Chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh
MỞ ĐẦU
Chứng cứ và chứng minh là hai chế định quan trọng trong pháp luật Tố tụng dân sự.
Việc nghiên cứu chứng cứ nói chung, nguồn chứng cứ nói riêng và phương tiện
chứng minh trong vụ án dân sự có ý nghĩa lớn không chỉ về mặt pháp lý mà còn có
ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất quan trọng. Tuy nhiên về phương diện lập pháp Tố
tụng hình sự, khái niệm “chứng cứ” được các nhà làm luật ghi nhận tại Điều 81 Bộ
luật tố tụng dân sự nhưng khái niệm “nguồn chứng cứ” và “phương tiện chứng
minh” lại chưa được ghi nhận cụ thể. Điều này gây khó khăn trong việc hiểu và vận
dụngvề khái niệm chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh trên thực
tiễn.
Do vậy, bài viết này hướng đến đề tài: “Chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện
chứng minh”.
NỘI DUNG
I. Phân tích nội dung cơ bản về chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng
minh trong tố tụng dân sự.
1. Khái niệm
1.1. Chứng cứ
Chứng cứ trong tố tụng dân sự có thể hiểu là những gì có thật phản ánh sự thật
khách quan về vụ việc dân sự và được thu thập theo trình tự nhất định do pháp luật
quy định. Chứng cứ có thể là những tin tức, dấu vết liên quan đến các tình tiết, sự
kiện của vụ việc dân sự được Tòa án sử dụng làm căn cứ để giải quyết vụ việc dân
sự. Song, để mọi người có thể nhận thức được thì chúng phải được ghi lại, phản ánh
lại dưới những hình thức cụ thể như bản hợp đồng, bản di chúc, băng ghi âm…
Điều 81 Bộ luật tố tụng dân sự định nghĩa về chứng cứ như sau: “Chứng cứ trong
vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá nhân, cơ quan tổ chức khác
giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự thủ tục do Bộ luật
này quy định mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của
đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như những tình tiết khác cần
thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự.”
1.2. Nguồn chứng cứ.
Nguồn là nơi bắt đầu, nơi phát sinh ra hoặc nơi có thể cung cấp hay rút ra cái gì,
điều gì. Do đó, nguồn chứng cứ được hiểu là nơi chứa đựng chứng cứ. Từ các
nguồn chứng cứ, các chủ thể có thể rút ra các chứng cứ cần thiết để sử dụng vào
việc tìm ra sự thật vụ án và đưa ra quyết định đúng đắn để giải quyết vụ việc dân sự.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự thì chứng cứ có thể được rút ra từ 9 loại
nguồn chứng cứ, được quy định tại Điều 82 gồm: các tài liệu đọc được, nghe đươc,
nhìn được; các vật chứng; lời khai của đương sự; lời khai của người làm chứng; kết
luận giám định; biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ; tập quán; kết quả giám định
tài sản; và các nguồn chứng cứ khác mà pháp luật quy định. Tuy nhiên, không phải
bất kỳ một nguồn chứng cứ nào cũng chứa đựng chứng cứ trong vụ việc dân sự.
1.3 Phương tiện chứng minh.
Pháp luật tố tụng dân sự chưa quy định về khái niệm “phương tiện chứng minh”.
Hiểu theo nghĩa khái quát, phương tiện chứng minh là những công cụ do pháp luật
quy định các chủ thể chứng minh được sử dụng để làm rõ các tình tiết, sự kiện của
vụ việc dân sự. Mỗi vụ việc dân sự đều có những phương tiện chứng minh riêng.
Việc lựa chọn sử dụng những phương tiện chứng minh phù hợp trong mỗi vụ việc
dân sự là tùy thuộc vào những tình tiết, sự kiện thuộc đối tượng chứng minh của vụ
việc dân sự cần giải quyết.
Phương tiện chứng minh có tính chất quyết định kết quả giải quyết vụ việc dân sự.
Để đảm bảo việc giải quyết vụ việc dân sự được đúng đắn, pháp luật quy định
những phương tiện chứng minh cụ thể mà các chủ thể chứng minh được sử dụng.
