Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Báo cáo "Chế định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và vấn đề áp dụng chế định này trong thực tiễn " potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.97 KB, 7 trang )



nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 31





TS. Phạm Hồng Hải *
uật hình sự là bộ phận hợp thành hệ
thống pháp luật nớc ta, có chức năng
điều chỉnh các quan hệ x hội giữa một bên là
ngời phạm tội và bên kia là Nhà nớc. Để
thực hiện chức năng điều chỉnh đó, luật hình
sự quy định tội phạm và hình phạt và kèm
theo chúng là các chế định khác trong đó có
chế định trách nhiệm hình sự. Trách nhiệm
hình sự là dạng trách nhiệm pháp lí do ngời
phạm tội phải chịu trớc Nhà nớc. Nhà nớc
là chủ thể duy nhất có quyền thực hiện việc
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ngời
phạm tội thông qua các biện pháp cỡng chế
nh khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và các
biện pháp t pháp hình sự khác đợc áp dụng
đối với ngời phạm tội. áp dụng các biện
pháp nêu trên với ngời phạm tội là thể hiện
tính nghiêm khắc của luật hình sự so với các
ngành luật khác. Nó phù hợp với một trong
những nguyên tắc rất quan trọng của luật hình
sự nớc ta là không một hành vi phạm tội nào


không bị phát hiện và không một ngời phạm
tội nào không bị trừng trị.
Song song với tính nghiêm khắc, luật
hình sự còn có tính nhân đạo cao thể hiện
thông qua nhiều quy định và chế định khác
nhau trong đó có chế định thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình
sự.
Về nguyên tắc, một ngời đ thực hiện
hành vi nguy hiểm cho x hội đợc coi là tội
phạm thì ngời đó phải chịu trách nhiệm hình
sự. Tuy nhiên, trong thực tiễn đấu tranh với
tội phạm thì thấy rằng trong một số trờng
hợp mặc dù hành vi phạm tội đ xảy ra, ngời
thực hiện hành vi phạm tội còn sống và hoàn
toàn có đủ khả năng chịu các biện pháp khác
nhau của trách nhiệm hình sự nhng do có
những điều kiện nhất định, Nhà nớc thấy
cần miễn trách nhiệm hình sự cho họ hoặc
không cần truy cứu trách hiệm hình sự đối
với họ. Chính vì vậy, trong Bộ luật hình sự
(BLHS) năm 1985 cũng nh BLHS năm 1999
đ có hai điều luật quy định về thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm
hình sự.
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là
khoảng thời gian (thời hạn) do luật định mà
khi đ qua thời gian đó thì không đợc truy
cứu trách nhiệm hình sự ngời phạm tội nữa.
Tính nhân đạo của chế định thời hiệu truy cứu

trách nhiệm hình sự thể hiện ở chỗ lẽ ra ngời
phạm tội phải bị Nhà nớc truy cứu trách
nhiệm hình sự nhng vì những lí do chủ quan
nào đó từ phía các cơ quan bảo vệ pháp luật
mà tội phạm, ngời phạm tội đ không bị
phát hiện và khi tội phạm, ngời phạm tội bị
phát hiện thì đ qua thời hạn coi là thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm
đó. Quy định thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự xuất phát từ quan niệm cho rằng, vì
những nguyên nhân, mục đích, động cơ nào
L

* Viện nghiên cứu nhà nớc và pháp luật


nghiên cứu - trao đổi
32 - Tạp chí luật học

đó mà một ngời đ thực hiện hành vi phạm
tội nhng trong khoảng thời gian nhất định
sau khi đ phạm tội, họ không phạm tội mới,
đ ăn năn hối cải thậm chí trở thành ngời
tốt, có ích, có uy tín trong x hội. Đối với
những ngời này không cần bắt họ phải chịu
trách nhiệm hình sự trớc Nhà nớc bởi lẽ
chính bản thân họ đ tự giáo dục và cải tạo
tốt.
Chế định thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự chỉ đợc áp dụng đối với những tội

