Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

CÁC đặc điểm của NGÔN NGỮ báo IN HIỆN đại tiểu luận cao học báo chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.94 KB, 17 trang )

MỞ ĐẦU
Ngôn ngữ báo chí là hệ thống tín hiệu dùng để truyền tải thông tin trong
tác phẩm báo chí. Như vậy, ngôn ngữ báo chí bao gồm cả chữ viết, hình ảnh, âm
thanh, bảng biểu và một số yếu tố phi ngôn ngữ. Hiện nay, ngôn ngữ báo chí nói
chung, ngôn ngữ báo in nói riêng đang có xu thế được xem là một phong cách
chức năng trong ngôn ngữ. Trên cơ sở nhận thức rằng “phong cách là nhưng
khuôn mẫu trong hoạt động lời nói, được hình thành từ những thói quen sử dụng
ngôn ngữ có tính chất truyền thống và chuẩn mực trong việc xây dựng các lớp
văn bản tiêu biểu”, người ta đã tìm ra những luận cứ, với các mức độ thuyết phục
khác nhau, để khẳng định là ngôn ngữ báo chí có những nét đặc thù, cho phép nó
có vị thế ngang hàng với các phong cách chức năng khác trong ngôn ngữ như
phong cách khoa học, phong cách hành chính-công vụ, phong cách sinh hoạt
hàng ngày, phong cách chính luận…
Vậy đâu là các nét đặc thù của ngôn ngữ báo chí? Các nhà nghiên cứu đã
có ý kiến không thống nhất khi trả lời câu hỏi này.
Đinh Trọng Lạc, sau khi nêu rõ các đặc trưng của phong cách báo chí (như
tính chiến đấu, tính thời sự, tính hấp dẫn), đã chỉ ra các đặc điểm của ngôn ngữ
báo chí thuộc các phương diện như từ vựng, cú pháp, kết cấu. Theo chúng tôi,
đây phần lớn ms chỉ là các đặc điểm của một vài thể loại báo chí cụ thể, vì thế
chúng chưa đủ tầm khái quát để có thể khắc họa diện mạo của cả một phong
cách ngôn ngữ trong sự đối sánh với các phong cách ngôn ngữ khác.
Còn tác giả Hữu Đạt cho rằng các đặc điểm về ngôn ngữ của phong cách
báo chí bao gồm: 1. chức năng thông báo, 2. chức năng hướng dẫn dư luận, 3.
chức năng tập hợp và tổ chức quần chúng, 4.tính chiến đấu mạnh mẽ, 5.tính
thẩm mĩ và giáo giục, 6. tính hấp dẫn và thuyết phục, 7.tính ngắn gọn và biểu
cảm, 8. đặc điểm về cách dùng từ ( gồm cách dùng từ ngữ và cách dùng các

1


khuôn biểu cảm). Dễ dàng nhận thấy là Hữu Đạt không có sự phân định rõ ràng


giữa các đặc điểm về chức năng của thông tin báo chí và các đặc điểm về ngôn
ngữ như là phương tiện chuyển tải thông tin ấy. Chính vì thế, 8 đặc điểm mà ông
đưa ra không đồng loại, chỉ có đặc điểm thứ sáu và thứ bảy là có vẻ xác đáng
hơn cả.
Tuy nhiên, các quan niệm nêu trên của Đinh Trọng Lạc cũng như Hữu Đạt
cho thấy, khi khảo sát các đặc điểm của ngôn ngữ báo chí, họ đều xuất phát từ
góc độ chức năng của nó. Đây là hướng đi hợp lý, vì chính chức năng chứ không
phải bất cứ yếu tố nào khác, quy định các phương thức biểu đạt có tính đặc thù
của từng loại hình sáng tạo.

2


NỘI DUNG
PHẦN I: các đặc điểm của ngôn ngữ báo chí hiện đại
Như chúng ta đều biết, chức năng cơ bản, có vai trò quan trọng hàng đầu
của báo chí là thông tin. Báo chí phản ánh hiện tượng thông qua việc đề cập các
sự kiện. Không có sự kiện thì không thể có tin tức báo chí. Do vậy, theo chúng
tôi, nét đặc trưng bao trùm của ngôn ngữ báo chí là có tính sự kiện. Chính tính sự
kiện đã tạo nên cho ngôn ngữ báo chí một loạt các tính chất cụ thể như:
1. Tính đại chúng.
Ưu điểm:
+ Ngôn ngữ trên báo in hiện nay là thứ ngôn ngữ dành cho số đông
vì thế có đặc điểm chung là dễ hiểu. Kể cả đối với những vấn đề lý luận, phức
tạp, phần lớn người viết cố gắng tìm các cách trình bày, sử dụng ngôn ngữ cho
đại bộ phận công chúng mà báo hướng tới có thể hiểu được.
Nhược điểm:
+ Có một số trường hợp báo chí còn sử dụng các từ chuyên ngành
phức tạp. VD như: Tin trên một số tờ báo có tiêu đề: " Khởi công xây dựng Nhà
máy Polypropylene tại Dung Quất". Từ "Polypropylene" mang tính chuyên

