Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Báo cáo kiến tập tại trung tâm tin học thể dục thể thao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.69 KB, 27 trang )

A. MỞ ĐẦU
Thực hiện theo quyết định số 71 ĐT/BC-TT ngày 12/2/2004 của Học
viện Báo chí và Tuyên truyền.Đoàn kiến tập của Học viện Báo chí và Tuyên
truyền năm học 2012-2013 được nhà trường tổ chức cho đi kiến tập từ
ngày15/10/2012 đến ngày 15/11/2012 của các cơ quan của tỉnh,thành
phố,huyện... Kiến tập là một phần quan trọng trong quá trình đào tạo cử nhân
tại các trường trung cấp, cao đẳng và đại học. Chương trình kiến tập là một
giai đoạn chuyển tiếp giữa môi trường học tập với môi trường thực tiễn xã
hội. Mục tiêu của đợt kiến tập này nhằm tạo điều kiện cho sinh viên có cơ hội
cọ sát với thực tế, gắn kết những lý thuyết đã học trên giảng đường với thực
tiễn bên ngoài.

1


B. NỘI DUNG
I NỘI DUNG KIẾN TẬP

1. Mục đích kiến tập
Hàng năm, sau khi hoàn thành tất cả các môn học của khoa, toàn thể sinh
viên năm thứ 3 thuộc khoa Văn hóa & Phát triển sẽ thực hiện chương trình
kiến tập kéo dài 1 tháng tại các cơ quan hoạt động trong lĩnh vực văn hóa,báo
chí, truyền thông…Đợt kiến tập được xem là thử thách bắt buộc dành cho các
bạn sinh viên năm thứ 3. Nội dung chương trình kiến tập nhằm rèn luyện cho
sinh viên khả năng độc lập trong tư duy và công việc. Các bạn sẽ tự mình vận
động, tìm nơi thực tập phù hợp với yêu cầu của khoa đã đề ra.
Sinh viên sẽ được khoa cấp giấy giới thiệu để xin thực tập tại những nơi
mà bạn muốn đến. Cùng với đó thì khoa cũng có những tư vấn cho sinh viên
những nơi mà họ có thể đến làm việc hoặc tham khảo danh sách những địa
điểm mà các cựu sinh viên khóa trước đã từng kiến tập tiện cho việc tìm hiểu
và nghiên cứu trong quá trình thực tập.


Nhận thức được vai trò của báo chí trong đời sống xã hội nói chung và
trong ngành văn hóa nói riêng, trong đợt kiến tập kéo dài 1 tháng này em đã
chọn Phòng Quản trị trang tin điện tử của Trung tâm tin học thể dục thể thao
với mục đích:
+ Vận dụng những kỹ năng cũng như kiến thức về báo chí đã được học
trong quá trình tham gia lớp nghiệp vụ báo chí do trường tổ chức cũng
như những lý thuyết trong lĩnh vực văn hóa đã được thầy,cô truyền thụ trên
giảng đường vào thực tiễn.
+ Mong muốn được tiếp xúc với môi trường thuận lợi cho sinh viên vận
dụng được các phương pháp và kỹ năng đã học vào việc thực hiện một số
công việc liên quan đến văn hóa,báo chí truyền thông theo hướng chuyên
nghiệp và có hệ thống.
+ Tiếp tục được nâng cao năng lực tự nghiên cứu, bồi dưỡng tình cảm
và trách nhiệm nghề nghiệp cho sinh viên.

2


+ Được rèn luyện tính tự lập, tính tổ chức và kỷ luật của sinh viên trong
một môi trường thực tế.
+ Tham gia khảo sát thực tế và viết bài cho một tòa soạn có vai trò đối
với xã hội.
+ Định hướng cho sinh viên lựa chọn đối tượng nghiên cứu, để viết ( cá
nhân hoặc nhóm) để tích luỹ kinh nghiệm, để tiến tới sự lựa chọn đề tài
nghiên cứu, hướng nghiên cứu chuyên nghiệp sau này trong công việc tuyên
truyền văn hóa sau này.
+ Tăng cường các mối quan hệ với cơ quan tổ chức, bổ sung, nâng cao
các kiến thức, kỹ năng của người làm truyền thông chuyên nghiệp.
+ Thực hiện được các phương pháp thu thập thông tin, phân tích và xử
lý thông tin liên quan đến cơ sở thực tập và đối tượng nghiên cứu: Tìm hiểu

và hòa nhập với cơ sở thực tập.
+ Tạo lập các mối quan hệ, trao đổi kinh nghiệm, xác định rõ các đối
tượng cần hướng tới trong quá trình tìm hiểu phát hiện đề tài.
+ Được sử dụng những kỹ năng mềm như giao tiếp, đàm phán, thương
lượng, kỹ năng làm việc nhóm.
+ Sinh viên phát hiện được những biểu hiện có vấn đề trong hành vi con
người, để từ đó phát hiện vấn đề và bắt đầu nghiên cứu tìm hiểu viết thành
một bài báo hoàn chỉnh có tính chất thông tin hoặc phản ánh, bình luận...
+ Tập dượt các kỹ năng nghề nghiệp báo chí trong các điều kiện có thể
trở thành một người truyền thông văn hóa đồng thời là một người làm báo
chuyên nghiệp.
+ Tìm hiểu tác phong làm việc cũng như công tác tuyên truyền chủ
người làm chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước tại Phòng Quản trị
trang tin điện tử về thể dục thể thao.
+ Tìm hiểu và làm quen với quá trình tổ chức ,cách viết một tin vắn,
cách đánh giá một sự kiện thể thao,tầm quan trong của nó với nước nhà,.tìm
hiểu các khâu,cách biên tập để một bài báo đủ tiêu chuẩn đăng.

3


2. Nhật ký kiến tập
Thời gian

Địa điểm

Nội dung

15/10/2012


36 Trần Phú - Ba Đình
- Hà Nội
Phòng Quản trị trang
tin điện tử(36 Trần
Phú - Ba Đình - Hà
Nội)
Phòng Quản trị trang
tin điện tử

Gặp mặt,tham quan chỗ kiến tập.

16,17/10/2012

18,19/10/2012

Tìm tài liệu,nghiên cứu về nhiệm
vụ,chức năng,tổ chức của Phòng
Quản trị trang tin điện tử

Tìm hiểu,đọc tài liệu,học hỏi
kinh nghiệm,cách viết bài.
23,24,25/10/2012 Phòng Quản trị trang Tìm hiểu,thu thập đánh giá thông
tin điện tử
tin thể thao dưới góc nhìn văn
hóa tại các trang báo điện tử về
các tin tức trong ngành,các sự
kiên thể dục thể thao trong và
ngoài nước,phục vụ cho quá
trình viết bài.
29/10/2012

Phòng Quản trị trang -Nộp bài viết,tin vắn…
tin điện tử
1/11/2012

Phòng Quản trị trang -Sửa bài,nghe đóng góp về bài đã
tin điện tử
viết

2,5,6/11/2012

Phòng Quản trị trang -đề tài viết bài tháng 11
tin điện tử
(lĩnh vực thể dục thể thao dưới
góc độ văn hóa)
-Đi thực tế và tìm hiểu từ các bài
viết trên các trang báo về văn
hóa thể thao (trong bóng đá)
-viết bài
Phòng Quản trị trang -Nộp bài đã viết
tin điện tử
Phòng Quản trị trang Sửa bài,nghe góp ý,rút kinh

7,8,/11/2012

10/11
13/11

4



15/11

tin điện tử
nghiệm
Phòng Quản trị trang -Kết thúc đợt kiến tập.
tin điện tử
-xin tài liệu viết báo cáo.

