, liên hiệp hợp
tác xã.
Một số quy định có tính khả thi thấp như quy định trường hợp nguồn tài
chính còn lại của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã không đủ để thực hiện việc giải
thể bắt buộc thì sử dụng nguồn tài chính từ quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã tại
địa phương để thực hiện giải thể bắt buộc. Tuy nhiên quỹ này không phải địa
phương nào cũng có, hầu hết các địa phương chưa thành lập quỹ này.
Thứ tư, chưa quy định rõ trách nhiệm của cơ quan, cá nhân trong việc
giám sát, kiểm tra thi hành luật, chưa có chế tài cụ thể và đủ sức răn đe để pháp
luật có hiệu lực.
Thứ năm, Luật hợp tác xã 2003 chưa có chính sách đặc thù khuyến khích
phát triển hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phù hợp với bản chất tổ chức hợp tác
xã.
2.Thực tiễn áp dụng luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã 2003
5


Bên cạnh một số kết quả đạt được, khu vực hợp tác xã, liên hiệp hợp tác
xã còn có một số tồn tại chủ yếu.
-Đất nước ta không thoát ra được khỏi những yếu kém kéo dài, trình độ
công nghệ lạc hậu, năng lực đội ngũ cán bộ quản lý yếu, chất lượng lao động

thấp.
-Còn 3.744 hợp tác xã có tên nhưng không hoạt động. Số lượng hợp tác
xã, liên hiệp hợp tác xã đang hoạt động giảm dần trong những năm gần đây, cuối
năm 2007 có 14.500 hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã giảm xuống chỉ còn 13.574
năm 2011. Nhiều hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã lúng túng trong tổ chức hoạt
động hoặc hoạt động hình thức, kém hiệu quả; tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp
tác xã chưa hấp dẫn được nhân dân, pháp nhân tham gia.
-Đóng góp vào GDP của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã giảm sút liên tục
trong 15 năm qua, từ gần 11% năm 1995 xuống còn 5,22% năm 2011, tốc độ
tang trưởng của kinh tế tập thể thấp, chỉ bằng một nửa tốc độ tang trưởng chung
của nền kinh tế và thấp nhất so với các thành phần kinh tế khác. Dự báo trong
những năm tới, đóng góp vào GDP của kinh tế tập thể với hợp tác xã là nòng cốt
sẽ tiếp tục giảm và tốc độ tang trưởng sẽ ở mức rất thấp.
Trước thực tế đó, việc ban hành luật Hợp tác xã 2012 thay thế luật 2003
với những điểm mới khắc phục những han chế, bất cập trong luật cũ là vô cùng
cần thiết.
III. Một số điểm mới của Luật Hợp tác xã 2012 so với Luật Hợp tác xã 2003
Luật Hợp tác xã 2012 về cơ bản phản ánh khá đầy đủ những nội dung
trong luật hợp tác xã năm 2003. Tuy nhiên vẫn có những điểm mới trên một số
vấn đề.
1. Về bản chất, định nghĩa hợp tác xã
Về định nghĩa hợp tác xã, Luật hợp tác xã 2003 quy định tại điều 1:
6


“Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp
nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyệngóp
vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể
của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các
hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp

phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp
nhân, tự chủ,tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn
điều lệ, vốn tích luỹ và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của
pháp luật.”
Điều 3 khoản 1 luật hợp tác xã 2012 nêu khái niệm về hợp tác xã như sau:
“1.Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do
ít nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong
hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của
thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong
quản lý hợp tác xã.
2. Liên hiệp hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp
nhân, do ít nhất 04 hợp tác xã tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn
nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu chung của
hợp tác xã thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân
chủ trong quản lý liên hiệp hợp tác xã.
3. Khi hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phát triển đến trình độ cao hơn thì sẽ
hình thành các doanh nghiệp của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; doanh nghiệp
của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hoạt động theo Luật doanh nghiệp”
So với luật hợp tác xã 2003. Luật mới năm 2012 đã thể chế hóa rõ hơn,
nhất quán và xuyên suốt trong toàn bộ các điều luật về bản chất tổ chức hợp tác
xã. Với luật hợp tác xã 2003, quy định chưa chặt chẽ dẫn đến việc dễ gây hiểu
7