phạm và ngời phạm tội khi chúng không bị
phát hiện bởi các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Trong trờng hợp ngợc lại, khi tội phạm đ
bị phát hiện, ngời phạm tội đ có lệnh truy
n nhng vẫn cố tình trốn tránh thì thời gian
trốn tránh không đợc tính vào thời hiệu mà
nó chỉ đợc tính khi ngời phạm tội ra tự thú
hoặc bị bắt giữ.
Trong luật hình sự nớc ta, chế định thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự lần đầu tiên
đợc thể chế hoá trong BLHS năm 1985.
Trớc khi pháp điển hoá luật hình sự, việc
quyết định áp dụng hay không áp dụng thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thuộc thẩm
quyền của VKSNDTC (VKSNDTC) và
TANDTC (TANDTC). Chính vì vậy mà t
tởng này vẫn tiếp tục đợc thể hiện trong
quy định về thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự của Bộ luật hình sự năm 1985. Điều
45 năm BLHS 1985 quy định:
"1. Không truy cứu trách nhiệm hình sự
nếu tính từ ngày tội phạm đợc thực hiện đ
qua những thời hạn sau đây:
a) Năm năm đối với các tội phạm ít
nghiêm trọng mà Bộ luật quy định hình phạt
từ hai năm tù trở xuống hoặc hình phạt khác
nhẹ hơn;
b) Mời năm đối với các tội phạm ít
nghiêm trọng mà Bộ luật quy định hình phạt
tù trên hai năm;

c) Mời lăm năm đối với các tội phạm
nghiêm trọng.
Nếu trong thời hạn nói trên ngời phạm
tội lại phạm tội mới mà Bộ luật quy định hình
phạt từ một năm tù trở lên thì thời gian đ
qua không đợc tính và thời hiệu đối với tội
cũ đợc tính lại kể từ ngày phạm tội mới.
Nếu trong thời hạn nói trên, ngời phạm
tội cố tình trốn tránh và đ có lệnh truy n
thì thời gian trốn tránh không đợc tính; thời
hiệu tính lại kể từ khi ngời đó ra tự thú hoặc
bị bắt giữ.
Đối với trờng hợp nói ở điểm c khoản 1
Điều này nếu có lí do đặc biệt thì VKSNDTC
vẫn có thể truy cứu trách nhiệm hình sự và
TANDTC có thể quyết định không áp dụng
thời hiệu".
Trong thời gian qua, cùng với sự phát
triển của luật hình sự nói chung và chế định
phân loại tội phạm nói riêng, chế định về thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đ có
những thay đổi lớn. Điều 23 BLHS năm 1999
quy định:
1. "Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình
sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi
hết thời hạn đó thì ngời phạm tội không bị
truy cứu trách nhiệm hình sự.
2. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
đợc quy định nh sau:
a) Năm năm đối với các tội phạm ít

nghiêm trọng;
b) Mời năm đối với các tội phạm
nghiêm trọng;


nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 33

c) Mời lăm năm đối với các tội phạm
rất nghiêm trọng;
d) Hai mơi năm đối với các tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng.
3. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
đợc tính từ ngày tội phạm đợc thực hiện.
Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 điều
này ngời phạm tội lại phạm tội mới mà Bộ
luật quy định mức cao nhất của khung hình
phạt đối với tội ấy trên một năm tù thì thời
gian đ qua không đợc tính và thời hiệu đối
với tội cũ đợc tính lại kể từ ngày phạm tội
mới.
Nếu trong thời hạn nói trên, ngời phạm
tội cố tình lẩn tránh và đ có lệnh truy n thì
thời gian trốn tránh không đợc tính và thời
hiệu tính lại kể từ khi ngời đó ra tự thú hoặc
bị bắt giữ".
Nh vậy, thay vì có ba loại thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự (năm năm, mời
năm và mời lăm năm) theo nh quy định của
BLHS năm 1985 thì nay theo quy định của