Mỗi phương tiện cụ thể cũng chỉ được sử dụng để chứng minh khi đáp ứng được
những điều kiện nhất định. Các tài liệu đọc được phải là bản chính hoặc bản sao có
công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cung
cấp; các tài liệu nghe được, nhìn được phải có văn bản xác nhận xuất xứ của nó; các
vật chứng phải là hiện vật gốc có liên quan đến vụ việc dân sự; lời khai của đương
sự, người làm chứng của pháp luật,…Với quy định cụ thể và chặt chẽ của Bộ luật tố
tụng dân sự đã giúp cho hoạt động chứng minh đạt được hiệu quả cao nhưng bên
cạnh đó cũng không thể tránh khỏi thiếu sót khi chưa có quy định về các phương
tiện chứng minh mà các chủ thể được sử dụng để làm rõ vấn đề của vụ việc dân sự.
2. Quy định của pháp luật về chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh
trong tố tụng dân sự.
2.1 Chứng cứ
Theo quy định tại Điều 81 Bộ luật tố tụng dân sự, thì chứng cứ được định nghĩa như
sau: “Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá nhân,
cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập được theo trình
tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu
hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như những
tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự”.
Từ định nghĩa trên, có thể thấy được chứng cứ có ba thuộc tính cơ bản là: tính
khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp.
Chứng cứ có tính khách quan bởi chứng cứ là cơ sở để nhận thức vụ việc dân sự. Để
nhận thức được đúng bản chất của sự vật, sự việc thì sự vật, sự việc phải được phản
ánh một cách khách quan. Tính khách quan của chứng cứ thể hiện ở chỗ chứng cớ
phải là cái có thật, tồn tại ngoài ý muốn của những người tiến hành tố tụng. Việc
xác định tính khách quan của chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự
giúp cho Tòa án loại bỏ được những cái không có thật, từ đó đẩy nhanh quá trình
giải quyết vụ việc.
Chứng cứ có tính liên quan bởi chứng cứ được Tòa án dựa vào để giải quyết vụ việc
dân sự. Tính liên quan của chứng cứ thể hiện ở chỗ giữa chứng cứ và vụ việc dân sự
có mối quan hệ nhất định. Nhờ chứng cứ mà Tòa án có thể công nhận hay phủ nhận
tình tiết, sự kiện này hay tình tiết, sự kiện khác của vụ việc dân sự hoặc đưa ra tin
tức về nó.
Chứng cứ có tính hợp pháp, bởi việc giải quyết vụ việc dân sự không thể tách rời
quá trình nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chứng cứ. Tính hợp pháp của chứng cứ
yêu cầu chứng cứ phải được rút ra từ những nguồn nhất định do pháp luật quy định;
quá trình thu thập, nghiên cứu, đánh giá và sử dụng phải được tiến hành theo đúng
quy định của pháp luật. Từ đó giúp cho việc giải quyết vụ việc dân sự được chính
xác hơn.
2.2 Nguồn chứng cứ
Pháp luật chưa quy định về định nghĩa nguồn chứng cứ, tuy nhiên căn cứ theo quy
định tại Điều 82 Bộ luật tố tụng dân sự thì chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau
đây: “1. Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được; 2. Các vật chứng; 3. Lời khai
của đương sự; 4. Lời khai của người làm chứng; 5. Kết luận giám định; 6. Biên bản
ghi kết quả thẩm định tại chỗ; 7. Tập quán; 8. Kết quả định giá tài sản; 9. Các nguồn
khác mà pháp luật có quy định.”
Dù vậy, không phải bất cứ tài liệu, dữ kiện nào được thu thập từ các nguồn chứng
cứ cũng đều được xem là chứng cứ và được sử dụng vào việc giải quyết vụ án mà
các tài liệu, dữ kiện này phải đảm bảo được các thuộc tính cơ bản của chứng cứ,
đồng thời phải phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng dân sự về xác định chứng
cứ.