nhầm coi hợp tác xã như doanh nghiệp, công ty, luật cũ quy định “hợp tác xã
hoạt động như một loại hình doanh nghiệp” làm nhiều người lầm tưởng hợp tác
xã không khác gì doanh nghiệp, trong khi Nhà nước có một số chính sách dành
riêng cho tổ chức mang tên hợp tác xã, nên đã quyết định thành lập hợp tác xã để
được thụ hưởng chính sách ưu đãi của nhà nước. Do đó, luật hợp tác xã 2012 đã

bỏ quy định “hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp” là một điểm
rất mới và hợp lý.
-Về mục tiêu thành lập tổ chức: Mục tiêu của hợp tác xã là đáp ứng nhu
cầu chung của thành viên về sản phẩm, dịch vụ, hoặc tạo việc làm và nâng cao
thu nhập cho thành viên một cách hiệu quả hơn so với thành viên đơn lẻ không
thực hiện được hoặc thực hiện kém hiệu quả trong điều kiện cơ thế thị trường.
Trong khi đó, mục tiêu của tổ chức doanh nghiệp theo Luật doanh nghiệp
là cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho thị trường đại chúng nhằm tối ưu hóa lợi
nhuận của doanh nghiệp, mục tiêu của các thành viên góp vốn vào doanh nghiệp
là để chia lợi nhuận tối đa theo tỷ lệ vốn góp của mình.
-Quan hệ sở hữu: Thành viên hợp tác xã vừa là đồng sở hữu vừa là khách
hàng sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã; đối tượng phục vụ chính của
hợp tác xã là thành viên.
Thành viên của tổ chức doanh nghiệp chỉ là người đồng sở hữu doanh
nghiệp; đối tượng phục vụ chính của doanh nghiệp là thị trường đại chúng.
-Quan hệ kinh tế: Thành viên hợp tác xã góp vốn, đồng thời cam kết sử dụng
sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã, hoặc là người lao động trong hợp tác xã. Thành
viên doanh nghiệp, ngoài việc góp vốn, không có ràng buộc khác về kinh tế với
doanh nghiệp.
-Quan hệ phân phối: Thành viên hợp tác xã được hưởng thụ các lợi ích chủ
yếu theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã, hoặc được trả lương
đối với sức lao động đóng góp cho hợp tác xã và được phân phối thu nhập chia
8


lãi theo vốn góp đối với hợp tác xã được thành lập nhằm mục tiêu tạo việc làm
cho thành viên.Còn thành viên doanh nghiệp được chia lãi theo tỷ lệ vốn góp.
Từ đó có thể thấy được sự khác biệt cơ bản giữa hợp tác xã và doanh
nghiệp là: Hợp tác xã hướng tới lợi ích chung trong đó từng xã viên được hưởng;
doanh nghiệp hướng tới lợi nhuận được chia theo tỷ lệ tham gia góp vốn.