BLHS năm 1999 có bốn loại thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự phù hợp với bốn loại
tội phạm và thời hiệu dài nhất lên tới hai
mơi năm. Trớc đây, theo quy định của
BLHS năm 1985 thì việc không áp dụng thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thuộc thẩm
quyền của VKSNDTC và TANDTC và các tội
phạm có thể không đợc áp dụng thời hiệu
bao gồm tất cả các loại tội phạm có mức hình
phạt cao nhất quy định trong luật từ trên năm
năm tù trở lên, nay theo quy định của BLHS
năm 1999 không áp dụng thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự đợc coi là chế định độc
lập của luật hình sự và đợc quy định tại một
điều luật trong Bộ luật (Điều 24). Theo quy
định của Điều này thì chỉ các tội phạm quy
định tại Chơng XI và Chơng XXIV của
BLHS (các tội xâm phạm an ninh quốc gia và
các tội phá hoại hoà bình, chống loài ngời và
tội phạm chiến tranh) mới không áp dụng thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự còn các tội
phạm nằm ngoài hai chơng nói trên mặc dù
là rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng
cũng vẫn đợc áp dụng chế định thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự. So với quy định
về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy
định tại Điều 45 BLHS năm 1985 thì quy
định về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình
sự và không áp dụng thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự tại Điều 23 và 24 BLHS năm

1999 vừa có nhiều điểm mới về nội dung lại
vừa có sự tiến bộ về kĩ thuật lập pháp. Điều
này thể hiện rõ nét chính sách hình sự của
Đảng và Nhà nớc ta trong giai đoạn hiện nay
là vừa kiên quyết, triệt để, chủ động trấn áp
tội phạm vừa khoan hồng, nhân đạo đối với
ngời phạm tội có biểu hiện ăn năn hối cải,
mong muốn cải tạo trở thành ngời tốt, ngời
có ích cho x hội.
Khi một ngời thực hiện hành vi nguy
hiểm cho x hội bị coi là tội phạm nhng
không bị truy cứu trách nhiệm hình sự không
có nghĩa là cho tới thời điểm ngời phạm tội
bị phát hiện hành vi của họ không đợc coi là
tội phạm nữa. Phải khẳng định rằng hành vi
đó vẫn đợc luật hình sự coi là tội phạm (tội
phạm cha đợc đại xá) nhng vì khoảng thời
gian đợc coi là thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự đ qua đi, trong khoảng thời
gian ấy ngời phạm tội đ không phạm tội
mới và điều này đ chứng minh rằng đối với
tội phạm đó, ngời đó không cần thiết phải
đa ra truy cứu thông qua các biện pháp
cỡng chế tố tụng nh khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử nữa. Trong tố tụng hình sự, hết thời


nghiên cứu - trao đổi
34 - Tạp chí luật học


hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là một
trong những căn cứ không đợc khởi tố vụ án
hình sự. Nếu một ngời bị khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử nhng tới thời điểm phát hiện
thấy thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
đ hết thì phải đình chỉ điều tra (nếu tố tụng
hình sự đang ở giai đoạn điều tra) hoặc đình
chỉ vụ án (nếu tố tụng hình sự đang ở trong
giai đoạn truy tố hoặc xét xử). Hết thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự còn là căn cứ để
cơ quan tiến hành tố tụng, ngời tiến hành tố
tụng có thẩm quyền không đợc ra quyết định
kháng nghị tái thẩm theo hớng tăng nặng
đối với ngời phạm tội.
Hiện nay trong luật hình sự cũng nh
Luật tố tụng hình sự của nớc ta cha có điều
luật nào quy định về trách nhiệm hoặc hậu
quả pháp lí của ngời đ phạm tội nhng
không bị truy cứu trách nhiệm hình sự bởi
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đ hết.
Lẽ đơng nhiên, ai cũng hiểu là trong trờng
hợp này họ không phải chịu trách nhiệm hình
sự, thế nhng vấn đề đặt ra là việc họ không
bị truy cứu trách nhiệm hình sự có giải phóng
họ khỏi các trách nhiệm khác không, thí dụ
trách nhiệm bồi thờng thiệt hại ngoài hợp
đồng, trách nhiệm công khai xin lỗi ngời bị
hại hoặc trách nhiệm khôi phục lại những
quan hệ x hội mà hành vi phạm tội của họ
trớc đây đ xâm hại? Thí dụ, một ngời