3.Thuận lợi và khó khăn trong quá trình kiến tập
a. Thuận lợi:
Trong suốt thời gian kiến tập tại đây tôi đã được mọi người trong phòng
Quản trị Trang điện tử tạo điều kiện tốt nhất để được tham gia làm việc . Tôi
được tham gia vào viết bài...Bên cạnh đó tôi còn được nêu ý tưởng của mình.
Qua nhận xét, sửa chữa,đóng góp những ý kiến, những thiếu xót trong ý
tưởng đã giúp khả năng viết của tôi tiến bộ hơn rất nhiều. Trong quá trình
kiến tập tôi cũng học hỏi được rất nhiều từ cách giao tiếp, cư xử với đồng
nghiệp, với cấp trên, đối tác làm việc...
Được theo chân các anh chị đi thực tế ,được chỉ bảo các bước cần thiết
để có thể hoàn thành một tác phẩm báo trí chí....bản thân tôi đã được làm tất
cả các bước từ nêu ý tưởng đến khi tác phẩm được hoàn thành. Nhờ vậy tôi có
thêm được nhiều kinh nghiệm trong quá trình làm việc cũng như thực tế.
Tôi đã thực sư hiểu được rõ nét, sâu sắc hơn về những công việc của một
người làm báo phụ trách một trang tin điện tử về thể dục thể thao. Qua đây tôi
cũng hiểu hơn về công việc của mình trong tương lai. Đây là một nghề luôn
đòi hỏi sự sáng tạo, lòng yêu nghề, sự thông minh nhạy bén trong cách xử lý
công việc, quan hệ ngoại giao để hoàn thành những tác phẩm hay, chuyển tải
được nội dung cần thiết trong quá trình tuyên truyền văn hóa trong tương lai.
Những điều thuận lợi ở trên đã giúp cho tôi trưởng thành hơn rất nhiều,
biết làm việc một cách khoa học nhất. Đó là những điều tôi cần cố gắng hơn
nữa để ngày càng có thêm nhiều kinh nghiệm và sự hiểu biết, góp phần vào

công việc của tôi sau này.
b. Khó khăn:
Đây là kì kiến tập đầu tiên và cũng là lần đầu tiên tiếp xúc với môi
trường làm việc thực tiễn vì vậy trong quá trình kiến tập tôi gặp một số khó
khăn:
- Còn chưa tự mình tìm kiếm được nhiều đề tài hay, sát với chuyên mục
trong phòng.
5


- Trong giao tiếp còn rụt rè nên chưa tiếp xúc, học hỏi được nhiều ở các
anh chị phòng khác như các viết bài,biên tập bài....
- Có ý tưởng nhưng việc triển khai thành tác phẩm còn gặp nhiều khó
khăn do chưa biết cách liên hệ với đối tượng cần cho tác phẩm.
-Với những nhược điểm ở trên tôi tin rằng sau một thời gian rèn luyện,
tham gia làm việc nhiều hơn nữa tôi sẽ khắc phục được những điều đó. Với
những nỗ lực, cố gắng của bản thân tôi hi vọng mình có thể trở thành một
phóng viên có năng lực, có nghiệp vụ tốt để sáng tạo ra những tác phẩm báo
chí hay phục vụ cho quá trình truyền tải văn hóa,đúng với chuyên ngành mà
tôi đang theo đuổi.

6


II. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRUNG TÂM TIN HỌC THỂ DỤC THỂ
THAO

1. Giới thiệu chung
Trung tâm tin học thể dục thể thao là một trong 18 cơ quan trực thuộc
Tổng cục Thể dục thể dục,thể thao.Trung tâm tin học Thể dục,Thể thao được

thành lập 2003,giám đốc trung tâm là ông Đàm Quốc Chính.Cơ quan này thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về thể dục, thể thao trong phạm vi cả nước;
quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc lĩnh vực thể dục, thể thao theo quy
định của pháp luật.
Trung tâm tin học thể dục thể thao
Địa chỉ: 36 Trần Phú - Ba Đình - Hà Nội
Điện thoại: (84-4) 3747 3310 - 3747 2958
Email:
Trong đợt kiến tập vừa qua tôi đã lựa chọn phòng quản trị Trang tin điện
tử làm địa điểm kiến tập.
Phòng Quản trị Trang tin điện tử là một trong những phòng ban thuộc
trung tâm tin học thể dục thể thao,được thành lập năm 2004.
Website:
Phòng Quản trị trang tin điện tử có chức năng,nhiệm vụ,quyền hạn và
trách nhiệm chính sau:
2.Chức năng
2.1 Quản trị hai Trang điện tử UBTDTT đảm bảo sự vận hành thường
xuyên và liên tục.
2.2 Tạo lập thong tin qua khai thác,thu thập, xử lí,cung cấp phổ biến các
thong tin chuyên ngành TDTT.
2.3 Thông tin nhanh về cơ chế chính sách của Đảng và Nhà nước ,công
tác nghiên cứu khoa học,đào tạo,ứng dụng khoa học công nghệ ,quản lý..v.v
phục vụ yêu cầu chỉ đạo ,uản lý Nhà Nước của UBTDTT.
2.4 Tổ chức ,quản lý đội ngũ cán bộ trong Phòng và đội ngũ cộng tác
viên đảm bảo cung ứng thong tin kịp thời,chính xác.
3.Nhiệm vụ:
3.1 Chủ trì xử lý,tìm kiếm thong tin công tác quản lý cảu UBTDTT.
3.2 Chủ trì xây dựng kế hoạch công tác của Phòng và đội ngũ cộng tác
viên để cập nhật thong tin kiphj thời cho Trag điện tử.
7



3.3 Chủ trì thu thập các văn bản quy phạm,pháp lật nhằm phục vụ yêu
cầu quản lý ,đào tạo,huấn luyện trong ngành TDTT.
3.4 Khai thác các nguồn thông tin trong và ngoài nước theo các lĩnh
vực:Biên tập bài viết ,bài dich để đăng trên Trang điện tử UBTDTT.
3.5 Tổ chức biên tập ,nhập liệu các loại văn bản về cơ chế chính
sách,hoạt động KHCN,quản lý,… phục vụ các yêu cầu lãnh đạo UBTDTT và
các đơn vị trong ngành TDTT.
3.6 Biên soạn ,dịch thuật các thông tin trong và ngoài nước theo chuyên
đề phục vụ công tác của Trung tâm và UBTDTT.
3.7 Tổ chức cập nhạt thông tin cho Trang điện tử ,các hệ thống tác
nghiệp và các cơ sở dữ liệu của Trung tâm và UBTDTT.
3.8 Phối hợp với các Phòng chuyên môn khác thuộc Trung tâm tin học
để xây dựng ,nâng cấp và phát triển các modul trong hệ thống này.
3.9 Thực hiện các việc đột xuất của UBTDTT và của Trung tâm Tin học
giao.
4.Quyền hạn và trách nhiệm ,cơ cấu tổ chức:
4.1 Tổ chức ,quản lý và điều hành về mọi mặt của Phòng theo chứ năng
nhiệm vụ được giao và theo các qui chế,nội qui của UBTDTT và của Trung
tâm Tin học.
4.2 Xây dựng qui chế làm việc,mối quan hệ,phối hợp công tac của cơ
quan. Phòng trình lãnh đạoTrung tâm Tin học phê duyệt để triển khai thực
hiện.
4.3 Phân công công tác và kiểm tra ,đánh giá kết quả công tác của cán bộ
công chức trong Phòng theo nhiệm vụ được giao.
4.4 Phổ biến,tổ chức chỉ đạo cán bộ viên chức trong Phòng thực
hiện,tuân thủ pháp luật ,chính sách,quy định ,quy chế làm việc ,nội quy của
UBTDTT và Trung tâm Tin học.
4.5 Quan hệ với các đơn vị trong và ngoài ngành TDTT( được lãnh đạo

Trung tâm Tin học cho phép) để thực hiện các chức năng nghiệm vụ được
giao.
4.6 Tổ chức quản lý và sử dựng có hiệu quả tài sản,phương tiện làm việc
của Phòng theo chế độ,chính sách Nhà nước và quy định hiện hành.