ngành, hơn nữa, trong thông tin cũng không nói rõ đó là chất gì, nhà máy đó có
vai trò nhiệm vụ như thế nào, nên người đọc rất khó hiểu.
Hay có nhiều tờ báo hàng ngày đưa các thuật ngữ như: “Tìm kiếm,
phát hiện và khai thác có hiệu quả các thân dầu trong đá móng Granitoit trước đệ
tam Bể Cửu Long thềm lục địa Việt Nam”, mà không kèm theo một lời giải thích
nào, gây khó hiểu cho bạn đọc.
+ Nhiều trường hợp đưa các đồ thị, các bảng thống kê quá phức tạp
cũng làm cho bạn đọc khó hiểu.

3


+ Nhiều trường hợp còn dùng từ địa phương, tiếng lóng mà không
có giải thích đi kèm. Trong một truyện ngắn trên báo có viết: Thành hét lớn: "Ôi
chao, bể lè tau rồi". Trung vặc lại: "Cho chết, ai bảo mi ham... " Ở đây xuất hiện
một số từ địa phương như "lè", "tau", "mi" khiến không phải bạn đọc nào cũng
hiểu được.
2. Tính đa dạng.
Mặc dù không đa dạng bằng báo điện tử nhưng báo in cũng đang nỗ
lực đa dạng hóa cách truyền tải thông điệp. Ngoài ngôn ngữ bằng chữ viết còn có
hình ảnh (ảnh, tranh vẽ), biểu đồ, bảng thống kê.
3. Tính chính xác.
Hiện nay ngôn ngữ trên báo in được yêu cầu phải có tính chính xác cao.
Vì báo chí có sự ảnh hưởng rộng lớn tới xã hội, có chức năng định hướng dư
luận xã hội. Chỉ cần một sơ suất dù nhỏ nhất về ngôn từ cũng có thể làm cho độc
giả khó hiểu hoặc hiểu sai thông tin, có thể gây ra những gây hậu quả xã hội
nghiêm trọng không lường trước được.
Một số kiểu sai sót trong sử dụng ngôn ngữ trên báo in
+ Dùng từ sai. VD: "Chúng tôi đã chia tay với tình hữu nghị dạt dào của
hai nước Việt - Trung ". Rõ ràng, từ " với " ở đây là không thể chấp nhận được

(vì cụm từ " chia tay với..." biểu đạt ý nghĩa " từ bỏ, từ giã "), cần phải thay nó
bằng từ "trong".
Báo Nhân dân vừa phải đính chính vì dùng sai chữ "Thủ trưởng" thành
"Thủ tướng" trong một bài viết, dẫn tới những cách hiểu khác nhau.
+ Đưa số liệu sai. VD: Viết về nhập khẩu ô tô, có một tờ báo cho biết:
"Trong quý I năm 2005, kim ngạch nhập khẩu ô tô của nước ta lên tới hàng tỷ

4


USD." Thật ra, con số chỉ là hàng trăm triệu USD. Chỉ một con số sai sót đã ảnh
hưởng đến uy tín của Chính phủ.
+ Đưa hình ảnh sai:
Hình ảnh cũng được coi là một loại ngôn ngữ. Trong báo chí hiện đại thì
ngôn ngữ hình ảnh ngày càng có vai trò quan trọng, thậm chí có giá trị cao hơn
ngôn ngữ chữ viết.
VD

: Do sự cẩu thả của phóng viên, có một tờ báo đã lấy nhầm hình ảnh

nhà sàn của Bác Hồ để minh họa cho bài báo "Nhà sàn xuống phố" nói về thói
phô trương, tốn kém khi xây nhà sàn ở thành phố.
4. Tính cụ thể.
- Ưu điểm:
+ Tính cụ thể của ngôn ngữ báo in còn nằm ở việc tạo ra sự xác
định cho đối tượng được phản ánh. Mỗi sự kiện được đề cập trong tác phẩm báo
in thường được gắn liền với một không gian, thời gian xác định; với những con
người cũng xác định (có tên tuổi, nghề nghiệp, chức vụ, giới tính... cụ thể).
Ngoài ngôn ngữ bằng chữ viết, còn có ảnh của đối tượng, vấn đề được nhắc đến.
Đây là cội nguồn của sự thuyết phục, vì nhờ những yếu tố đó người đọc có thể

kiểm chứng thông tin một cách dễ dàng.
- Khuyết điểm:
+ Vẫn còn những ngôn ngữ phiếm chỉ, mơ hồ xuất hiện trên báo. Ví
dụ như: Một người dân xin giấu tên cho biết...., Có ý kiến cho rằng....
+ Ảnh kèm theo bài còn mang tính minh họa chung chung. Ví dụ
như: Đưa ảnh công nhân đang ngồi bên máy may rồi chú thích rằng: Ngành dệt
may là mũi nhọn xuất khẩu của Việt Nam hiện nay.
5. Tính ngắn gọn.
5