Bên cạnh đó, mục 2 phần II Nghị quyết số 04/2005/NQ–HĐTP hướng dẫn thi hành
một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về chứng minh và chứng cứ quy định về
điều kiện xác định chứng cứ trong các loại nguồn chứng cứ. Với quy định này
chúng ta thấy rằng: đối với loại nguồn chứng cứ là tài liệu đọc được, nghe được,
nhìn được khi có chứa đựng chứng cứ của vụ án; nếu là tài liệu đọc được nội dung
thì phải là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do các
tổ chức, cơ quan có thẩm quyền cung cấp, xác nhận; nếu là loại tài liệu nghe được,
nhìn được (như băng đĩa ghi âm, ghi hình) thì phải xuất trình được văn bản xác
nhạn về xuất xứ của các tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu
âm, ghi hình đó; có như vậy thì tài liệu đó mới được coi là có giá tri và được sử
dụng làm chứng cứ chứng minh trong vụ án.
Đối với loại nguồn chứng cứ là vật chứng: vật chứng được pháp luật quy định là
nguồn chứng cứ vì tồn tại trong chính bản thân nó là chứng cứ của vụ án, nó chỉ
chứa đựng chứng cứ chứ nó không phải là chứng cứ.
Ngoài ra các lời khai của đương sự, người làm chứng, kết luận giám định, biên bản
ghi kết quả thẩm định tại chỗ, kết quả định giá tài sản và tập quán nếu được tiến
hành đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định và đảm bảo ba thuộc tính của
chứng cứ thì sẽ được coi là chứng cứ và được sử dụng để giải quyết vụ việc dân sự
tại Tòa án.
3. Mối quan hệ giữa chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh:
Từ những phân tích trên, có thể rút ra một số nhận xét như sau:
* Về mối quan hệ giữa chứng cứ và nguồn chứng cứ:
Chứng cứ bắt buộc phải được rút ra từ một trong những nguồn và thu thập bằng
biện pháp do pháp luật quy định. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các chủ
thể chứng minh phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về chứng cứ, Đối
với những thông tin không được rút ra từ các nguồn do pháp luật quy định, không
được thu thập, nghiên cứu, đánh giá và sử dụng theo đúng quy định của pháp luật
thì không được coi là chứng cứ, không được sử dụng để giải quyết vụ việc dân sự.
Nguồn chứng cứ là nguồn được thu nhập, cung cấp theo trình tự pháp luật quy định
và được liệt kê tại điều 82 Bộ luật tố tụng dân sự. Nếu không có nguồn chứng cứ sẽ
không có chứng cứ giải thích, làm sáng tỏ các tình tiết và diễn biến của vụ án, kéo
theo hậu quả là các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ đưa ra những kết luận không đúng,
không chính xác và không đầy đủ để giải quyết vụ việc dân sự. Bất kỳ loại chứng
cứ nào cũng nằm trong nguồn chứng cứ nhất định, tuy nhiên điều đó không có
nghĩa là mọi nguồn chứng cứ thu thập được thì trong đó sẽ chứa đựng chứng cứ. Do
vậy, không thể đồng nhất khái niệm “nguồn chứng cứ” với “chứng cứ”.
* Về mối quan hệ giữa chứng cứ và phương tiện chứng minh:
Trong thực tiễn có những tin tức, dấu viết liên quan đến các tình tiết, sự kiện của vụ
việc dân sự phải được ghi lại, phản ánh lại để mọi người có thể nhận thức được .
Thông qua phương tiện chứng minh, các đương sự, người đại diện hay người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu
cầu hay sự phản đối của họ. Trong nhiều trường hợp chứng cứ được chứa đựng
trong phương tiện chứng minh; những sự kiện, tình tiết liên quan đến vụ án đã được
kiểm tra được tính xác thực thông qua phương tiện chứng minh thì được coi là
chứng cứ và được sử dụng làm căn cứ để giải quyết vụ việc dân sự.