8


Cơ cấu tổ chức của phòng Quản trị Trang tin điện tử :Phòng quản trị
Trang tin điện tử có:
+1 trưởng phòng.
+Một số phó trưởng phòng,Bộ phận (tổ công tác )
+Các chuyên viên.
Tại đây vào đầu tuần cả phòng sẽ họp để phân công công việc cho từng
người và lên lịch làm việc cụ thể. Các phóng viên tiến hành viết tin, phóng sự
và đến cuối tuần sẽ tiến biên tập và hoàn thành bài viết. Nhờ có lịch làm việc
cụ thể nên các công việc đều được thực hiện một cách nhanh chóng và chính
xác, đảm bảo thời gian đăng bài kịp thời,đúng với kế hoạch đặt ra.

9


III. ĐỀ TÀI: “NÂNG CAO VĂN HOÁ BÁO CHÍ TRONG THỜI KỲ
HỘI NHẬP”

1.Khái niệm văn hóa,báo chí và văn hóa báo chí.
1. 1.khái niệm văn hóa:
Cho đến nay, hai từ “văn hóa” có đến vài trăm định nghĩa, tùy góc tiếp
cận của mỗi người; định nghĩa nào cũng đúng và cũng có mặt chưa bao quát.
Vì vậy cần thống nhất trước với nhau, văn hóa chúng ta đề cập ở đây là nền

tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh của phát triển, biểu hiện trong
cuộc sống bằng nhiều hình thái và qua nhiều hoạt động, ở đó con người giữ vị
trí chủ đạo và trung tâm. Xã hội chúng ta kiến tạo là xã hội xã hội chủ nghĩa
nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, do dân
làm chủ, với nền kinh tế phát triển cao, văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc.
1.2 khái niệm báo chí:
Báo chí có nhiều cách hiểu, cái chung nhất được mọi người chấp nhận là,
nói báo chí là nói thông điệp. Thông điệp mang tin tức, tư tưởng, quan
điểm… của người, thể hiện qua lời, chữ, tiếng, hình… hoặc riêng rẻ hoặc liên
kết bằng công nghệ. Nhà báo chuyển thông điệp đến công chúng bằng
phương tiện truyền thông. Truyền thông không chỉ là công cụ vật chất, là
công nghệ và kỹ thuật, truyền thông trước hết là người. Thông điệp báo chí vì
vậy có thể cao quý, nhân văn, phục vụ lợi ích cộng đồng, cũng có thể thô tục,
phi văn hóa, phi đạo đức, phục vụ lợi ích nhóm và tham vọng kinh tế-chính trị
của họ. Trong thời đại toàn cầu hóa, do nhiều yếu tố đan xen, ranh giới trong
nội dung thông điệp không rõ nét như trước song chẳng bao giờ biến mất
hoàn toàn.
1.3 Khái niệm văn hóa báo chí.
Bác Hồ dạy: “Nói đến báo chí trước hết phải nói đến người làm báo
chí”.Vì vậy “văn hóa báo chí” có nghĩa là văn hóa của người làm báo, nhà
báo phải luôn luôn coi tác nghiệp của mình là hoạt động văn hóa. Nói “nhà
báo - nhà văn hóa” là nói đến tố chất văn hóa nơi người làm báo. Trong công
việc, tố chất văn hóa người làm báo thể hiện trước hết bằng đạo đức nghề
nghiệp. Nhà báo có văn hóa là người tôn trọng luật pháp, tôn trong các quy
ước của cộng đồng. Văn hóa báo chí biểu hiện cuối cùng ở hiệu quả xã hội
của từng tác phẩm, ở cống hiến của từng người làm báo trong suốt cuộc đời
10


tác nghiệp, ở tác động dài lâu của từng cơ quan báo chí, truyền thông vào tiến

trình phát triển.
Văn hóa của người làm báo thể hiện ở thái độ đối với tổ quốc, xã hội,
tâm linh…, ở cách ứng xử với thiên nhiên, môi trường, đồng nghiệp, đồng
bào…, cả với đối phương khi cần. Do nhu cầu nghề nghiệp, nhà báo hòa nhập
giới thượng lưu mà không lấy thế làm sang, sống chung với lớp người nghèo
khó thậm chí bị coi là hạ đẳng trong xã hội mà không tiêm nhiễm những thói
hư tật xấu của một số nào trong đó. Từ khi ra đời, đội ngũ báo chí ta có rất
nhiều gương sáng người cầm bút hiên ngang khí phách trước kẻ thù, cùng anh
chiến sĩ xung kích lên tuyến lửa không chút ngại ngần, cho dù biết mình có
thể nằm lại vĩnh viễn nơi đây. Không thể gọi là có văn hóa những ai vô cảm
trước nỗi đau của đồng bào, đồng loại, ra ngoài thì phong nhã hào hoa, về nhà
dở thói côn đồ với vợ con, thô bạo với hàng xóm, dửng dưng trước biến đổi
khí hậu, mải mê chạy theo đồng tiền và danh vọng mà bon chen, chụp giật,
xâm phạm đời tư người khác, không ngại ngùng tung ra công chúng những
sản phẩm chất lượng kém thậm chí độc hại, miễn là có tiền, nổi tiếng. “Nghề
báo có thể đưa người ta đến bất kỳ đâu, cái quan trọng là biết dừng lại khi
cần”, người xưa từng nói.
Tố chất văn hóa của người làm báo, hàm lượng văn hóa trong sản phẩm
truyền thông hiện lên mặt báo, màn hình qua âm thanh, màu sắc, công nghệ,
kỹ xảo… Tuy nhiên sẽ sai lầm nếu đồng nhất tác phẩm báo chí ăn khách nhất
thời nhờ thủ thuật, nhờ hợp thị hiếu một bộ phận nào đó trong cư dân, với tác
phẩm có lượng văn hóa hàm súc bên trong, cũng như không nhất thiết nhà
báo nổi danh nào cũng là người văn hóa cao...đồng thời tố chất văn hóa còn
được hiểu theo nghĩa nhân văn, không đơn thuần biểu hiện bằng trình độ tri
thức, học vị, cống hiến, tài hoa... cho dù đấy là những phẩm cách không thể
thiếu. Nhà báo Phan Quang khẳng định: “Văn hóa báo chí biểu hiện cuối cùng
ở hiệu quả xã hội của từng tác phẩm, ở cống hiến của từng người làm báo
trong suốt cuộc đời tác nghiệp, ở tác động dài lâu của từng cơ quan báo chí,
truyền thông vào tiến trình phát triển. Mối quan hệ văn hóa – báo chí thường
là tiềm ẩn, song đấy lại là cái âm thầm, bền bỉ khắc họa nhân cách nhà báo

chân chính, phân biệt họ với những kẻ lợi dụng báo chí với mục đích tầm
thường...”.
11