Như vậy, luật mới đã làm rõ hơn bản chất hợp tác xã là tổ chức kinh tế
thuộc thành phần kinh tế tập thể, quản lý dân chủ, tự chịu trách nhiệm, đồng sở
hữu hợp tác xã, số lượng tối thiểu 7 thành viên mới được thành lập Hợp tác xã.
Mặc dù luật không xác định hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh
nghiệp nhưng xác định hợp tác xã thành lập để hợp tác tương trợ nhau trong sản
xuất, kinh doanh. Hợp tác xã vẫn được thành lập doanh nghiệp trực thuộc nhưng
chỉ khác là khi hợp tác xã phát triển đến trình độ cao hơn, có nghĩa là hợp tác xã
mới thành lập hoặc hoạt động yếu kém thì chưa được thành lập doanh nghiệp
trực thuộc. Đối với Liên hiệp hợp tác xã, ít nhất 4 hợp tác xã mới được thành lập
Liên hiệp thay vì hợp tác xã và doanh nghiệp có nhu cầu là có thể thành lập Liên
hiệp như trong luật hợp tác xã 2003 quy định.
2. Về chính sách ưu đãi, hỗ trợ hợp tác xã
Chính sách hỗ trợ, ưu đãi hợp tác xã đã được quy định trong luật Hợp tác
xã 2003 tại điều 3 và Luật Hợp tác xã 2012 tại điều 6.
Luật mới đã làm rõ hơn với 6 danh mục chính sách hỗ trợ, 2 danh mục
chính sách ưu đãi chung cho các loại hình hợp tác xã, đặc biệt trong lĩnh vực
nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp, ngoài các chính sách hỗ trợ,
ưu đãi trên, còn được hưởng them 5 mục ưu đãi nữa về đầu tư phát triển kết cấu
hạ tầng, giao đất, cho thuê đất để phục vụ hoạt động tín dụng, vốn giống khi gặp
khó khăn do thiên tai, dịch bệnh.
Bên cạnh đó, luật 2012 đã có các quy định mang tính nguyên tắc về chính
sách hỗ trợ hợp tác xã phù hợp với bản chất của tổ chức của hợp tác xã, đi đôi
9


với quy định tương đối chặt chẽ, rõ rang về bản chất tổ chức hợp tác xã. Chủ
trương của luật là cần có những chính sách riêng hỗ trợ hợp tác xã, nhưng chỉ
quy định mang tính nguyên tắc trong luật và giao cho Chính phủ thực hiện phù
hợp với tình hình cụ thể của hợp tác xã, từng giai đoạn đảm bảo Luật Hợp tác xã
là khung luật cơ bản tập trung điều chỉnh tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác

xã.
Luật Hợp tác xã 2012 còn có chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh
nghiệp và các loại thuế khác theo quy định của pháp luật về thuế, ưu đãi lệ phí
đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hơp tác xã theo quy định của pháp luật về phí và lệ
phí. Việc áp dụng chính sách sẽ thu hút nhiều người dân, tổ chức tham gia hợp
tác xã, làm tang bản chất đích thực của hợp tác xã, mặt khác, góp phần tích cực
tạo điều kiện hợp tác xã tích lũy vốn chủ sở hữu nhằm tăng năng lực tài chính
của hợp tác xã, từ đó giảm bớt áp lực thiếu vốn, tạo điều kiện cho hợp tác xã tiếp
cận các nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng.
3. Về vốn góp
Luật Hợp tác xã 2003 không tách bạch và làm rõ được hai loại vốn: vốn
góp xác nhận tư cách thành viên và vốn huy động như là khoản vốn vay từ thành
viên phục vụ đầu tư sản xuất, kinh donah của hợp tác xã. Cùng với việc quy định
phân phối thu nhập sau thuế cho thành viên trước hết theo mức vốn góp mà
không theo mức độ sử dụng dịch vụ có thể tạo nguy cơ chuyển hợp tác xã dần
trở thành tổ chức hướng theo lợi nhuận, không hướng vào đáp ứng nhu cầu của
thành viên.
Khoản 2 điều 19 Luật hợp tác xã 2003: “Góp vốn theo quy định của Điều
lệ hợp tác xã, mức vốn góp không vượt quá ba mươi phần trăm vốn điều lệ của
hợp tác xã”

10


Cũng về vốn góp thì trong luật Hợp tác xã 2012 đã có quy định khác ở
điều 17: “Đối với hợp tác xã, vốn góp của thành viên thực hiện theo thỏa thuận
và theo quy định của điều lệ nhưng không quá 20% vốn điều lệ của hợp tác xã”
Dựa trên khuyến cáo của Liên minh Hợp tác xã Quốc tế, theo đó, Luật hợp
tác xã các nước không nên cho phép một thành viên góp vốn quá 20% vốn điều
lệ của hợp tác xã và trên cơ sở nghiên cứu thực tế ở nhiều nước trên thế giới mức