phạm tội giết ngời, hai mơi năm sau thời
hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đ hết và
ngời này không bị truy cứu trách nhiệm hình
sự nữa thế nhng vấn đề đặt ra là ngời này
có trách nhiệm bồi thờng thiệt hại ngoài hợp
đồng theo quy định trong các Điều 614, 615,
616 Bộ luật dân sự? Thời hiệu khởi kiện đòi
bồi thờng trong trờng hợp này đợc quy
định ra sao? Ngời bị hại (đại diện ngời bị
hại) hoặc những ngời khác còn có quyền
khiếu kiện ngời này để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình (thí dụ, đại diện của
ngời bị hại yêu cầu thanh toán tiền thuê
thám tử điều tra trong hai mơi năm; nếu vụ
án có ngời bị xét xử oan thì ngời phạm tội
có trách nhiệm gì trong việc khôi phục lại
quyền và lợi ích hợp pháp của ngời bị oan,
cơ quan và ngời tiến hành tố tụng có trách
nhiệm, nghĩa vụ gì với ngời bị oan cũng nh
gia đình ngời bị hại). Tất cả những câu hỏi
trên đây hiện còn cha có lời giải đáp.
Qua nghiên cứu thực tiễn điều tra, truy tố,
xét xử các vụ án hình sự nói chung và áp
dụng chế định thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự nói riêng trong thời gian qua ở nớc
ta, chúng tôi cho rằng luật hình sự, luật tố
tụng hình sự và luật tố tụng dân sự ở nớc ta
cần có các quy định giải quyết các vấn đề đặt
ra trên đây liên quan tới chế định thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự theo hớng một

ngời đ phạm tội nhng không bị truy cứu
trách nhiệm hình sự bởi thời hiệu đ hết vẫn
phải chịu các loại trách nhiệm pháp lí khác
nếu có. Xuất phát từ thực tiễn là những vấn đề
dân sự thờng đợc giải quyết ngay trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự và trách nhiệm
hình sự là loại trách nhiệm pháp lí nặng nề
nhất nên có ngời cho rằng khi hết thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự, Nhà nớc đ
"giải phóng" ngời phạm tội khỏi trách nhiệm
hình sự thì cũng có nghĩa là "giải phóng" họ
khỏi các trách nhiệm pháp lí khác. Chúng tôi
không đồng tình với quan niệm trên đây.
Nh tất cả mọi ngời đều thừa nhận, quan
hệ pháp luật hình sự là loại quan hệ rất hẹp
giữa hai chủ thể: Một bên là ngời phạm tội
và bên kia là Nhà nớc. Trách nhiệm hình sự
là trách nhiệm của ngời phạm tội phải chịu


nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học - 35

trớc Nhà nớc. Khi hành vi phạm tội đợc
thực hiện, nó không chỉ làm phát sinh trách
nhiệm hình sự của ngời phạm tội trớc Nhà
nớc mà còn làm phát sinh nhiều loại trách
nhiệm của ngời này trớc các chủ thể khác
nhau nh công dân, tổ chức, tập thể Khi
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đ hết,