- Ưu điểm:
Ngôn ngữ trên báo in ngày càng ngắn ngọn, đậm chất thông tấn để
tạo điều kiện thuận lợi cho bạn đọc nắm bắt thông tin. Một câu thường có độ dài
dưới 40 chữ, chỉ gồm những thành phần chính yếu nhất trong câu như: chủ ngữ,
vị ngữ. Các câu phức, câu quá dài, có quá nhiều thành phần được hạn chế sử
dụng.
- Khuyết điểm:
Vẫn còn nhiều trường hợp báo sử dụng câu quá dài, nhất là khi đăng
toàn văn hoặc trích dẫn các văn kiện đại hội, nghị quyết, văn bản pháp luật...
6. Tính định lượng.
Thường các báo đều quy định số lượng chữ trong nhan đề, trong
mỗi tin, bài, mỗi dạng chuyên mục. VD: Nhan đề bài viết thường được quy định
tối đa không quá 12 chữ.
Báo Quân đội nhân dân được quy định: Tin vắn có dung lượng
không quá 30 chữ, tin trong khối tin các trang trong không quá 120 chữ và tin
trang nhất không quá 150 chữ. Bài chính trang trong không quá 1000 chữ, trang
nhất không quá 1500 chữ...
7. Tính bình giá.
- Ngôn ngữ trên nhiều tờ báo mang đậm sắc thái bình luận, đánh giá

nhất là đối với các bài chính luận. Ví dụ: Món quà đẹp của Bill Gates (Báo Quân
đội nhân dân 23-4-2006), Sự thật ghê rợn (Báo Quân đội nhân dân, 08-03-2002),
Điều bổ ích cho tương lai (QĐND, 12-7-1995)
- Một số tin cũng mang ngôn ngữ bình giá. Ví dụ như: Cần thiết ban
hành Nghị định Kinh doanh trò chơi điện tử có thưởng (QĐND, 9-10-2012).

6


8. Tính biểu cảm.
Đọc giả thường xuyên bắt gặp ngôn ngữ biểu cảm, giàu màu sắc và
hình ảnh, âm thanh, đầy sự so sánh, ẩn dụ trên báo in. VD như:
+ Ngôn ngữ giàu hình ảnh, so sánh: Chuyển dịch lớn trong "vòng
cung lửa" (Nhân Dân cuối tuần, 15-06-2012), Đừng dựng dậy "thây ma" lịch sử
(Quân đội nhân dân, 2-2-2003)
+ Ngôn ngữ giàu âm thanh: Tiếng kèn rè lạc điệu (Báo Quân đội
nhân dân 25-05-2000)
+ Ngôn ngữ đầy tính chơi chữ: Yên Thế - Thế sao yên! (Quân đội
nhân dân 2002)
9. Tính khuôn mẫu.
- Tin trên báo in luôn thường phải trả lời được 6 câu hỏi: "Bao giờ?
Ở đâu? Ai? Cái gì? Tại sao? Như thế nào?" Tất nhiên, tùy theo dung lượng mà
thông tin mà có thể trả lời hết cả 6 câu hỏi, hoặc chỉ trả lời 4 câu hỏi là: Bao giờ?
Ở đâu? Ai? Cái gì?
- Các tin, bài thường có một số công thức chung trong cách viết,
cách trình bày.
VD: + Đối với bài: Tít chính, sa- pô, tít phụ, nội dung, ảnh, hộp
thông tin (box), biểu đồ...
+ Đối với tin: Tít, chữ viết tắt tên của cơ quan báo (QĐND,
HNM, LĐ, TT...), nội dung thông tin.

- Nhiều phóng viên rập khuôn nhau trong cách mở đầu tin. Ví dụ:
Tít tin là: "Khẩn trương triển khai Đề án dạy, học ngoại ngữ ở địa phương", sau
đó sẽ mở đầu tin bằng câu: "Đó là chỉ thị của Phó thủ tướng Nguyễn Thiện
Nhân..."