vốn tối đa của một thành viên chỉ từ 5% đến 20% thì mức vốn góp tối đa trong
Luật hợp tác xã 2003 là quá cao. Do đó, việc giảm xuống còn 20% là hợp lý và
cần thiết.
Việc quy định mức vốn góp tối đa là rất quan trọng, xuất phát từ một
nguyên tắc có tính nền tảng của hợp tác xã là một thành viên chỉ có một phiếu
biểu quyết, đảm bảo tính dân chủ, bình đẳng trong quản lý hợp tác xã, nếu không
hạn chế mức vốn góp thì nguyên tắc này sẽ bị vô hiệu hóa vì nếu để thành viên
muốn góp bao nhiêu cũng được thì người có quá nhiều vốn sẽ có thực quyền
hơn so với người góp ít vốn. Mặt khác, việc quy định này giúp tránh bị biến
động mạnh về vốn,nếu một thành viên góp vốn tỉ lệ quá cao thì việc rút vốn của
người đó sẽ làm cho hợp tác xã phải giải thể. Vì vậy, mức vốn góp tối đa theo
luật mới quy định là hợp lý.
4. Về thành viên hợp tác xã
Điều 17 Luật Hợp tác xã 2003:
“1.Công dân Việt Nam từ mười tám tuổitrở lên, có năng lực hành vi dân
sự đầyđủ, có góp vốn, góp sức, tán thành Điều lệhợp tác xã, tự nguyện xin gia
nhập hợp tác xã cóthể trở thành xã viên.
Cán bộ, công chức được tham gia hợp tác xã với tư cách là xã viên theo quy
định của Điều lệ hợp tác xã nhưng không được trực tiếp quản lý và điều hành
hợp tác xã.
11


2. Hộ gia đình, pháp nhân có thể trở thành xã viên theo quy định của Điều lệ
hợp tác xã. Khi tham gia hợp tác xã, hộ gia đình, pháp nhân phải cử người đại
diện có đủ điều kiện như đối với cá nhân tham gia.
3. Cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có thể là xã viên của nhiều hợp tác xã trong
trường hợp Điều lệ hợp tác xã không cấm.”
Điều 13 Luật Hợp tác xã 2012 khoản 1 quy định:
“1. Cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân trở thành thành viên hợp tác xã phải

đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
a) Cá nhân là công dân Việt Nam hoặc người nước ngoài cư trú hợp pháp tại
Việt Nam, từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; hộ gia đình
có người đại diện hợp pháp theo quy định của pháp luật; cơ quan, tổ chức là
pháp nhân Việt Nam.
Đối với hợp tác xã tạo việc làm thì thành viên chỉ là cá nhân;
b) Có nhu cầu hợp tác với các thành viên và nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch vụ
của hợp tác xã;
c) Có đơn tự nguyện gia nhập và tán thành điều lệ của hợp tác xã;
d) Góp vốn theo quy định tại khoản 1 Điều 17 của Luật này và điều lệ hợp tác
xã;
đ) Điều kiện khác theo quy định của điều lệ hợp tác xã.”
Luật Hợp tác xã 2012 đã mở rộng cho cả người nước ngoài cư trú hợp
pháp tại Việt Nam cũng có thể trở thành thành viên của Hợp tác xã. Việc quy
định này giúp mở rộng được đối tượng có thể trở thành thành viên, thu hút nhiều
thành phần tham gia hoạt động trong hợp tác xã hơn, không chỉ phát huy tiềm
năng của các thành viên là công dân trong nước mà còn tận dụng cả những
nguồn lực từ chủ thể là người nước ngoài đang cư trú tại Việt Nam. Tuy nhiên,
12


quy định này cũng có thể dẫn đến nguy cơ người nước ngoài thành lập Hợp tác
xã tại Việt Nam, tận dụng các lợi thế và các chính sách ưu đãi đối với Hợp tác xã
để kinh doanh và có thể gây thiệt hại cho các chủ thể khác trong nước, đặc biệt là
trong lĩnh vực nông nghiệp.
Ngoài ra còn bãi bỏ đối tượng cán bộ công chức không được tham gia vào
hơp tác xã với tư cách thành viên.
Thêm nữa, về tên gọi của thành viên, Luật hợp tác xã 2012 đã thay khái
niệm “xã viên” trong Luật Hợp tác xã 2003 bằng khái niệm “thành viên hợp tác
xã”, khái niệm trong luật mới là chính xác nhất khi “xã viên” thường là để chỉ