nếu Nhà nớc (mà cụ thể trong trờng hợp
này là pháp luật) giải phóng ngời phạm tội
khỏi trách nhiệm hình sự và đồng thời giải
phóng họ khỏi các trách nhiệm khác là vi
phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, tổ chức - đối tợng cần đợc Nhà nớc
và pháp luật bảo vệ. Vì những lẽ trên, chúng
tôi cho rằng, việc luật hình sự có những quy
định thể hiện sự nhân đạo đối với ngời phạm
tội là rất cần thiết, thế nhng về nguyên tắc,
các quy định đó không thể làm xấu đi tình
trạng của ngời khác, xâm phạm tới quyền và
lợi ích hợp pháp của họ. Một ngời không bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm
tội đ thực hiện bởi lí do thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự đ hết nh trên đ nêu
không thể đợc coi là ngời không phạm tội
bởi thực tế họ đ phạm tội. Điểm khác của
ngời này so với những ngời phạm tội khác
là ở chỗ ngời đó không bị toà án tuyên bản
án kết tội và vì thế theo nguyên tắc suy đoán
vô tội ngời này không bị coi là ngời có tội.
ở đây, trớc hết về hình thức, tồn tại
mâu thuẫn: Ngời phạm tội nhng không bị
coi là ngời có tội. Khi đ không bị coi là
ngời có tội bởi không bị tuyên bằng bản án
buộc tội nên vấn đề án tích cũng không đặt ra
đối với ngời đó. Nh vậy, nếu so sánh những
trờng hợp phạm tội tơng tự thì ngời lẩn
trốn pháp luật lại luôn có lợi thế hơn ngời

không lẩn trốn. Thí dụ, tháng bảy năm 1981
A phạm tội giết ngời theo khoản 1 Điều 101
BLHS năm 1985 và cùng thời gian đó B cũng
phạm tội giết ngời tơng tự. Năm năm sau
khi phạm tội, B ra tự thú và bị xét xử với mức
án chung thân kèm theo hình phạt bổ sung là
quản chế ba năm và bồi thờng thiệt hại.
Do đợc giảm thời hạn chấp hành hình
phạt, tháng bảy năm 2001 B đợc trả tự do.
Theo quy định của điểm c khoản 1 Điều 65
BLHS năm 1999 thì 13 năm sau (tức tới năm
2014) B mới có thể đợc xoá án tích.
Trong khi đó, khi A không bị phát hiện
thì theo quy định về thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự trong BLHS năm1999, đến
tháng 7/2001 thời hiệu đ hết và A ung dung
nh ngời không có tội, không mang án tích
và theo các quy định hiện hành thì A có tất cả
các quyền lợi nh công dân bình thờng. Nh
vậy, nếu kèm theo chế định về thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự không có các quy
định khác phù hợp thì trong thực tế áp dụng
pháp luật sẽ nảy sinh nhiều điểm bất hợp lí, vi
phạm nguyên tắc công bằng và đôi khi tạo ra
kẽ hở pháp luật cho những kẻ xấu lách luật.
Điều 139 BLTTHS quy định hai căn cứ để
cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều
tra là có một trong những căn cứ không đợc
khởi tố vụ án hình sự (trong đó có tình tiết
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đ hết)

và đ hết thời hạn điều tra mà không chứng
minh đợc bị can đ thực hiện tội phạm. ở
đây, chúng tôi không bàn tới căn cứ thứ hai
bởi không liên quan tới vấn đề đang đợc
xem xét. Qua nghiên cứu, chúng tôi cho rằng
luật tố tụng hình sự quy định hết thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự là một trong
những căn cứ để đình chỉ điều tra là cha thể
hiện đợc tính kiên quyết trong đấu tranh với