7


10. Tính đặc thù.
Do hướng tới những đối tượng độc giả nhất định nên ngoài tính đại
chúng, một số tờ báo in còn có tính đặc thù trong sử dụng ngôn ngữ.
- Cách viết dài để phục vụ đối tượng có nhiều thời gian như: các bà
nội trợ, người bán hàng, các bác xe ôm... VD: Các tờ báo Đang yêu, Đời sống &
Pháp luật hay xuất hiện các nhan đề bài báo rất dài: Hi hữu xóm đàn ông nhất
quyết không chịu lấy vợ dù chính quyền ra sức khuyên nhủ (Đời sống & Pháp
luật, số 43 tháng 10-2012), Tình duyên lận đận của một mỹ nhân bỗng dưng trở
thành hoa hậu ở miền Nam ngày trước (Đời sống & Pháp luật, số 43, tháng 102012); Lời khai lạnh lùng của gã vũ sư "ra tay" với "người tình" khi đã "no xôi,
chán chè" (Đời sống & Pháp luật, số 43, tháng 10-2012).
Các bài viết này thường dùng thứ ngôn ngữ "kể lể" dài dòng về
chuyện đời tư, với nhiều chi tiết hết sức vụn vặt để thỏa mãn tính hiếu kỳ của
đọc giả.
- Các báo đã cố gắng sử dụng ngôn ngữ thích hợp cho các đối tượng
thích hợp, viết cho thiếu nhi thì vui tươi, nhí nhảnh, viết cho người lớn tuổi thì
nghiêm túc.
- Đã xuất hiện các sử dụng ngôn ngữ "lạ", để nhằm phục vụ nhóm
đối tượng muốn hướng tới. Ví dụ: Để phục vụ đối tượng đọc giả tuổi teen
(khoảng từ 10 đến 19 tuổi) các báo Hoa học trò, Sinh viên đã phá cách vô lối
trong sử dụng ngôn ngữ như: 2! bạn, 6 chó lại, no 4 go (ý nói: vô tư đi), no star
where (ý muốn nói: không sao đâu), If you like I afternoon ( Ý muốn nói: Nếu
em thích thì anh chiều).

11. Tính thẩm mỹ.
- Ngôn ngữ trên báo in có tính thẩm mỹ, vì:

8


+ Ngôn ngữ trên báo in rất phong phú, giàu tính biểu cảm, giàu
màu sắc và hình ảnh.
+ Nhìn chung, ngôn ngữ hình ảnh trên báo in luôn cố gắng hướng
tới cái đẹp. VD: Các ảnh trên báo in đều thể hiện tính sống động của cuộc sống.
Tất nhiên, còn nhiều hình ảnh trên báo in còn chưa đẹp, còn khiên
cưỡng.
12. Tính biểu đạt phi ngôn ngữ.
Thời điểm xuất bản tin, bài; vị trí tin bài..., đó đều là những sự biểu
đạt, cách đưa thông điệp phi ngôn ngữ của báo in. Điều này được thể hiện rõ đối
với các báo chính trị, khi tất cả các tin, bài, ảnh nội chính đều đã được sắp xếp
các vị trí nhất định. Chẳng hạn, cách sắp xếp tin, bài quan trọng của báo Nhân
dân, Quân đội nhân dân theo thứ tự từ trên xuống dưới, từ trái sang phải, bài
"đinh" bao giờ cũng ở giữa trang. Chỉ cần một số báo nào đó, các vị trí ấy bị đảo
lộn thì bạn đọc sẽ có cảm giác "hình như có chuyện gì đó bất thường, chuyện gì
đó không ổn"... Ví dụ như: Trên báo Nhân dân, không bao giờ có chuyện tin về
Tổng bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội bị xếp
xuống đáy trang.

13. Tính quốc tế.
- Ngôn ngữ trên báo in tại Việt Nam hiện nay đang bị ảnh hưởng
bởi chuẩn mực ngôn ngữ có tính quốc tế về lối hành văn, các trình bày.
- Đã xuất hiện một số tờ báo hàng ngày, tạp chí bằng tiếng Anh,
song ngữ Anh - Việt. VD: Vietnam News, Heritage...


PHẦN II: XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CHUNG CỦA NGÔN NGỮ
9


Những nhân tố khách quan và chủ quan làm cho ngôn ngữ biến
đổi và phát triển
. Những nhân tố khách quan