-Mối quan hệ giữa văn hóa và báo chí: Văn hoá và báo chí - truyền thông có
mối quan hệ khăng khít, biện chứng. Báo chí là bộ phận của văn hoá nhưng
báo chí cũng sáng tạo ra và phổ biến văn hoá, lưu truyền văn hoá. người làm
báo phải hiểu văn hoá, có văn hoá, coi hoạt động báo chí không những là hoạt
động chính trị-xã hội mà còn là hoạt động mang đậm tính văn hoá. Chúng ta
tự hào, trong làng báo Việt Nam đã có những nhà báo được đồng nghiệp,
được công chúng ngưỡng mộ, đón nhận như những nhà văn hóa. Tuy nhiên,
trên thực tế cũng còn có những nhà báo coi nhẹ tính văn hóa, yêu cầu về văn
hóa trong hoạt động nghề nghiệp.
2. Thực trạng về chất lượng văn hoá báo chí ở Việt Nam hiện nay
Đời sống xã hội ngày càng phát triển, càng phong phú, đa dạng, phức
tạp. Điều đó đòi hỏi mỗi nhà báo không chỉ cần kiến thức chuyên ngành sâu
sắc, mà phải có nền tảng kiến thức vững vàng về chính trị,kinh tế,xã hội,văn
hoá.Kiến thức chuyên sâu cùng phông văn hoá rộng sẽ giúp nhà báo có cái
nhìn sâu sắc về từng linh vực,có vốn tài liệu,tư liệu để khái quát,so sánh đối
chiều xây dựng tác phẩm của mình sâu sắc và cá tính riêng,nó là nền căn bản
tạo nên năng lực của nhà báo và cơ sở ra đời của sản phẩm báo chí có chất
lượng văn hoá.
Trong những năm qua các cơ quan báo chí dưới sự lãnh đạo của các cấp
uỷ Đảng,sự chỉ đạo của các cơ quan quản lý,đã góp phần tích cực và có hiệu
quả vào việc thực hiện nhiệm vụ thong tin truyền thong tuyên truyền đường
lối,chính sách của đảng và sự quản lý của nhà nươc.Báo chí phản ánh kịp thời
tâm tư,nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân,phát hiện các nhân
tố mới điển hình tiên tiến và những thành tựu to lớn có ý nghĩ lịch sử trong
việc triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng trong đời sống xã hội…nhiều

cơ quan báo chí đã năng động,tchs cực trong cuộc đấu tranh chống tham
nhũng,lãng phí và các hiện tượng tiêu cực xã hội khác,tích cực đấu tranh
chống diễn biến hoà bình,phản bác quan điểm sai trái.
Báo chí mới ra đời nhưng lớn mạnh nhanh, cống hiến nhiều cho sự phát
triển, từ đó nghiễm nhiên trở thành một bộ phận cấu thành văn hóa, đồng thời
là phương tiện thực thi, quảng bá văn hóa. Một minh chứng về mối quan hệ
qua lại giữa báo chí và văn hóa ở nước ta là vai trò của báo chí trong sự khẳng
định, quảng bá và hoàn thiện chữ quốc ngữ... Báo chí là văn hóa thì tất nhiên
12


đòi hỏi người làm báo phải có văn hóa, nhà báo phải luôn coi tác nghiệp của
mình là hoạt động văn hóa. Nói “nhà báo – nhà văn hóa” là nói đến tố chất
văn hóa nơi người làm báo. Tố chất văn hóa được hiểu theo nghĩa nhân văn,
không đơn thuần biểu hiện bằng trình độ tri thức, học vị, cống hiến, tài hoa...
cho dù đấy là những phẩm cách không thể thiếu. Nhà báo Phan Quang khẳng
định: “Văn hóa báo chí biểu hiện cuối cùng ở hiệu quả xã hội của từng tác
phẩm, ở cống hiến của từng người làm báo trong suốt cuộc đời tác nghiệp, ở
tác động dài lâu của từng cơ quan báo chí, truyền thông vào tiến trình phát
triển. Mối quan hệ văn hóa – báo chí thường là tiềm ẩn, song đấy lại là cái âm
thầm, bền bỉ khắc họa nhân cách nhà báo chân chính, phân biệt họ với những
kẻ lợi dụng báo chí với mục đích tầm thường...”.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn quan
tâm đến hoạt động báo chí, coi báo chí là công cụ đắc lực để tuyên truyền,
vận động nhân dân, là vũ khí sắc bén tấn công kẻ thù. Chính nền báo chí cách
mạng đã làm tròn sứ mệnh mà Đảng và nhân dân giao phó. Báo chí đã đưa
những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đến với các giai tầng xã
hội, cổ vũ, động viên, góp phần làm cho chủ trương, chính sách đi vào cuộc
sống, thành những phong trào hành động cách mạng sôi động. Đồng thời,
chính từ thực tiễn cuộc sống, báo chí đã kịp thời chỉ ra những khiếm khuyết,

tồn tại của các quyết sách đã ban hành; đề xuất, kiến nghị với Đảng và Nhà
nước cần phải sửa đổi, bổ sung để đáp ứng nhu cầu cuộc sống, nguyện vọng
của nhân dân, góp phần làm cho “ý Đảng, lòng dân” hòa làm một.
Báo chí cũng đã đấu tranh không khoan nhượng với cái xấu, cái ác,
những hiện tượng tham ô, lãng phí, tiêu cực trong đời sống xã hội; đề đạt
những tâm tư, nguyện vọng của nhân dân với Đảng; thật sự là diễn đàn tiếng
nói của mọi tầng lớp nhân dân, là “tai mắt” của Đảng, Nhà nước trong quá
trình lãnh đạo, điều hành đất nước. Đó chính là sứ mệnh thiêng liêng, vai trò
phản biện xã hội mà báo chí và nhà báo-những người cầm bút, phải đảm
đương, thể hiện sự dân chủ hóa trong đời sống xã hội, tính ưu việt của chế độ
ta. Để làm được điều này, nhà báo phải không ngừng học hỏi trau dồi về bản
lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp, phải
lăn lộn, đắm mình trong thực tiễn, “cái tâm, cái tầm, cái tài” phải đáp ứng
được nhu cầu của xã hội, trách nhiệm công dân của mỗi nhà báo.Bên cạnh
13


những thành tựu đã đạt được thì báo chí hiện nay còn gặp phải một số hạn
chế.
-Hạn chế
+Văn hóa báo chí đang quá xô bồ
Việc đua tranh đưa tin và bình luận về sự kiện-hiện tượng bất thường đã
đưa tới một hệ quả là tình trạng “chụp giật”, nổi lên là “chụp giật” thông tin
vụ án, tin tức liên quan đến người nổi tiếng hoặc các sự vụ có thể tác động
đến sự hiếu kỳ và lôi cuốn số đông. Cứ vào trang văn hóa của một website
báo mạng chuyên tổng hợp tin bài sẽ gặp vô số tin bài rất ít tính văn hóa, đại
loại như: PTV sợ bị coi là giả tạo nếu mặc kín; Phát ngốt vì TNH dạo phố
“kín trên hở dưới”... làm nhiễu loạn chuẩn mực văn hóa lành mạnh! Bàn về
văn hóa truyền thông trong môi trường internet, nhà báo Nguyễn Thúy Hoa
(báo điện tử VOV online) thông tin: Hiện cả nước đã có tới 30.516.587 người

dùng internet, chiếm 33,05% dân số, trong đó có tới 4 triệu người dùng
internet băng thông rộng… Theo kết quả nghiên cứu được Yahoo công bố gần
đây thì tỷ lệ người trẻ của ta dùng internet chiếm số đông hơn cả. Như vậy
cũng có nghĩa: nếu báo chí không làm tốt chức năng văn hóa thông tin, trái
lại, đăng tải những thông tin phản giáo dục thì tác hại thật khó lường. Thực
trạng thật đáng buồn:Báo chí ngày nay đầy rẫy những “chiêu” câu khách,
những “đâm, cướp, hiếp, giết” được thể hiện bằng những “lâm, khốc, giật,
sốc”. các báo đua nhau đăng những chuyện kích thích trí tò mò, nhằm thỏa
mãn nhu cầu tầm thường của ai đó, khai thác triệt để những vụ án đau lòng,
bạo lực với những tình tiết rùng rợn. Đua nhau phát tán các hình ảnh khêu
gợi, khiêu dâm, những pha quảng cáo phơi bày da thịt, động tác động chạm
phản cảm. Có tờ báo, giở ra là vô vàn tít “khủng”, là vô vàn nội dung “trái với
thuần phong, mỹ tục”. Có thể là có văn hóa được không khi tác phẩm báo chí
khai thác thông tin câu khách theo kiểu “gặp người thân kẻ thủ ác” hoặc
“trước khi gây án Luyện đã ăn mì tôm”… Hàng loạt tờ báo đưa tin về một cái
chết bình thường của một cá nhân ở một huyện nọ chỉ vì trước đó chị gái anh
ta đã tổ chức cho con mình một “siêu đám cưới”. Chưa hết, với kiểu làm báo
“nghe nói” họ còn “cho rằng” đó là cái chết do tự tử vì vỡ nợ. Đạo đức, nhân
văn và văn hóa ở đâu khi trong bài báo đưa tin về cái chết ấy, người ta còn
đăng kèm video clip của đám cưới của con, cháu họ.
14