* Về mối quan hệ giữa nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh:
Nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh là hai khái niệm khác nhau tuy nhiên
trên thực tế chúng thường được hiểu là một. Vì trong một số trường hợp các phương
tiện chứng minh cũng chính là cái có thể rút ra các tin tức về vụ việc dân sự như vật
chứng, tài liệu chứa đựng chứng cứ…, nó cũng chính là nguồn chứng cứ. Để phân
biệt nguồn chứng cứ và phương tiện chứng minh, cần phân tích trên các phương
diện và những góc độ khác nhau như nơi rút ra chứng cứ hay công cụ được sử dụng
để xác định các tình tiết của vụ việc dân sự. Bản thân nguồn chứng cứ chỉ thể hiện
khả năng chứa đựng chứng cứ, nếu không có sự tác động của các chủ thể nhất định
thì chứng cứ tiềm ẩn trong đó không được phát hiện và như vậy, nguồn chứng cứ
chưa thể sử dụng vào việc chứng minh. Tuy nhiên, khi đã có sự xem xét, đánh giá,
khai thác chứng cứ trên cơ sở nguồn chứng cứ, thì lúc này những nguồn chứng cứ
đó được sử dụng như một công cụ dùng vào việc xác định những tình tiết, sự kiện
của vụ việc dân sự, góp phần giải quyết vụ việc; nói cách khá
c, lúc này nguồn chứng cứ được nhìn nhận là phương tiện chứng minh.
Tiểu kết: Chứng cứ, nguồn chứng cứ, phương tiện chứng minh đều đóng vai trò
quan trọng trong tố tụng dân sự. Chứng cứ là những gì có thật phản ánh sự thật
khách quan về vụ việc dân sự và được thu thập theo trình tự nhất định do pháp luật
quy định. Chứng cứ được dùng là căn cứ để tòa án xác định yêu cầu hay phản đối
yêu cầu của đương sự đúng hay không. Tòa án thu thập các chứng cứ cần thiết từ
các nguồn chứng cứ để từ đó sử dụng vào việc tìm ra sự thật vụ án và đưa ra quyết
định đúng đắn để giải quyết vụ việc dân sự đó. Phương tiện chứng minh có tính chất
quyết định đối với kết quả giải quyết vụ việc dân sự. Để đảm bảo việc phải giải
quyết vụ việc dân sự đúng đắn, pháp luật cần quy định những phương tiện chứng
minh cụ thể mà các chủ thể chứng minh được sử dụng.
II. Thực tiễn thực hiện pháp luật về chứng cứ, nguồn chứng cứ và phương tiện
chứng minh:
Một vụ việc thực tiễn về vấn đề này được tóm tắt như sau:
Sự vụ bắt đầu từ việc năm 1992 bà Loan thuê ông Huệ làm tài công một tàu đánh
cá. Ông Huệ đã làm một vành đai giới hạn một vùng cố định trên biển bằng vật liệu:
lá dừa, đá, sọt tre, dây nhựa cách bờ biển LH 19 tiếng để việc đánh bắt cá thuận lợi
hơn. Người dân địa phương gọi đây là vùng “cây trà 19 tiếng”. Ngày 25-11-1999 bà
Loan phát hiện ông Hùng đã cho ông Thanh vùng “cây trà 19 tiếng” đó nên đã kiện
đòi ông Thanh trả lại. Đây là vùng biển xa bờ, pháp luật chưa quy định về quyền ưu
tiên khi khai thác và cũng chưa quy định ai có quyền định đoạt địa điểm khai thác
hải sản đó. Theo xác minh tại chính quyền địa phương và cơ quan chuyên môn (Ban
Hải sản thị trấn LH) thì có tồn tại tập quán tài công có quyền lựa chọn và cho người
khác điểm bắt cá . Tuy nhiên, tại phiên tòa, bà Loan bày tỏ quan điểm rằng các cơ
quan công nhận tập quán là không đúng, bởi lập luận như sau: “Theo nhiều chủ tàu
là dân địa phương, địa phương không hề có tập quán “tài công là người có quyền
chọn và cho người khác điểm đánh bắt cá” mà chỉ có tập quán ăn chia lợi nhuận,
phương thức đầu tư của chủ ghe, tạo thành một thông lệ quan hệ giữa người đầu tư
(chủ ghe) và tài công, ngư dân (bạn ghe). Vì nếu có một tập quán tài công muốn cho
ai thì cho, muốn bán cho ai địa điểm đánh bắt cá… thì sẽ không còn chủ ghe nào
đầu tư, không còn ai dám mướn tài công. Giả thiết rằng một người có 5 ghe, mướn
5 tài công rồi do mâu thuẫn, 5 tài công này đem cho hoặc bán cho 5 địa điểm đánh
bắt cá thì chủ ghe chỉ còn đường sạt nghiệp… Quan hệ xã hội, quan hệ làm ăn từ đó
mâu thuẫn triền miên, nhất là tạo một tiền lệ nguy hiểm về sau”.