Sự biến đổi và phát triển của các ngôn ngữ luôn luôn diễn ra trên cả
hai mặt cấu trúc và chức năng. Quá trình phát triển từ ngôn ngữ bộ lạc
đến ngôn ngữ cộng đồng tương lai là quá trình phát triển của các ngôn ngữ
về mặt chức năng. Sự phát triển về mặt cấu trúc của ngôn ngữ thể hiện ở
sự biến đổi của hệ thống ngữ âm, thành phần hình thái học, từ vựng-ngữ
nghĩa và cơ cấu ngữ pháp của nó.
Nếu như sự phát triển của ngôn ngữ bao gồm nhiều mặt, nhiều khía
cạnh thì nguyên nhân làm cho nó biến đổi và phát triển cũng rất đa dạng
và phong phú. Người ta đã từng giải thích sự phát triển của ngôn ngữ là do
sự tiến bộ của bộ máy phát âm, do ảnh hưởng của điều kiện địa lí và khí
hậu, do ảnh hưởng của tâm lí dân tộc, do đòi hỏi phải tiết kiệm hơi sức hao
phí cho bộ máy phát âm, do chơi chữ, do đặc điểm của trẻ em học nói
v.v... Chúng ta không phủ nhận tác dụng của các yếu tố kể trên đối với sự
phát triển của ngôn ngữ, nhưng đó chưa phải là nguyên nhân chủ yếu,
quyết định phương hướng và cách thức phát triển của ngôn ngữ. Với tư
cách là hiện tượng xã hội đặc biệt, sự phát triển của ngôn ngữ phải do
những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá và các điều kiện xã hội khác
quy định. Người ta chỉ có thể hiểu được một ngôn ngữ và quy luật phát
triển của nó khi nào người ta nghiên cứu nó theo sát lịch sử của xã hội,
lịch sử của nhân dân có ngôn ngữ đó, sáng lập và bảo tồn, sử dụng ngôn
ngữ đó. Sản xuất phát triển, các giai cấp xuất hiện, chữ viết ra đời, các
quốc gia hình thành cần giao dịch thư từ có quy thức ít nhiều cho việc

hành chính; nền thương nghiệp trưởng thành càng cần giao dịch thư từ có
quy tắc hơn nữa, báo chí ấn loát xuất hiện, văn học tiến lên, tất cả những
điều đó đã đưa lại những biến đổi lớn lao trong sự phát triển của ngôn
ngữ. Ảnh hưởng đến sự phát triển của ngôn ngữ còn phải kể đến những
nhân tố khách quan như: hình thức cộng đồng tộc người, dân số, trình độ

10


học vấn; hình thức thể chế nhà nước; môi trường tộc người; tốc độ phát
triển kinh tế-xã hội; mối liên hệ kinh tế, chính trị, văn hoá; thế tương quan
giữa trình độ phát triển của một dân tộc với các dân tộc láng giềng; truyền
thống văn hoá, mức độ phân chia thành các tiếng địa phương.
Tuy nhiên, điều kiện kinh tế, văn hoá, chính trị,... của xã hội mới chỉ
là nguyên nhân bên ngoài, đề ra những yêu cầu nhất định đối với ngôn
ngữ, còn bản thân ngôn ngữ có nhiều biến đổi và phát triển được hay
không lại do nguyên nhân bên trong nó quyết định. Nguyên nhân bên
trong chính là sự đối lập, mâu thuẫn giữa các yếu tố trong ngôn ngữ.
Những yêu cầu của xã hội đặt ra sẽ được đáp ứng thông qua việc giải
quyết những mâu thuẫn trong nội bộ ngôn ngữ. Nguyên nhân bên trong
thể hiện tình hình và khả năng nội bộ của ngôn ngữ. Chính vì vậy, những
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội,... có thể trực tiếp giải thích quy luật
phát triển của kết cấu ngôn ngữ nói chung, tức là sự phát triển của ngôn
ngữ từ ngôn ngữ bộ lạc, đến ngôn ngữ dân tộc và ngôn ngữ cộng đồng
tương lai, nhưng lại chưa đủ để giải thích những quy luật phát triển nội bộ
của ngôn ngữ, tức là quy luật phát triển các mặt, các yếu tố của nó. Engels
viết: “Nếu không muốn làm thành trò cười, thì cũng khó mà dùng nguyên
nhân kinh tế để cắt nghĩa sự tồn tại của mỗi tiểu bang trong nước Đức
trước kia và hiện nay, hay cắt nghĩa nguồn gốc của hiện tượng di chuyển
phụ âm trong tiếng Thượng-Đức là hiện tượng đã mở rộng đường phân giới