đối tượng hoạt động sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp, dẫn đến mọi người có
thể có sự hiểu nhầm. Hiện nay, vì nhiều yêu cầu mới, hợp tác xã mở rộng trên
nhiều lĩnh vực, hoạt động kinh doanh nên khái niệm “thành viên hợp tác xã” là
sát nghĩa nhất.
5. Về mô hình quản trị điều hành
Luật Hợp tác xã 2012 đã thay thế một loạt khái niệm sử dụng trong luật
hợp tác xã 2003, khái niệm “Hội đồng quản trị” thay “ Ban quản trị”, “Chủ tịch
hội đồng quản trị” thay “trưởng ban quản trị”, “giám đốc” thay “chủ nhiệm”,
“đăng ký hợp tác xã” thay “đăng ký kinh doanh”.
Luật hợp tác xã 2012 cũng quy định rõ ràng và cụ thể hơn về số lượng,
quyền và chức năng mô hình quản trị điều hành so với luật hợp tác xã 2003.
Về việc hội đồng quản trị triệu tập đại hội thành viên bất thường.
Luật Hợp tác xã 2003 quy định tại điều 21: “ Đại hội xã viên bất thường
do Ban quản trị hoặc Ban kiểm soát của hợp tác xã triệu tập để quyết định
những vấn đề cần thiết vượt quá quyền hạncủa Ban quản trị hoặc của Ban kiểm
soát.
13


Trong trường hợp có ít nhất một phần ba tổng số xã viên cùng có đơn yêu
cầu triệu tập Đại hội xã viên gửi đếnBan quản trị hoặc Ban kiểm soát thì trong
thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận đủ đơn, Ban quản trị phải triệu tập
Đại hội xã viên bất thường; nếu quá thời hạn này mà Ban quản trị không triệu
tập thì Ban kiểm soát phải triệu tập Đại hội xã viên bất thường để giải quyết các
vấn đề nêu trong đơn”
Ở luật hợp tác xã 2012 còn có quy định thêm 2 trường hợp khác tại điều
31:
“b,Hội đồng quản trị không tổ chức được cuộc họp định kỳ sau hai lần
triệu tập
c.Theo đề nghị của ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên”

Trên đây là một vài điểm mới của luật Hợp tác xã năm 2012 so với luật
hợp tác xã 2003.
KẾT LUẬN
Luật Hợp tác xã 2012 ra đời trong hoàn cảnh các quy định trong luật cũ
năm 2003 đã xuất hiện nhiều hạn chế, bất cập cần phải được khắc phục, sửa
chữa. Luật Hợp tác xã 2012 với nhiều điểm mới sẽ đóng một vai trò quan trọng
trong việc khuyến khích và phát triển mạnh mẽ nền kinh tế tập thể với hợp tác xã
là nòng cốt trở thành lực lượng to lớn, chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế
nước ta. Mô hình hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã kiểu mới theo luật năm 2012
nếu được thực hiện thành công sẽ đem lại thu nhập cũng như chất lượng cuộc
sống tốt hơn cho hàng chục triệu hộ nông dân, sản xuất, kinh doanh. Tất nhiên,
Luật hợp tác xã 2012 có nhiều đổi mới nhưng theo sự biến đổi, phát triển của xã
hội sẽ dần phát sinh những nhược điểm, mong rằng nhà nước theo dõi, kịp thời
sửa đổi, bổ sung giúp cho nền kinh tế nước nhà ngày một phát triển.
14


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Luật Hợp tác xã 2012
2.Luật Hợp tác xã 2003
3.Giáo trình Luật thương mại I, trường đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân
dân, 2007
4.Tờ trình về dự án Luật Hợp tác xã( sửa đổi), số 52/TTr-CP, ngày 30/3/2012
5.Đề cương giới thiệu Luật Hợp tác xã năm 2012, Bộ kế hoạch và đầu tư, vụ hợp
tác xã
15


16




×