Tuy nhiên, tại quyết định giám đốc thẩm số 93/GĐT ngày 27-5-2002 của Tòa dân
sự Tòa án nhân dân tối cao đã công nhận tập quán về “cây trà 19 tiếng” và lấy đó
làm căn cứ xử lý.
* Nhận xét:
Thứ nhất, về việc xác định chứng cứ, nguồn chứng cứ, phương tiện chứng minh:
Có thể thấy rằng giữa bà Loan và ông Huệ có tồn tại mối quan hệ hợp đồng lao
động vào năm 1992. Để chứng minh cho mối quan hệ này bà Loan cần cung cấp
cho Tòa án hợp đồng hoặc một hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương, được
pháp luật thừa nhận. Việc bà Loan cung cấp hợp đồng này có ý nghĩa rất quan
trọng, vì nếu trong bản hợp đồng có thỏa thuận về việc lựa chọn khu vực đánh cá,
và thỏa thuận rằng tài công không được cho, bán cho người khác địa điểm đánh cá
đó thì Tòa án sẽ căn cứ vào điều khoản thỏa thuận này để giải quyết. Nếu không có
hợp đồng bằng văn bản, hoặc có nhưng không thỏa thuận về vấn đề này thì việc Tòa
án xem xét giải quyết vụ án thông qua tập quán tại địa phương là hoàn toàn đúng
đắn.
Trong tình huống trên, dựa trên các quy định tại điều 81, 82 của Bộ luật tố tụng dân
sự, có thể thấy rằng: nguồn chứng cứ là tập quán “tài công có quyền chọn và cho
người khác điểm đánh bắt cá”; trên cơ sở tập quán đó, chứng cứ được rút ra là
những tình tiết, sự kiện về việc cộng đồng ở địa phương thừa nhận và làm theo quy
ước chung rằng tài công có quyền chọn và cho người khác điểm đánh bắt cá; tập
quán trên được coi là phương tiện chứng minh khi được các đương sự, Tòa án sử
dụng để khai thác, đánh giá, xem xét chứng cứ. Ngoài ra, phần trình bày tại tòa án
của bà Loan nhằm phủ định việc chính quyền địa phương và cơ quan chuyên môn
(Ban Hải sản thị trấn LH) có thể coi là nguồn chứng cứ dưới dạng lời khai của
đương sự nếu hội tụ đủ các điều kiện quy định tại khoản 2 và 4 điều 83 Bộ luật tố
tụng dân sự. Theo đó, những thông tin được thể hiện lời khai của bà Loan chính là
chứng cứ.
Thứ hai, về việc xác minh tập quán “tài công có quyền chọn và cho người khác
điểm đánh bắt cá” của chính quyền địa phương và cơ quan chuyên môn (Ban Hải
sản thị trấn LH): Cụ thể trong tình huống nêu trên, còn tồn tại nhiều quan điểm trái
chiều về việc xác minh tập quán đó có khách quan, minh bạch hay không? Quan
điểm thứ nhất cho rằng việc xác minh đó hoàn toàn khách quan, khoa học vì được
xác định căn cứ theo ý kiến của người dân địa phương, được tiến hành bởi các biện
pháp nghiệp vụ của các cơ quan có thẩm quyền… nên Tòa án hoàn toàn có cơ sở
khi công nhận tập quán đó. Tuy nhiên, quan điểm thứ hai cho rằng việc xác minh đó
chưa khách quan, toàn diện, không sát với thực tế. Bởi lẽ tập quán được xác định
dựa trên yếu tố quan trọng nhất đó chính là ý chí chung của một cộng đồng về
những thói quen ứng xử lâu đời, nhưng yếu tố này chưa được đáp ứng vì căn cứ
theo thực tiễn địa phương cũng như lời khai của bà Loan, còn rất nhiều cá nhân
trong cộng đồng chưa thừa nhận và làm theo lối ứng xử đó. Ngoài ra, giả sử tập
quán đó có thật thì sẽ đi ngược lại với lợi ích của các chủ tàu – một phần quan trọng
hình thành nên cộng đồng – như dẫn chứng trong lời của bà Loan, do đó điều giả sử
này gần như không thể thành hiện thực.