Chúng ta gặp trường hợp cùng một tin, bài viết của một tác giả đăng ở
nhiều báo khác nhau (nội dung, có khi chỉ là một vụ tai nạn, dăm bảy con rắn
hổ chết ven sông, tổ kiến hình con hươu…). Những tin tức vụn vặt còn được
xáo xào, thêm thắt, thay tiêu đề… Và, kết quả là: người đọc phải ngồi trước
những món ăn hổ lốn, chua vữa.
Văn hóa báo chí có nghĩa là đòi hỏi người làm báo phải có văn hóa, nhà
báo phải luôn luôn coi tác nghiệp của mình là hoạt động văn hóa. Điều đáng

lo ngại nhất là chất lượng tư tưởng, văn hóa, trình độ nghiệp vụ của một số
nhà báo hiện nay chưa ngang tầm với yêu cầu của đời sống. Điều đó đòi hỏi
bản thân mỗi nhà báo phải có sự nỗ lực trau dồi, rèn luyện không ngừng.
Từ chỗ không “ngang tầm” đó, dẫn đến tác phẩm báo chí cũng thiếu đi
lối thể hiện, ứng xử truyền thống của văn hóa Việt Nam. Văn hóa báo chí biểu
hiện cuối cùng ở hiệu quả xã hội của từng tác phẩm: tác phẩm được thể hiện
như thế nào, đối tượng người đọc là ai, hướng đến giá trị nhân văn như thế
nào…
+Báo chí ngày càng mang khuynh hướng thực dụng, thương mại hóa
Từ khi Đảng ta chủ trương thực hiện công cuộc đổi mới, cũng như nhiều
lĩnh vực khác, báo chí thay đổi điều kiện hoạt động từ bao cấp sang kinh tế thị
trường định hướng XHCN, ngoài những cơ quan báo chí hoạt động bằng ngân
sách Nhà nước theo cơ chế đơn vị sự nghiệp có thu, hầu hết các cơ quan báo
chí đều hoạt động theo cơ chế tự hạch toán kinh tế. Cũng từ đó, hiện tượng
báo chí chạy theo lợi nhuận kinh tế đơn thuần bộc lộ ngày càng rõ và dần trở
thành một khuynh hướng đáng lo ngại.
Cụm từ "thương mại hóa" báo chí được cho là được sử dụng một cách
chính thức đầu tiên tại Chỉ thị 08/CT-TƯ ngày 31/3/1992, của Ban Bí thư
Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo và quản lý nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả công tác báo chí, xuất bản. Tại Chỉ thị này, Ban Bí thư cho
rằng, khuynh hướng thương mại hóa, chạy theo lợi nhuận đơn thuần khá nặng
nề dẫn tới đua nhau đăng và phát những tin, bài, hình ảnh giật gân, câu khách.
Khuynh hướng sai lầm đó đã được các cơ quan có trách nhiệm chỉ đạo uốn
nắn, nhắc nhở, đã bị dư luận lên án nhưng chưa sửa chữa được nhiều. Tại
Nghị quyết Hội nghị T.Ư 5 (khóa VIII) Về xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Chỉ thị 22/CT-TƯ ngày 17/10/1997 của Bộ
15


Chính trị khóa VIII về Tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý

công tác báo chí, xuất bản; tại các hội nghị báo chí, xuất bản toàn quốc hàng
năm đều đã có những phân tích, phê phán nghiêm khắc khuynh hướng nói
trên.
Những giá trị văn hóa thể hiện sức sáng tạo trong toàn bộ hoạt động vật
chất, tinh thần của xã hội. Tuy nhiên, văn hóa văn nghệ thuộc thượng tầng
kiến trúc của xã hội. Ðời sống tinh thần, những giá trị nhân văn, trí tuệ sắc sảo
và tâm hồn mẫn cảm của dân tộc đều thuộc về phạm trù ý thức tinh thần của
xã hội khác biệt với hoạt động sản xuất vật chất, hàng hóa, nhu yếu phẩm
trong đời sống. Cũng vì thế tuy có những mối liên hệ chặt chẽ nhưng không
thể đánh đồng giữa hoạt động vật chất và tinh thần của xã hội.
Quá trình chuyển hóa từ chế độ phong kiến sang chủ nghĩa tư bản các chuẩn
mực giá trị cũng thay đổi. Trong tuyên ngôn Ðảng Cộng sản, Mác-Ăng-ghen
đã chỉ ra tình trạng mất thiêng, tiền trao cháo múc khi đồng tiền lên ngôi. Mác
phê phán khuynh hướng thực dụng đánh đồng hoạt động ý thức với hoạt động
sản xuất. Luận bàn về vấn đề này Mác có những ý độc đáo. Người viết nhiều
khi không xem tác phẩm của mình là một phương tiện. Tác phẩm có mục đích
tự thân và khi cần “có thể hy sinh sự tồn tại của cá nhân mình cho sự tồn tại
của tác phẩm". Nguyên tắc quan trọng đó có thể hiện đúng nhận thức về bản
chất của hoạt động văn nghệ và rộng ra cả văn hóa. Không thể biến hoạt động
truyền thông văn hóa thành thực dụng tầm thường. Suy cho cùng vì lợi ích
kinh tế hoặc do trình độ hạn chế. Với báo chí truyền thông lại dễ nảy sinh
khuynh hướng thương mại hóa...
Mặc dù các cơ quan lãnh đạo, quản lý báo chí đã có nhiều hình thức,
biện pháp để ngăn chặn, khuynh hướng "thương mại hóa" báo chí không
những chưa bị đẩy lùi mà còn diễn biến theo chiều hướng trầm trọng, phức
tạp. Biểu hiện "thương mại hóa" cũng muôn hình nhiều vẻ. Trong đó, dễ nhận
thấy nhất là nhiều cơ quan báo chí chạy theo các tin, bài mang tính giật gân,
câu khách, câu view, câu comment (chia sẻ, bình luận), đưa nội dung các tin,
bài về đề tài "cướp - giết - hiếp", "tình - tiền - tù - tội" với liều lượng đậm đặc,
thái quá. Chú trọng đến việc miêu tả rùng rợn, ly kỳ, khêu gợi, dung tục... chỉ

quan tâm phục vụ những thị hiếu thấp kém, tầm thường. Diễn tiến của quá
trình "thương mại hóa" lại là quá trình "tầm thường hóa", "lá cải hóa" chất
16