nghiên cứu - trao đổi
36 - Tạp chí luật học

tội phạm. Hoạt động điều tra, phát hiện tội
phạm không chỉ có mục đích và ý nghĩa về tố
tụng hình sự là giải quyết trách nhiệm hình sự
của ngời phạm tội mà còn có mục đích xác
định các loại trách nhiệm khác mà ngời
phạm tội không đợc "giải phóng" thậm chí
cả khi thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
đ hết. Ngoài ra, việc cơ quan điều tra có
thẩm quyền (điều tra trong tố tụng và điều tra
ngoài tố tụng) kiên quyết khám phá tội phạm
và ngời phạm tội kể cả khi thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự đ hết có ý nghĩa x
hội rất lớn trong việc làm giảm tỉ lệ tội phạm
ẩn, tăng tỉ lệ tội phạm rõ, khẳng định nguyên
tắc mọi tội phạm đều phải bị phát hiện, mọi
ngời phạm tội đều bị xử lí.

Từ sự phân tích trên đây, chúng tôi cho
rằng có thể coi hết thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự nh một căn cứ không khởi tố
vụ án hình sự, khởi tố bị can nhng không thể
coi đây là căn cứ để không tiến hành điều tra
hoặc căn cứ đình chỉ điều tra nh quy định
trong pháp luật tố tụng hình sự hiện hành./.

Góp ý cho Dự thảo Tiếp theo trang 7
Chủ tịch nớc, Thủ tớng Chính phủ, bộ
trởng, chánh án Toà án nhân dân tối cao,
viện trởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Nh vậy thì có thể ngăn chặn và giảm bớt sự
tham quyền, phát huy cao độ năng lực của
cán bộ trong hoạt động của Nhà nớc, góp
phần nâng cao hiệu quả hoạt động và mức độ
hoàn thiện của bộ máy nhà nớc.
Trong tơng lai, để bảo đảm cho mỗi
ngời có đủ thời gian, sức lực và trí tuệ để
hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình thì Hiến
pháp sửa đổi nên quy định rõ là không ai có
thể vừa là đại biểu Quốc hội, vừa là bộ trởng
hoặc thẩm phán cùng một lúc. Nếu quy định
nh vậy thì Thủ tớng, các thành viên khác
của Chính phủ cũng nh các thẩm phán đều
không phải làm thêm nhiệm vụ đại biểu Quốc
hội giúp họ tránh đợc tình trạng quá tải vì
công việc và trách nhiệm, vì thế, họ sẽ có đủ
điều kiện để thực hiện tốt thẩm quyền của
mình. Nhờ đó có thể tránh đợc tình trạng

Chính phủ phải có một bộ máy đồ sộ để thực
hiện các nhiệm vụ không phải chỉ của Chính
phủ mà của cả Quốc hội bởi lẽ trên 2/3 số
thành viên của Chính phủ và ngời đứng đầu
các cơ quan Chính phủ là đại biểu Quốc
hội.
(2)
Do vậy vì phải bận quá nhiều việc
của Quốc hội và Chính phủ không có đủ điều
kiện nhiệm vụ Thay mặt Chính phủ báo cáo
công tác trớc Quốc hội, Uỷ ban thờng vụ
Quốc hội, thông thờng lại uỷ quyền cho thứ
trởng báo cáo công tác trớc Uỷ ban thờng
vụ Quốc hội.
(3)
Quy định nh vậy thì mới có
thể thực hiện đợc sự phân công, phân nhiệm
rõ ràng giữa các cơ quan nhà nớc, bảo đảm
sự độc lập và hiệu quả hoạt động của chúng.
Trên đây là một số ý kiến đóng góp với
mong muốn làm cho Hiến pháp của nớc ta
ngày càng hoàn thiện hơn./.

(2).Xem: Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và hoạt
động của bộ máy Nhà nớc Cộng hoà x hội chủ nghĩa
Việt Nam, TS. Lê Minh Thông (Chủ biên). Nxb.
Khoa học x hội - Hà Nội 2001, tr. 302.
(3).Xem: Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và hoạt
động của bộ máy Nhà nớc Cộng hoà x hội chủ nghĩa
Việt Nam, Sđd, tr.303.



nghiªn cøu - trao ®æi
T¹p chÝ luËt häc - 37



×