Tách vụ án dân sự của tòa án
ĐỀ SỐ 13
Công ty UNI Việt Nam có trụ sở tại Huyện X, tỉnh B ký hợp đồng đại
lý giao cho công ty T có trụ sở tại quận T thành phố U tiêu thu
phân đạm. Khi thanh lý hợp đồng số 01/01 công ty T xác nhận còn
nợ của công ty UNI một trăm triệu đồng. Khi ký hợp đồng số 02/ĐL
hai bên thỏa thuận số tiền còn thiếu (một trăm triệu đồng) của hợp
đồng số 01 chuyển qua thanh toán cùng hợp đồng số 02. Trong
quá trình thực hiện hợp đồng số 02, công ty T vi phạm nghĩa vụ trả
tiền nên công ty UNI khởi kiện đòi công ty T trả 100 triệu đồng còn
nợ của hợp đồng số 01 và tiền hàng còn thiếu của hợp đồng số 02.
Tòa án cấp sơ thẩm tách khoản nợ 100 triệu đồng để giải quyết
bằng một vụ án khác. Hỏi:
a.Việc tách vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là đúng hay sai và giải
thích tại sao?
b.Xác định Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc trên và giải
thích tại sao?
BÀI LÀM
a. Việc tách vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm là đúng hay sai và giải
thích tại sao?
Quy định về việc tách vụ án dân sự của Tòa án tại khoản 2 Điều 38
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004:
...”2. Toà án có thể tách một vụ án có các yêu cầu khác nhau
thành hai hoặc nhiều vụ án nếu việc tách và việc giải quyết các vụ
án được tách bảo đảm đúng pháp luật.”
Về nguyên tắc, việc tách vụ án chỉ thực hiện trong trường hợp vụ
án có nhiều quan hệ pháp luật có thể giải quyết một cách độc lập
mà không ảnh hưởng tới việc giải quyết các quan hệ pháp luật
khác. Việc tách vụ án phải đảm bảo việc giải quyết nhanh chóng
và đúng pháp luật các yêu cầu của đương sự. Trong trường hợp các
quan hệ pháp luật có tranh chấp độc lập với nhau và việc nhập các
quan hệ pháp luật để giải quyết trong cùng một vụ án sẽ gây khó
khăn cho việc giải quyết vụ án thì tòa án nên tách các quan hệ
pháp luật để giải quyết trong các vụ án khác nhau. [1, tr.80 – 81].
Trong tình huống nêu trên, chúng ta thấy có những vấn đề như
sau:
- Khoản nợ 100 triệu của công ty T đối với công ty UNI Việt Nam đã
trở thành một điều khoản thanh toán của hợp đồng số 02/ĐL (theo
như thỏa thuận của hai bên)
- Công ty T vi phạm nghĩa vụ trả tiền trong quá trình thực hiện hợp
đồng số 02/ĐL
- Công ty UNI khởi kiện đòi công ty T trả 100 triệu đồng còn nợ của
hợp đồng số 01 và tiền hàng còn thiếu của hợp đồng số 02.
Vì số nợ 100 triệu kia đã trở thành một điều khoản của hợp đồng
số 02 theo thỏa thuận của hai bên, cho nên việc giải quyết khoản
nợ này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc giải quyết tranh chấp trong
hợp đồng số 02 của hai bên. Đồng thời, tranh chấp ở đây đều là
tranh chấp liên quan đến hợp đồng thương mại (do bên công ty T
vi phạm nghĩa vụ trả tiền đối với công ty UNI Việt Nam).
Nên việc tòa án cấp sơ thẩm tách vụ án dân sự trong trường hợp
này là không hợp lí. Tòa án hoàn toàn có thể giải quyết tranh chấp
giữa hai bên trong cùng một vụ án dân sự.
b. Xác định Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc trên và giải
thích tại sao?
Trước hết, chúng ta xác định rằng tranh chấp giữa công ty UNI Việt
Nam và công ty T là tranh chấp về kinh doanh, thương mại, cụ thể
là tranh chấp về vấn đề đại lý (quy định tại điểm d khoản 1 Điều
29 Bộ luật Tố tụng dân sự).
Theo quy định về thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện tại
điểm b khoản 1 Điều 33 Bộ luật Tố tụng dân sự:
“Điều 33. Thẩm quyền của Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh
1. Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau
đây gọi chung là Toà án nhân dân cấp huyện) có thẩm quyền giải
quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp sau đây:
...b) Tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy định tại các điểm
a, b, c, d, đ, e, g, h và i khoản 1 Điều 29 của Bộ luật này;”
Như vậy tranh chấp này sẽ được giải quyết bởi Tòa án nhân dân
cấp huyện.
Đồng thời, theo quy định tại khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân
sự về thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh
thổ:
“...1. Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Toà án theo lãnh thổ
được xác định như sau:
a) Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc
nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại
các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này;
b) Các đương sự có quyền tự thoả thuận với nhau bằng văn bản
yêu cầu Toà án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên
đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên
đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về dân sự,
hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định
tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này;”
Ở trong tình huống này, nguyên đơn là công ty UNI Việt Nam có
trụ sở tại Huyện X, tỉnh B; bị đơn là công ty T có trụ sở tại quận T
thành phố U. Vậy, Tòa án nhân dân quận T sẽ có thẩm quyền giải
quyết vụ án dân sự này. Song bên cạnh đó, các bên cũng có thể tự
thỏa thuận bằng văn bản với nhau yêu cầu Tòa án nhân dân huyện
X thụ lí vụ việc trên.