lượng nội dung thông tin bởi việc hạ thấp chất lượng chính trị, văn hóa, khoa
học của báo chí, thiếu quan tâm đến tính giáo dục, đến hậu quả, tác động của
thông tin đối với cộng đồng. Nhiều cơ quan báo chí lợi dụng cái gọi là giáo
dục giới tính đã đăng tải dày đặc các câu chuyện về tình dục, nhưng lại không
hề có tính giáo dục.
Để thu hút bạn đọc, để được coi là nhanh nhạy, nhiều cơ quan báo chí đã
bộc lộ sự cẩu thả trong việc tìm mọi cách chạy đua bằng mọi giá để có những
thông tin mới, "nóng", bất chấp tính chính xác của nội dung thông tin. Gần
đây, ngày 18/9/2012, phóng viên Nguyễn Chu Trinh viết bài đăng trên trang
mạng VOV miêu tả cảnh "ông A. (58 tuổi) cùng nàng dâu (36 tuổi) quan hệ
tình dục trong khi người con trai đi làm xa... Sau khi báo điện tử VOV đăng
tải bài viết, lập tức có hàng chục báo mạng, báo viết, hàng trăm trang tin điện
tử khác đều khai thác và đăng tải lại thông tin này. Trong đó, người ta thống
kê có đến hàng chục bài báo đã "xào" lại câu chuyện trên...
Do sự việc thu hút quá nhiều sự quan tâm của báo chí, công luận, nên cơ
quan chức năng đã vào cuộc. Sau thời gian kiểm tra, thẩm tra, ngày 20/9/2012
báo điện tử VOV đã chính thức cải chính thông tin và chính thức cho biết
rằng đó chỉ là thông tin thất thiệt, do P.V Nguyễn Chu Trinh chỉ nghe tin đồn,
chưa xác minh, đã vội dựng nên chuyện và viết thành bài báo. Nói tóm lại, là
trên thực tế hoàn toàn không xảy ra vụ việc trên.
Vì thế, ngày 3/10, Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) đã ký
Quyết định thi hành kỷ luật phóng viên Nguyễn Chu Trinh với hình thức
Cảnh cáo, không được hoạt động nghiệp vụ báo chí vô thời hạn và bố trí làm
công việc khác do vi phạm viết tin sai sự thật, không tuân thủ quy trình sản
xuất tin, bài. Cùng ngày, Tổng Giám đốc VOV cũng ký Quyết định thi hành

kỷ luật ông Phạm Mạnh Hùng, Tổng Biên tập Báo Điện tử VOV thuộc VOV
với hình thức Khiển trách do đăng tin sai sự thật, không tuân thủ quy trình sản
xuất tin, bài. Sự việc này không chỉ làm cho VOV bị "mất mặt", Tổng Biên
tập và phóng viên bị kỷ luật, mà nhiều báo điện tử, báo viết, trang tin điện tử,
nhiều phóng viên khác cũng một phen bị "hố", bị lộ chân tướng vì đã chạy
theo tin "hot" nhằm mục đích bán báo.
Một số cơ quan báo chí, lợi dụng một số điểm gần nhau giữa hoạt động
kinh tế báo chí với "thương mại hóa" báo chí nên đã thực hiện những cách
17


làm hết sức sai lệch, thiếu trách nhiệm. Đó là việc biến báo chí, một bộ phận
thuộc lĩnh vực tư tưởng - văn hóa của Đảng, thành đối tượng kinh doanh;
đồng nhất báo chí, một sản phẩm hàng hóa đặc biệt, với các loại hàng hóa
thông thường, tầm thường khác nhằm mục tiêu lợi nhuận. Nhiều cơ quan báo
chí đã không ngần ngại chuyển giao ấn phẩm của mình cho một cá nhân hoặc
nhóm cá nhân, cơ sở kinh doanh nào đó, để mặc sức cho cá nhân, nhóm cá
nhân hoặc cơ sở kinh doanh nào đó "tự tung tự tác", tự chủ hoàn toàn trong
việc tổ chức tin bài, in ấn, phát hành, tổ chức hoạt động báo chí và sử dụng
nhân sự đi làm báo. Cách làm này thường gọi là "bán cái".
Hoạt động "bán cái" thường thấy ở một số báo, tạp chí của các cơ quan
ngành, hội... ở Trung ương. Các cơ quan, tổ chức này "bán cái" dưới nhiều
hình thức, có khi là bán từng trang (bán "đất"-diện tích mặt báo), có khi là bán
các chuyên mục, có khi là bán hẳn từng số ra, và tệ hơn, là đã xuất hiện hiện
tượng bán hẳn các ấn phẩm cho một hoặc một số cá nhân, tổ chức khác. Hậu
quả của "thương mại hóa" theo dạng "bán cái" này rất nghiêm trọng, đó là sự
xa rời tôn chỉ, mục đích, coi nhẹ chức năng tuyên truyền, giáo dục chính trị,
tư tưởng, chức năng văn hóa, thẩm mỹ. Đánh mất vai trò quản lý, giám sát,
chịu trách nhiệm của cơ quan chủ quản, đồng thời bỏ qua sự lãnh đạo, chỉ đạo
và quản lý của Đảng và Nhà nước.

Trong thời gian vừa qua ở nước ta một số cơ quan quản lý báo chí đã
từng phát hiện không dưới một ấn phẩm báo chí bị "bán cái" hoàn toàn "dạt"
vào hoạt động trên địa bàn. Tuy măng sét, tên gọi của tờ báo, đơn vị chủ quản
và tôn chỉ mục đích của các tờ báo này thuộc địa bàn khác, đối tượng và phạm
vi phản ánh khác, nhưng những ấn phẩm này lại hoàn toàn đăng tin bài về
Nghệ An, thậm chí được tổ chức in ấn và phát hành chỉ trên phạm vi địa bàn
Nghệ An. Cơ quan quản lý báo chí tỉnh nhà đã kịp thời phát hiện và có ý kiến
với cơ quan chủ quản về tình trạng "bán cái" nói trên và đã "đẩy" được một ấn
phẩm bị "bán cái" ra khỏi địa bàn.
Ở các thành phố như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh cũng phổ biến
hiện tượng một số tờ báo chạy theo lối kinh doanh báo chí tư sản, sưu tầm
chuyện giật gân, đi vào đời tư cá nhân và thêu dệt, tô điểm thêm cho hấp dẫn,
chạy theo thị hiếu tầm thường của một bộ phận công chúng, dẫn đến hạ thấp
chất lượng tờ báo. Vì cạnh tranh độc giả, cạnh tranh báo chí, một số tờ báo
18


chạy theo thị hiếu tầm thường, thấp hèn, tìm sự việc ly kỳ và rút tít giật gân,
câu khách, phản ánh vụ án một cách ghê rợn, đi sâu vào mảng mặt đen, tiêu
cực của xã hội, khai thác đời tư của các nhân vật nhất là các giới ca sỹ, diễn
viên, người mẫu một cách tùy tiện, dẫn đến tình trạng báo chí có xu hướng “lá
cải hóa”
Hậu quả, tác động tiêu cực của khuynh hướng "thương mại hóa" đối với
đời sống xã hội, với cộng đồng là rất nguy hiểm. Một số tờ báo vì lấy tiêu chí
kinh tế làm đầu nên đã không ngại chà đạp lên pháp luật, chân lý, luân lý đạo
đức, bỏ qua chức năng tuyên truyền, định hướng thông tin và giải quyết các
vấn đề bức thiết của xã hội, ngược lại còn tạo ra những tác động tiêu cực, làm
đảo lộn các giá trị văn hóa và tiềm ẩn những nguy hại về an ninh tư tưởng. Vì
vậy, việc ngăn chặn khuynh hướng "thương mại hóa" báo chí là một trong
những công việc mà các cơ quan lãnh đạo, quản lý báo chí, các cơ quan chủ