Tóm lại, theo quan điểm của nhóm, mặc dù Bộ luật tố tụng dân sự cũng như Nghị
quyết số 04/2005/NQ–HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự về chứng minh và chứng cứ đã có những quy định hướng dẫn về cách
xác định tập quán với tư cách là nguồn chứng cứ, thì việc xác định trên thực tế vẫn
gặp nhiều khó khăn mà tình huống trên là một ví dụ điển hình. Điều này cho thấy
rằng những vấn đề pháp lý và thực tiễn nói chung không phải lúc nào cũng kết hợp
hài hòa với nhau. Nhiều trường hợp giữa pháp luật và thực tiễn còn tồn tại những
khoảng cách không nhỏ và rất khó để có thể lấp đầy.
III. Một số hạn chế dưới góc độ pháp lý và thực tiễn về chứng cứ, nguồn chứng cứ,
phương tiện chứng minh và ý kiến hoàn thiện:
Thứ nhất, khái niệm “chứng cứ” quy định tại điều 81 Bộ luật tố tụng dân sự cần
được sửa đổi để trở nên hợp lý và khoa học hơn. Cụm từ “những gì có thật” còn
mang tính chung chung, khó xác định, đồng thời có thể gây nhầm lẫn trong việc
hiểu và áp dụng.
Do vậy, theo ý kiến của nhóm, cụm từ trên trong điều 81 cần được sửa đổi thành
“những tình tiết, sự kiện phản ánh sự thật khách quan”.
Thứ hai, tồn tại nhưng mâu thuẫn trong quy định về chứng cứ và nguồn chứng cứ
tại các điều 82 và 83 Bộ luật tố tụng dân sự. Cụ thể:
“Điều 82. Nguồn chứng cứ
Chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây:
1. Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được;
2. Các vật chứng;
3. Lời khai của đương sự;
4. Lời khai của người làm chứng;
…”
Điều 83. Xác định chứng cứ
1. Các tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản
sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
cung cấp xác nhận.
2. Các tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được xuất trình kèm
theo văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới
việc thu âm, thu hình đó.
3. Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc.
4. Lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ nếu
được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình theo
quy định tại khoản 2 Điều này hoặc khai bằng lời tại phiên toà.…”
Như vậy, điều 82 liệt kê ra các loại nguồn chứng cứ mà từ đó có thể rút ra chứng cứ,
đồng thời phân biệt rõ ràng “chứng cứ” và “nguồn chứng cứ”. Tuy nhiên, điều 83
lại quy định các loại nguồn đó được coi là chứng cứ trong các trường hợp cụ thể,
hay nói cách khác là đồng nhất khái niệm “chứng cứ” và “nguồn chứng cứ”. Sự
mâu thuẫn này dẫn đến những khó khăn trong việc thực hiện pháp luật.
Do vậy, nhóm đề xuất thêm từ “nguồn” liền trước các cụm từ “chứng cứ” trong điều
83 để khắc phục hạn chế này.
Thứ ba, pháp luật tố tụng dân sự chưa quy định cụ thể về thời hạn giao nộp chứng
cứ mà chỉ giới hạn trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự như trong điều
84 Bộ luật tố tụng dân sự. Điều này dẫn đến một hạn chế trong thực tiễn thực hiện
pháp luật, cụ thể là trường hợp đương sự cố ý giao nộp chậm chứng cứ gây chậm trễ
trong việc giải quyết hoặc bảo lưu chứng cứ đến khi Tòa án xét xử vụ việc mới giao
nộp khiến cho phía bên kia không có thời gian nghiên cứu, xem xét chứng cứ để
phản bác lại, dẫn đến việc kéo dài trình tự thủ tục tố tụng.
Theo đó, pháp luật cần phải quy định về thời hạn giao nộp chứng cứ và thời hạn đó
phải kết thúc trước một khoảng thời gian hợp lý (1 tuần, 10 ngày…) cho tới khi
phiên tòa diễn ra. Trong trường hợp chứng cứ được giao nộp ngoài thời hạn đó thì
chứng cứ chỉ được chấp nhận khi đương sự đưa ra lý do chính đáng. Ngoài ra, pháp
luật cần quy định chế tài đối với những hành vi cố ý chậm giao nộp chứng nhằm
mục đích cản trở, gây khó khăn trong việc giải quyết vụ việc.