địa lí do dãy núi từ Xu-đet đến Tanuxơ tạo nên, thành cả một đường nứt
thực sự xuyên qua toàn nước Đức”(1). Như vậy, những quy luật phát triển
nội bộ của ngôn ngữ chỉ có thể giải thích gián tiếp qua điều kiện kinh tế,
chính trị, văn hoá của xã hội. Bản thân những hiện tượng mới trong ngôn
ngữ đều phát triển từ những hiện tượng đã có, trên cơ sở những hiện
tượng đã có.
Những nhân tố chủ quan
Ngôn ngữ phát triển theo những quy luật khách quan của mình. Sự
phát triển ấy chính là kết quả tác động của những nguyên nhân khách
11


quan (nguyên nhân bên trong cũng như nguyên nhân bên ngoài). Tuy
nhiên, nhân tố chủ quan của con người cũng góp phần không nhỏ trong sự
phát triển của ngôn ngữ. Chính sách ngôn ngữ là thể hiện ý chí chủ quan
của con người đối với sự phát triển ấy. Bản thân chính sách ngôn ngữ chỉ
phát huy được tác dụng trong chừng mực phù hợp với quy luật phát triển
khách quan. Muốn đề ra chính sách ngôn ngữ đúng đắn cần phải nắm
vững quy luật phát triển của xã hội nói chung và của ngôn ngữ nói riêng.
Có thể nói chính sách ngôn ngữ là lí luận và thực tiễn tác động một
cách có ý thức vào quá trình phát triển ngôn ngữ. Nó là một bộ phận của
chính sách dân tộc của một quốc gia, một giai cấp, một đảng nào đó.
Chính sách ngôn ngữ tác động trước hết đến mặt chức năng của
ngôn ngữ, và qua đó, trong chừng mực nhất định, tác động đến mặt cấu
trúc của ngôn ngữ.
Nội dung chính sách ngôn ngữ của Đảng và Nhà nước ta thể hiện ở
những chủ trương sau:
Tôn trọng tiếng mẹ đẻ của các dân tộc, bảo đảm sự phát triển
tự do và bình đẳng của tất cả các ngôn ngữ dân tộc ở Việt Nam.
Trong chế độ phong kiến và tư bản, xuất phát từ ý thức miệt thị dân

tộc, bọn thống trị ra sức ngăn cản sự phát triển ngôn ngữ của các dân tộc
ít người.
Do chỗ phân tích đúng đắn quy luật phát triển của xã hội cho nên
chủ nghĩa Mác chủ trương “bình đẳng dân tộc, dưới đủ mọi hình thức
(ngôn ngữ, trường học...)”, đó là yếu tố không thể thiếu được trong việc
giải quyết vấn đề dân tộc. Chủ nghĩa Mác chủ trương hoàn toàn xoá bỏ
mọi đặc quyền dành cho một dân tộc nào đó, cho một ngôn ngữ nào đó.
Thái độ của công nhân thuộc những dân tộc đã đóng vai trò đi áp bức dưới
thời chủ nghĩa tư bản..., là phải giúp đỡ quần chúng cần lao của những
dân tộc trước kia bị áp bức không những thiết lập một nền bình đẳng thực
tế, mà còn phát triển ngôn ngữ và văn học nữa, để xoá bỏ tất cả những
dấu vết của tinh thần nghi kị và phân lập do chủ nghĩa tư bản để lại; phải
12


làm cho nhân dân có các trường học, trong đó, việc giáo dục được tiến
hành bằng tất cả các thứ tiếng địa phương, và phải đề ra trong hiến pháp
một điều luật cơ bản nhằm xoá bỏ mọi thứ đặc quyền, bất cứ là thứ đặc
quyền nào, đã ban cho một dân tộc nào, và nhằm huỷ bỏ tất cả mọi sự vi
phạm đến các quyền của một dân tộc thiểu số.
Tiếng nói chung giữa các dân tộc hình thành một cách khách quan
do điều kiện kinh tế, chính trị,... quy định. Lênin viết: “Những nhu cầu về
kinh tế sẽ tự quyết định ra một ngôn ngữ chung cho toàn quốc, ngôn ngữ
mà đa số người vì lợi ích liên hệ mậu dịch sẽ thấy là có lợi, nếu biết được
ngôn ngữ đó”(1).
Trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã có
những chính sách rất đúng đắn về dân tộc và ngôn ngữ dân tộc. Cương
lĩnh đầu tiên của Đảng khi mới thành lập (1930) đã đề ra chính sách “đoàn
kết dân tộc trên cơ sở những nguyên tắc bình đẳng và tương trợ lẫn nhau
để giành lấy độc lập và hạnh phúc chung cho các dân tộc”. Chính cương

của Đảng năm 1951 ghi rõ: “Các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều
được bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ... Cải thiện đời sống cho các dân
tộc ít người, giúp đỡ họ tiến bộ về mọi mặt, bảo đảm để họ tham gia chính
quyền và dùng tiếng mẹ đẻ trong việc giáo dục ở các địa phương”. Thực
tế, Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ cụ thể là “hoàn thành việc xây dựng chữ
viết cho các dân tộc ít người”. Chỉ thị 84 CT-TU lại nhấn mạnh: “Sử dụng
chữ dân tộc là nguyện vọng tha thiết của các dân tộc, cần tiếp tục nghiên
cứu tiếng dân tộc về mặt khoa học, đồng mạnh dạn sử dụng rộng rãi 3 thứ
chữ Tày-Nùng, Thái, Mông[1] trên sách báo, trong các cơ quan hành chính
và trong đời sống hàng ngày. Chống tư tưởng coi thường chữ dân tộc,
không phát triển việc học và sử dụng chữ dân tộc”.
Hiến pháp năm 1960 của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà chính
thức quy định: “Các dân tộc có quyền duy trì hoặc sửa đổi phong tục tập
quán dùng tiếng nói, chữ viết phát triển văn hoá dân tộc”.

