Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Khái niệm, vai trò và ý nghĩa của việc làm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (48.95 KB, 7 trang )

khái niệm, vai trò và ý nghĩa của việc làm
Lao động là một hành động diễn ra giữa con người với giới tự
nhiên, trong lao động con người đã vận dụng trí lực và thể lực cùng
với công cụ tác động vào giới tự nhiên tạo ra sản phẩm phục vụ
cho nhu cầu sinh hoạt , đời sống con người , lao động là một yếu
tố tất yếu không thể thiếu được của con người , nó là hoạt động rất
cần thiết và gắn chặt với lợi ích của con người. Con người không
thể sống khi không có lao động. Qua đó mỗi con người trong nền
sản xuất xã hội đều chiếm những vị trí nhất định, và từ đây, con
người bắt đầu ý thức được việc làm.
Vậy việc làm là gì? Việc làm có vai trò gì? Ý nghĩa của việc làm ra
sao?
Để làm rõ những câu hỏi trên, em xin được đưa ra ý kiến của mình,
từ đó phân tích khái niệm, vai trò và ý nghĩa của việc làm.
1. Khái niệm việc làm:
1.1 Dưới góc độ kinh tế xã hội:
Hoạt động kiếm sống là hoạt động quan trong nhất của thế giới nói
chung và con người nói riêng. Hoạt động kiếm sống của con người
được gọi chung là việc làm.
Việc làm trước hết là vấn đề của mỗi cá nhân, xuất phát từ nhu
cầu của bản thân nên tiến hành các hoạt động nhất định. Họ có
thể tham gia công việc nào đó để được trả công hoặc tham gia vào
các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm như dùng các tư liệu


sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận hoặc tự làm những công
việc cho hộ gia đình mình.
Ngoài vấn đề cá nhân, việc làm còn là vấn đề của cộng đồng của
xã hội.. Sở dĩ có sự phát sinh này là do: con người không sống đơn
lẻ và hoạt động lao động của mỗi cá nhân cũng không đơn lẻ mà
nằm trong tổng thể các hoạt động sản xuất của xã hội. Hơn nữa,


việc làm và thu nhập không phảo là vấn đề mà lúc nào mỗi cá
nhân NLĐ cũng quyết định được. SỰ phát triển quá nhanh của dân
số, mức độ tập trung tư liệu sản xuất ngày càng cao vào tay một
số cá nhân dẫn đến tình trạng xã hội ngày càng có nhiều người
không có khả năng tự tạo việc làm. Trong điều kiện đó, mỗi cá
nhân phải huy động mọi khả năng của bản thân để tự tìm việc làm
cho mình, phải cạnh tranh để tìm việc làm.
Tóm lại, xét về phương diện kinh tế- xã hội, có thể hiểu việc làm là
các hoạt động tạo ra, đem lại lợi ích, thu nhập cho NLĐ được xã hội
thừa nhận.
1.2 Dưới góc độ pháp lí:
* Theo quan niệm quốc tế:
ILO (International Labour Organization) đưa ra khái niệm người có
việc làm là những người làm việc gì đó được trả tiền công, lợi
nhuân hoặc được thanh toán bằng hiện vật hoặc những người
tham gia vào hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích
hay vì thu nhập gia đình không được nhận tiền công hoặc hiện vật.
Khái niệm này còn được đưa ra tại Hội nghịquốc tế lần thứ 13 của
các nhà thống kê lao động ILO. Còn người thất nghiệp là những


người không có việc làm nhưng đang tích cực tìm việc làm hoặc
đang chờ được trả lại làm việc.
ILO còn có nhiều công ước và khuyến nghị liên quan đến vấn đề
việc làm, trong đó có 1 số công ước quan trọng như công ước số
47 (1935), Công ước số 88 (1948), Công ước 122 (1964)…
*Theo quan niệm của Việt Nam:
Đã được 14 năm kể từ khi đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị
trường, theo đó quan niệm về việc làm và vấn đề liên quan như
thất nghiệp, chính sách giải quyết việc làm đã có những thay đổi

cơ bản.
Điều 55 Hiến Pháp năm 1992 quy định: “ Lao động là quyền và
nghĩa vụ của công dân. Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ngày
càng nhiều việc làm cho NLĐ “.
Từ quan niệm nay đã mở ra bước chuyển căn bản trong nhận thức
về việc làm. Trên cơ sở này, Bộ luật Lao động Việt Nam đã quy
định:
“Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật
cấm đều được thừa nhận là việc làm” ( Điều 13 Bộ luật lao động).
Như vậy, dưới góc độ pháp lý, việc làm được cấu thành bởi 3 yếu
tố:
_ Là hoạt động lao động: thể hiện sự tác động của sức lao động
vào tư liệu sản xuất để tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ. Yếu tố lao


động trong việc làm phải có tính hệ thống, tính thường xuyên và
tính nghề nghiệp. Vì vậy người có việc làm thông thường phải là
những người thể hiện các hoạt động lao động trong phạm vi nghề
nhất định và trong thời gian tương đối ổn định.
_ Tạo ra thu nhập: Là khoản thu nhập trực tiếp và khản năng tạo
ra thu nhập.
_ Hoạt động này phải hợp pháp: hoạt động lao động tạo ra thu
nhập nhưng trái pháp luật, không được pháp luật thừa nhận thì
không được coi là việc làm . Tùy theo điều kiện kinh tế-xã hội, tập
quán, quan niệm về đạo đức của từng nước mà pháp luật có sự
quy định khác nhau trong việc xác định tính hợp pháp của các
hoạt động lao động được coi là việc làm. Đây là dấu hiệu thể hiện
đặc trưng tính pháp lí của việc làm.
2. Vai trò và ý nghĩa của việc làm:
2.1 Trên bình diện kinh tế -xã hội:

Về mặt kinh tế, việc làm luôn gắn liền với vấn đề sản xuất. Hiệu
quả của việc giải quyết tốt vấn đề việc làm cũng chính là hiệu quả
của sản xuất. Kinh tế phát triển sẽ tạo điều kiện để giải quyết tốt
vấn đề việc làm và ngược lại, nếu không giải quyết tốt vấn đề việc
làm và thất nghiệp thì đó sẽ là những yếu tố kìm hãm sự tăng
trưởng của kinh tế.
Về mặt xã hội, bảo đảm việc làm là chính sách xã hội có hiệu quả
to lớn trong vấn đề phòng, chống, hạn chế các tiêu cực xã hội, giữ
vững được kỉ cương, nề nếp xã hội. Thất việc và việc làm không


đầy đủ, thu nhập thấp là tiền đề của sự đói nghèo, thậm chí là
điểm xuất phát của tệ nạn xã hội. Các tệ nãn của xã hội như tội
phạm, ma túy, mại dâm, có nguyên nhân cốt lõi là việc làm và thất
nghiệp.
2.2 Trên bình diện chính trị - pháp lí:
Hậu quả của việc thất nghiệp, thiếu việc làm không những ảnh
hưởng tới kinh tế- xã hội mà còn đe dọa lớn đối với an ninh vã sự
ổn định của mỗi quốc gia.. Chính vì vậy ở bất kì quốc gia nào, việc
làm đã, đang và luôn là vấn đề gay cấn nhạy cảm đối với từng cá
nhân, từng gian đình đồng thời cũng là vấn đề xã hội lâu dài, vừa
cấp bách nếu không được giải quyết tốt có thể trở thành vấn đề
chính trị.
Còn trên bình diện pháp lý, việc làm là phạm trù thuộc quyền cơ
bản của con người, đóng vai trò là cơ sở hình thành, duy trì và là
nội dung của quan hệ lao động. Khi việc làm không còn tồn tại,
quan hệ lao động cũng theo đó mà triệt tiêu, không còn nội dung,
không còn chủ thể.
2.3 Trên bình diện quốc gia - quốc tế:
Đối với mỗi quốc gia, chính sách việc làm và giải quyết việc làm là

bộ phận có vị trí quan trọng đặc biệt trong hệ thống các chính
sách xã hội nói riêng và trong tổng thể chính sách phát triển kinh
tế xã hội nói chung. Chính sách xã hội của nhà nước ở hầu hết các
quốc gia đều tập trung vào một số các lĩnh vực như thị trường lao
động, bảo đàm việc làm, bhxh… Chính sách việc làm là chính sách


cơ bản nhất của quốc gia, góp phần bảo đảm an toàn, ổn định và
phát triển xã hội
Tuy nhiên trong thời đại ngày nay, vấn đề lao động việc làm không
chỉ dừng lại ở phạm vi quốc gia mà nó còn có tính toàn cầu hóa,
tính quốc tế sâu săc. Vấn đề hợp tác, đưa lao động đi làm việc ở
nước ngoài cũng được đặt ra đồng thời với việc chấp nhận lao
động ở nước khác đến làm việc tại nước mình. Điều này giúp cân
bằng lao động. Lao động từ nước kém phát triển sang làm việc ở
nước phát triển, từ nước dư thừa lao động sang nước thiếu lao
động. Trong thị trường đó, cạnh tranh không chỉ còn là vấn đề giữa
những NLĐ mà còn trở thành vấn đề giữa các quốc gia. Từ đó vấn
đề lao động việc làm còn được điều chỉnh hoặc chịu sự ảnh hưởng
chi phối của các công ước quốc tế về lao động. Các nước dù muốn
hay không cũng phải áp dụng hoặc tiếp cận với những “luật chơi
chung” và “sân chơi chung” càng ngày càng khó khăn và quy mô
hơn.
Kết luận

Vấn đề việc làm-giải quyết việc làm là vấn đề quan trọng của mỗi
quốc gia trên thế giới, bao gồm cả những nước có nền kinh tế phát
triển. Và để giải quyết vấn đề này, nhà nước có thể sử dụng nhiều
biện pháp khác nhau. Có những biện pháp nhằm trực tiếp giải
quyết việc làm cho NLĐ nhưng cũng có biện pháp chỉ mang tính

chất hỗ trợ. Các biện pháp mang tính hỗ trợ cho giải quyết việc
làm như khuyến khích đầu tư, lập các chương trình việc làm, phát
triển hệ thống dịch vụ việc làm, dạy nghề gắn với việc làm, thành
lập các quỹ giải quyết việc làm, cho vay từ các quỹ chuyên dụng…


Các biện pháp trực tiếp giải quyết việc làm như đưa NLĐ Việt Nam
đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, khuyến khích tuyển dụng
lao động và tự do lao động. Tất cả nhằm hướng tới mục đích làm
giảm tình trạng thất nghiệp, mất cân bằng lao động…



×