Thứ tư, quy định về việc yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ tại mục 4
phần I Nghị quyết số 04/2005/NQ–HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định của
BLTTDS về chứng minh và chứng cứ còn có điểm chưa hợp lý. Cụ thể:
“4. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, nếu thấy chứng cứ mà đương sự giao
nộp chưa đủ cơ sở để giải quyết, thì Toà án yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung
chứng cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 85 của BLTTDS. Khi yêu cầu đương sự
giao nộp bổ sung chứng cứ, Toà án cần phải nêu cụ thể chứng cứ cần giao nộp bổ
sung.”
Theo đó, nếu tòa án yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ thì đồng thời Tòa
án phải có nghĩa vụ “nêu cụ thể chứng cứ cần giao nộp bổ sung”. Điều này có thể
gây khó khăn trong thực tiễn xét xử vụ việc dân sự, bởi lẽ các quan hệ pháp luật dân
sự diễn ra rất đa dạng, phong phú, trên nhiều lĩnh vực. Do đó nếu Tòa án phải nêu
cụ thể chứng cứ cần giao nộp bổ sung thì cần phải hội tụ kiến thức chuyên môn của
rất nhiều lĩnh vực khác nhau và yêu cầu này không phải bao giờ cũng được đáp ứng
trên thực tiễn. Bên cạnh đó, có những tranh chấp thuộc thẩm quyền của Tòa án
nhưng được cấu thành từ những sự kiện, tình tiết rất khó xác định mà bản thân các
đương sự cũng không thể giao nộp thêm chứng cứ, ví dụ như những tranh chấp mà
có tình tiết, sự kiện duy nhất xác định được là sự thỏa thuận bằng lời nói của hai
bên chủ thể, thì Tòa án gần như không thể chỉ ra được chứng cứ cụ thể cần bổ sung.
Do vậy, theo ý kiến của nhóm, cần sửa đổi cụm từ “cần phải” trong quy định trên
thành “cân nhắc về việc” thì sẽ hạn chế được những khó khăn nêu trên.
Thứ năm, căn cứ vào tình hình thực tiễn, còn tồn tại những hạn chế sau2:
+ điều kiện về kinh tế, xã hội của các địa phương ở vùng nông thôn, trung du, miền
núi, Tây Nguyên… còn chưa cao dẫn đến những khó khăn trong tiếp cận pháp luật
cũng như thực hiện pháp luật. Do vậy cần phải có các giải pháp đầu tư tài chính, cơ
sở vật chất, phát triển hệ thống bổ trợ tư pháp mạnh mẽ hơn, tuyên truyền giáo dục
pháp luật dân sự và tố tụng dân sự…
+ các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm cung cấp chứng cứ theo quy định của pháp
luật vẫn cố tình trì hoãn việc cung cấp chứng, không thiện chí hợp tác với các
đương sự, Tòa án trong việc giải quyết vụ việc. Do vậy, cần có các quy định cụ thể
hơn về trách nhiệm cung cấp chứng cứ của các cơ quan, tổ chức cùng với các chế
tài xác đáng để đảm bảo hiệu quả của việc giải quyết vụ việc dân sự.
+ còn tồn tại sự kém hiệu quả trong hoạt động ủy thác tư pháp của Tòa án, như việc
không thực hiện ủy thác hoặc không có thực hiện nhưng không nhận được kết
quả… khiến cho việc giải quyết vụ việc tiếp tục kéo dài.
…
KẾT LUẬN
Có thể nói rằng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về chứng minh và chứng
cứ đã có những thay đổi phù hợp hơn so với pháp lệnh tố tụng dân sự trước đây.
Tuy nhiên do thực tiễn về vấn đề này vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập, mặt
khác do trình độ nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của các chủ thể chưa cao
nên việc triển khai thực hiện các quy định này trên thực tế gặp nhiều khó khăn. Do
vậy, cần tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự
về chứng cứ và chứng minh để pháp luật thật sự đi vào cuộc sống, áp dụng đạt hiệu
quả cao, bảo vệ đích đáng quyền và lợi ích của các chủ thể.