quản báo chí cần có biện pháp quyết liệt và hữu hiệu hơn. Trước hết, các cơ
quan chủ quản báo chí cần thực hiện đầy đủ trách nhiệm, quyền hạn, chức
năng, nhiệm vụ của cơ quan chủ quản báo chí.
3.Giải pháp:
Báo chí, bên cạnh việc ca ngợi cái tốt, cái đẹp, còn phải phản ánh cái
xấu, cái ác trong cuộc sống, nhằm làm cho cuộc sống tốt hơn, đẹp hơn. Tuy
vậy, phản ánh cái xấu, cái ác như thế nào mới là việc cần phải bàn. Người viết
phải có tầm văn hóa như thế nào để làm chủ được ngòi bút, không buông
lỏng, xuôi dòng theo diễn biến của sự việc mà phải kiềm chế, ngăn chặn xu
hướng đồng lõa và tha hóa trước cái xấu.vì vậy xin được phép đưa ra một số
giải pháp sau:
-Về nội dung lãnh đạo của Đảng đối với báo chí: Đảng tiếp tục bổ sung,
hoàn thiện quan điểm, đường lối, phương thức lãnh đạo báo chí sát hợp với
đặc thù của báo chí và tình hình thực tế vận động liên tục, phong phú hiện
nay; Tiếp tục tăng cường nội dung lãnh đạo có tính khoa học cao, có tầm bao
quát vừa rộng, vừa sâu, vừa lâu dài; Đảng tăng cường kiểm tra, giám sát việc
thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng đối với hoạt động báo chí; Đảng
chỉ đạo nâng cao vai trò quản lý, chỉ đạo của cơ quan chủ quản báo chí; Tăng
cường vai trò lãnh đạo của cấp ủy trong cơ quan chủ quản và cơ quan báo chí;

19


Cơ quan chỉ đạo, quản lý báo chí phải công khai, minh bạch, chủ động hơn
nữa trong việc cung cấp thông tin và định hướng thông tin...
-Về vấn đề xây dựng, hoàn thiện pháp luật và các chính sách đối với báo
chí: Tăng cường vai trò của pháp luật tức là tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với hoạt động báo chí thông qua hoạt động của bộ máy nhà nước;
Sửa đổi Luật Báo chí cho phù hợp với hoạt động báo chí trong bối cảnh mới;
Củng cố, bổ sung cơ chế để tăng cường giám sát xã hội đối với báo chí; Đảng

và Nhà nước định hướng chính sách xây dựng quy hoạch và phát triển lâu dài
hệ thống báo chí tiên tiến, mạnh về đội ngũ, tài chính, có khả năng đáp ứng
mọi yêu cầu thông tin trong các tình huống phức tạp nhất; Tiếp tục đầu tư xây
dựng một số đơn vị báo chí có vị thế đầu đàn, đủ năng lực cung cấp thông tin
cho các tầng lớp nhân dân, giữ vai trò chi phối dư luận xã hội, giữ nhịp cho cả
hệ thống báo chí, vươn ra thế giới, chủ động thông tin về những diễn biến
kinh tế, chính trị trong nước và trên thế giới; Bổ sung và hoàn thiện chính
sách khuyến khích theo hướng phải bảo đảm được sự tự chủ, chủ động sáng
tạo của báo chí.
-Về vấn đề tổ chức, nhân sự: Tiếp tục kiện toàn bộ máy và tăng cường
nâng cao năng lực chuyên môn, bản lĩnh chính trị của cán bộ quản lý báo chí;
Nâng cao vai trò, chất lượng hoạt động của Hội Nhà báo Việt Nam; Nâng cao
chất lượng người làm báo theo tiêu chí vừa hồng vừa chuyên, xây dựng chuẩn
hóa đội ngũ phóng viên, biên tập viên; Coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng nâng
cao ý thức, bản lĩnh chính trị và phát triển Đảng tại cơ quan báo chí cũng như
cơ sở đào tạo báo chí; Chọn lọc kỹ và nâng cao vai trò của người lãnh đạo cơ
quan báo chí...
-Về đổi mới hoạt động của các cơ quan báo chí: Báo chí phải tuân thủ sự
lãnh đạo tuyệt đối của Đảng (đó là nghĩa vụ, trách nhiệm và đồng thời là lợi
ích, là phẩm chất chính trị của cơ quan báo chí và người làm báo của Đảng - ý
thức này phải được thực hiện với nguyên tắc tối thượng, nhất quán); Cơ quan
báo chí cần phải nâng cao tính định hướng tư tưởng xã hội, phải trở thành cơ
quan đi đầu về thông tin chính trị, định hướng dư luận xã hội tin tưởng vào sự
nghiệp đổi mới của Đảng và tiến trình phát triển đất nước; Cơ quan báo chí
phải năng động trong hoạt động kinh tế báo chí nhưng đúng quy định của
pháp luật...
20


Nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với báo chí trong bối

cảnh toàn cầu hóa hiện nay là một đòi hỏi khách quan của sự nghiệp cách
mạng. Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí trước hết là bằng quan điểm,
đường lối, thể hiện qua các nghị quyết, chỉ thị và qua sự quản lý của Nhà
nước. Đảng lãnh đạo báo chí là nhằm nắm vững và sử dụng công cụ tư tưởng
của mình, đồng thời bảo đảm quyền sáng tạo của báo chí, giúp báo chí hoàn
thành chức năng cao cả của mình. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, báo chí mới có
quyền lực chính trị và quyền lực xã hội mạnh mẽ. Quyền lực đó của báo chí
nằm trong sự quy định của pháp luật. Quyền lực đó bảo đảm để báo chí luôn
giữ vững bản lĩnh chính trị, đấu tranh kiên quyết với các hành vi, thủ đoạn
chống đối chế độ; Bảo đảm phát triển mạnh mẽ, đóng góp nhiều hơn nữa cho
sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
công bằng, dân chủ, văn minh.
-Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, làm báo có nhiều thuận lợi, nhưng
cũng có vô vàn thách thức, để thực hiện văn hóa truyền thông trong hoạt động
báo chí thì cơ quan báo chí và cơ quan chủ quản phải quản lý chặt chẽ hơn
nữa. Cần làm thật tốt việc đào tạo, giáo dục, bồi dưỡng nhà báo và lãnh đạo
của các cơ quan báo chí. Đương nhiên, giải quyết tình trạng thiếu văn hóa
trong truyền thông báo chí không chỉ là trách nhiệm của riêng cơ quan quản lý
Nhà nước mà xã hội, bạn đọc và báo chí cần bày tỏ thái độ phản ứng rõ ràng
đối với trào lưu xấu trong thông tin.
-Đi cùng với giáo dục cần xử lý nghiêm, thậm chí nghiêm trị, phạt thật
nặng đối với những tác giả và lãnh đạo cơ quan báo chí cho loan truyền
những tác phẩm vô văn hóa.
-Nâng cao trình độ nghiệp vụ của các nhà báo đáp ứng yêu cầu của đời
sống. Điều đó đòi hỏi sự rèn luyện không ngừng của các nhà báo nhưng cũng
cần nghiêm khắc nhìn lại sự giáo dục đối với các đối tượng này, từ khâu tuyển
chọn, đào tạo trong nhà trường cũng như sự giáo dục ở cơ quan báo chí và của
cả xã hội.
- truyền thông đại chúng phải đóng vai trò then chốt trong việc phát triển
ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam, cần nâng cao tính đề kháng cho nền