13


Ngày 27 tháng 11 năm 1961, Hội đồng Chính phủ đã ban hành nghị
định về việc phê chuẩn chính thức các phương án chữ Tày-Nùng, Thái,
Mông dùng làm chữ viết chính thức dùng làm chữ viết chính thức cho các
dân tộc trên trong việc xoá nạn mù chữ và bổ túc văn hoá, trong các
trường phổ thông và các trường chuyên nghiệp, trong các công văn, giấy
tờ của các cơ quan nhà nước trong các khu tự trị. Nhờ có chính sách đúng
đắn như vậy mà các dân tộc ít người Việt Nam trong mấy chục năm qua đã
không ngừng phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá,... của mình, kề vai sát
cánh cùng với dân tộc Kinh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Khuyến khích và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số ở Việt Nam
học tiếng Việt và dùng tiếng Việt làm ngôn ngữ giao tiếp giữa các dân tộc
ở Việt Nam; khẳng định vai trò làm ngôn ngữ quốc gia của tiếng Việt, dùng

nó trong tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội. Suốt trong thời kì Bắc
thuộc và Pháp thuộc, tiếng Việt ta rất bị coi thường. Tiếng Hán và tiếng
Pháp lần lượt được bọn thống trị xem là ngôn ngữ chính thức của nhà
nước, được dùng trong hành chính, trường học, thi cử, cũng như sáng tác
văn học. Thế kỉ 18, người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ muốn dùng chữ
Nôm thay cho chữ Hán nhưng chưa thành công. Phải chờ đến khi Cách
mạng tháng Tám năm 1945 thành công, tiếng Việt mới thay thế tiếng Pháp
làm ngôn ngữ chính thức của nhà nước. Từ đây, tiếng Việt không còn bị coi
là "nôm na mách qué" nữa, nó không chỉ dùng trong sinh hoạt hàng ngày
của nhân dân mà chính thức đảm nhận những chức năng xã hội mới: tất
cả các lĩnh vực hoạt động của người Việt Nam đều có thể dùng tiếng Việt.
Nhiều văn kiện chính trị, quân sự, ngoại giao,... viết bằng tiếng Việt. Hàng
loạt tác phẩm triết học, sử học, văn nghệ bằng tiếng Việt ra đời. Đặc biệt,
ở miền Bắc nước ta, ngay từ đầu, các trường đại học đều dùng tiếng Việt
để giảng dạy và học tập. Chính nhờ đường lối đúng đắn ấy mà tiếng Việt
đã phát triển một bước lớn so với trước đây. Thực tế chứng tỏ khả năng vô
cùng phong phú của tiếng Việt, nó có thể dùng ở tất cả mọi lĩnh vực, kể cả
14


lĩnh vực khoa học và kĩ thuật. Nhiều nước, tuy đã giành được độc lập dân
tộc nhưng vẫn chưa khẳng định được vai trò và vị trí của ngôn ngữ dân
tộc, như Ấn Độ, Pakistan,...

KẾT LUẬN
Trong khi khẳng định vị trí, vai trò của tiếng Việt, Đảng và Nhà nước
ta cũng vạch ra phương hướng phát triển của tiếng Việt là dân chủ hoá,
quần chúng hoá. Hồ Chủ tịch nói: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời
và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó
nhằm làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp. Của mình có mà không

dùng, lại đi mượn của nước ngoài, đó chẳng phải là đầu óc quen ỷ lại hay
sao?”(1). Hồ Chủ tịch khuyên chúng ta “phải học cách nói của quần chúng”,
“khi viết, khi nói, phải luôn luôn làm thế nào cho ai cũng hiểu được”, “làm
sao cho quần chúng đều hiểu”. Người nói: “Chúng ta muốn tuyên truyền
quần chúng, phải học cách nói của quần chúng, mới nói lọt tai quần chúng.
Tục ngữ có câu: "Học ăn, học nói, họ gói, học mở". Nói chung phải học mà
15