văn hóa dân tộc trước những ảnh hưởng tiêu cực của toàn cầu hóa văn hóa,

21


đồng thời hạn chế tác động tiêu cực của xu hướng thương mại hóa văn hóa và
thương mại hóa báo chí.”
-Cần trang bị cho người làm báo một cảm quan mỹ học, một cảm hứng
mỹ học thường trực chi phối toàn bộ đời sống của chúng ta. Nó phải được
chuyển hóa vào trong các sản phẩm tinh anh và đẹp đẽ của mỗi người lao
động, nhất là lao động chữ nghĩa của nhà báo.
-Nâng cao tính chuyên nghiệp trong khâu chỉ đạo và điều hành các cơ
quan báo chí, nâng cao công tác quản lý và chỉ đạo báo chí. Cần hoàn thiện hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực báo chí; xây
dựng và quản lý quy hoạch, kế hoạch phát triển hệ thống báo chí; thiết lập cơ
chế chỉ đạo, quản lý, cung cấp thông tin chủ động, kịp thời, chuyên nghiệp;
cần có sự chỉ đạo, quản lý thống nhất, chuyên nghiệp giữa cơ quan quản lý
báo chí với cơ quan chủ quản. Những người làm công tác lãnh đạo, quản lý
báo chí cũng cần phải được đào tạo, bồi dưỡng về hoạt động báo chí một cách
bài bản, chuyên nghiệp.
-Thường xuyên quan tâm, theo dõi sâu sát hoạt động của cơ quan báo
chí, tránh tình trạng buông lỏng, khoán trắng cho cơ quan báo chí hoặc để xảy
ra tình trạng thẳng tay "bán cái", chuyển nhượng, cho thuê mượn mặt báo để
tổ chức đăng tải tin, bài một cách tư do, tự nhiên chủ nghĩa. Bên cạnh đó, cơ
quan lãnh đạo, chỉ đạo và cơ quan quản lý Nhà nước về báo chí phải có biện
pháp xử lý nghiêm minh đối với các cơ quan chủ quản báo chí, cơ quan báo
chí khi để xảy ra tình trạng "thương mại hóa".
-Việc ngăn chặn, đẩy lùi "thương mại hóa" báo chí là một trong những
việc cần làm ngay, làm quyết liệt để tạo cho môi trường hoạt động của báo chí
ngày càng trở nên minh bạch hơn, trong sạch, thực sự hữu ích hơn đối với yêu

cầu ổn định, hội nhập và phát triển đất nước.
Tóm lại:Trong bất kì thời điểm nào,dù thời kì bao cấp hay thời kì hội
nhập quốc tế ngày nay thì báo chí cũng tác động đến đời sống xã hội ở 2
mặt:Thuận và nghịch. Nếu báo chí phản ánh đúng thực tế chiều hướng phát
triển của xã hội trên tinh thần xây dựng và có thiện chí thì đó chính là động
lực quan trọng thúc đẩy xã hội phát triển ổn định, lành mạnh và tiến bộ.
Ngược lại, báo chí phản ánh không sát hoặc đi quá sâu vào các mặt trái xã hội
sẽ tạo ra sự “phân tâm” trong các tầng lớp dân cư, đồng thời làm cho diện
22


mạo quốc gia, dân tộc bị giảm sút đáng kể trong quá trình giao lưu, hội nhập
với thế giới. Nghĩa là, những cái đáng lẽ chỉ nên nói ở mức độ vừa phải với
liều lượng hợp lý thì nó đã bị “mổ xẻ” quá sâu, khai thác quá kỹ. Còn những
cái đáng ra phải được ghi nhận, phản ánh một cách cụ thể, sinh động thì lại lướt qua. Một cô diễn viên, một anh ca sĩ, một cầu thủ bóng đá, một người
mẫu nhiều khi được tô đậm “tiểu sử, cuộc đời và sự nghiệp” hơn cả một danh
nhân, một nhà khoa học, một thầy thuốc có trí tuệ và tấm lòng cao cả. Thế
nên, có lúc báo chí đã tạo ra một sự “kích thích” cho một bộ phận giới trẻ chỉ
thích trở thành ca sĩ, diễn viên, người mẫu hơn là chịu khó học tập, phấn đấu
thành kỹ sư, công nhân, thầy giáo và nhà khoa học! Ngoài ra, phải kể đến tình
trạng quảng cáo tràn lan, hình thức quảng cáo thiếu văn hóa, thẩm mỹ, không
phù hợp với thuần phong, mỹ tục của dân tộc, nội dung quảng cáo phần nhiều
là “kem dưỡng da, dầu gội đầu, nước uống tăng lực, kẹo cao su”… nên đã tạo
ra tâm lý xã hội tiêu dùng “ăn chơi sành điệu”. Tóm lại, những vấn đề thái
quá vừa nêu, nếu tiếp tục được báo chí “quan tâm khai thác, phản ánh” thì xã
hội ta, đất nước ta sẽ dần dần thiếu đi một nhuệ khí.
Thông tin là một nhu cầu thiết yếu trong đời sống tinh thần - văn hóa của
con người và có ảnh hưởng sâu sắc đến việc giữ gìn ổn định chính trị, tạo sự
thống nhất và đồng thuận trong tư tưởng của xã hội và phản ánh, quảng bá
diện mạo, hình ảnh quốc gia. Vì vậy, quan điểm “phát triển đi đôi với quản

lý” thông tin, truyền thông phải được cụ thể hóa bằng những cơ chế, quy định,
chế tài trong thực tiễn cuộc sống. Trong một thời đại thông tin bùng nổ mạnh
mẽ như hiện nay, ngoài việc phát triển các phương tiện truyền thông hiện đại
nhằm đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu của nhân dân, cần phải siết chặt và lập lại
trật tự kỷ cương trong lĩnh vực thông tin và truyền thông đại chúng. Tôn trọng
việc đa dạng hóa thông tin, thông tin nhiều chiều của các cơ quan truyền
thông là cần thiết, nhưng cơ quan chức năng nhất thiết phải tăng cường kiểm
tra, giám sát, thẩm định các nội dung thông tin; khuyến khích các thông tin có
lợi cho quốc kế dân sinh và góp phần giáo dục, xây dựng và phát triển các giá
trị chân - thiện - mỹ cho con người gắn liền với việc thường xuyên uốn nắn,
chấn chỉnh những thông tin mang nặng tính thương mại, giật gân, câu
khách, đáp ứng thị hiếu tầm thường, không có lợi cho việc giữ vững an ninh
tư tưởng-văn hóa và ổn định chính trị của xã hội; đồng thời kiên quyết xử lý,
23


thu hồi các ẩn phẩm, các phương tiện truyền bá thông tin đi ngược lại thuần
phong mỹ tục của dân tộc, xúc phạm đến uy tín, danh dự của tổ chức và công
dân, làm ảnh hưởng sự đồng thuận của xã hội.
Dân chủ hóa đời sống báo chí, tự do hóa ngôn luận không đồng nghĩa
với việc tự ý, tùy tiện đưa mọi thứ thông tin lên các phương tiện truyền thông
với bất cứ mục đích gì. Chúng ta cần rút ra nhiều bài học trong công tác quản
lý báo chí thời gian qua để đưa hoạt động này đi đúng hướng, bảo đảm cho
các phương tiện truyền thông đại chúng của Đảng, Nhà nước, các ngành, các
đoàn thể ở Trung ương và địa phương thực sự trở thành một nhân tố và đòn
bẩy thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

24



C. KẾT LUẬN
Qua đợt kiến tập tại phòng quản trị Trang tin điện tử của Trung tâm Thể
dục Thể thao,bản thân tôi đã học hỏi và tiếp thu được nhiều kiến thức bổ
ích,rút được nhiều kinh nghiệm quý báu,có cơ hội hoàn thiện bản thân ,hiểu
biết hơn về cách làm việc,cách quản lý của các cơ quan.Chọn lọc,tiếp thu
những kiến thức cần thiết để phục vụ cho quá trình học tập đồng thời tạo điều
kiện tốt nhất cho đợt thực tập cuối khóa sắp tới cũng như công tác sau này.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm chân thành tới tất cả các cô,chú, anh
chị trong Phòng Quản trị Trang tin điện tử đã nhiệt tình hướng dẫn cho chúng
tôi trong thời gian kiến tập vừa qua.

25


×