phải chịu khó mới học được. Vì cách nói của dân chúng rất đầy đủ, rất hoạt
bát, rất thực tiễn, mà lại rất giản đơn” (2). Người rất nhiều lần phê phán
bệnh sính dùng chữ. Trong "Sửa đổi lề lối làm việc", Người viết: “Có nhiều
người có bệnh dùng chữ Hán, những tiếng ta sẵn có không dùng, mà dùng
chữ Hán cho bằng được...”; “Dùng cả đoạn chữ Hán, dùng từng đống danh
từ lại nói và viết theo cách Tây, mỗi câu dài dằng dặc thì quần chúng hiểu
sao được?”; “Tiếng ta có thì không dùng, mà cứ ham dùng chữ Hán. Dùng
đúng đã là một cái hại, vì quần chúng không hiểu. Nhiều người biết không
rõ, dùng không đúng, mà cũng ham dùng, cái hại lại càng to...”. Trong bài
nói chuyện với cán bộ báo chí, văn nghệ và cán bộ các ngành ngày
17/8/1952, Bác cũng nhắc: “Các ông viết báo nhà mình hay dùng chữ quá.
Những chữ tiếng ta có mà không dùng, lại dùng cho được chữ kia. Cán bộ
cũng hay dùng chữ Hán, dùng lung tung, nhiều khi không đúng. Vài ví dụ:
3 tháng, lại nó "tam cá nguyệt". Đánh vào sâu thì nói "tung tâm", "xem
xét" thì nói "quan sát" v.v...”. Trong bài nói chuyện tại đại hội lần thứ hai
của Hội Nhà báo Việt Nam (16/4/1959), Bác nhắc lại: “Cái bệnh dùng chữ
là phổ biến trong tất cả các ngành. Đáng lẽ báo chí phải chống lại cái bệnh
đó, nhưng trái lại, báo chí lại tuyên truyền cho cái tệ đó...”. Đến đại hội lần
thứ ba của Hội Nhà báo, Bác tiếp tục phê phán: “Khuyết điểm nặng nhất là
dùng chữ nước ngoài quá nhiều, và nhiều khi dùng không đúng” v.v...
Tuy nhiên, cần nhớ rằng, Hồ Chủ tịch không hề cự tuyệt việc mượn

chữ nước ngoài, mà ngược lại, có một thái độ rất đúng đắn, khoa học,
Người đã từng nói:
“Tiếng ta còn thiếu, nên nhiều lúc phải mượn tiếng khác, nhất là
tiếng Trung Quốc. Nhưng phải có chừng mực. Tiếng nào sẵn có thì dùng
tiếng ta... Nhưng sẽ "tả" quá nếu những chữ Hán đã hoá thành tiếng ta ai
cũng hiểu, mà cố ý không dùng. Thí dụ: "độc lập" mà nói "đứng một", "du
kích"



nói

"đánh

chơi".

Thế

cũng



tếu.”

“Bất đắc dĩ mới phải dùng chữ, thí dụ: "độc lập", "tự do", "hạnh phúc" là
những chữ Trung Quốc, nhưng ta không có chữ gì dịch, thì cố nhiên phải
16


dùng. Nếu quá tả không mượn, không dùng, hoặc là nói: Việt Nam "đứng

một"

thì

không

ai

hiểu

được...”

“Cố nhiên, có những chữ không thể dịch thì ta phải mượn chữ nước ngoài.
Ví dụ: những chữ kinh tế, chính trị v.v... thì ta phải dùng. Hoặc có những
chữ

nếu

dịch

ra

thì

mất

cả

ý


nghĩa,

như

chữ

"độc

lập".”

“Đời sống xã hội ngày càng phát triển và đổi mới. Có những chữ ta không
sẵn có và khó dịch đúng thì cần phải mượn chữ nước ngoài...”.
Để thấm nhuần và thực hiện những lời dạy ân cần của Bác, Hội nghị
bàn về vấn đề giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt đã họp từ ngày 7 đến
10/2/1966. Trong bài phát biểu tại hội nghị, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã
nêu ra ba khâu cần phải làm để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt:


+Một là giữ gìn và phát triển vốn chữ của tiếng ta;



+Hai là nói và viết đúng phép tắc của tiếng ta;



+Ba là giữ gìn bản sắc, tinh hoa, phong cách của tiếng ta trong

mọi thể văn (văn nghệ, chính trị, khoa học, kĩ thuật...).
Thủ tướng kết luận: “Đây là một công việc lâu dài, phải kiên trì, phải

nhìn xa, thấy rộng, phải làm từng bước với tất cả ý thức trách nhiệm của
mỗi người chúng ta, với lòng tự hào về tiếng nói của dân tộc và với lòng
phấn khởi và tin tưởng đặng góp phần mình vào một công việc vừa quan
trọng, vừa tốt đẹp vô cùng”(3).

17



×