Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Bài tập nhóm Xây dựng văn bản pháp luật: Thẩm định văn bản pháp quy phạm pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (55.76 KB, 9 trang )

Thẩm định văn bản quy phạm pháp luâ ât - bài tập nhóm xây dựng văn
bản pháp luật
A. MỞ ĐẦU
Thẩm định văn bản quy phạm pháp luật là một giai đoạn trong quy
trình xây dựng văn bản quy phạm pháp. Như vậy, để ban hành
một văn bản quy phạm pháp luật thì cần phải có đầy đủ các khâu
đoạn trong đó có việc thẩm định. Thực chất của công tác thẩm
định là khắc phục những hạn chế, bất cập của việc xây dựng và
ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Để hiểu hơn về hoạt động
thẩm định dự thảo văn bản pháp luật và ý nghĩa của hoạt động
này nhóm chúng em chọn đề tài: “Ý nghĩa của hoạt động thẩm
định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật và giá trị pháp lý của
Báo cáo thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Cho ví dụ
minh họa” .
B. NỘI DUNG
I. Thẩm định dự thảo văn bản pháp luật và ý nghĩa của hoạt động
thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
1. Khái niệm thẩm định dự thảo văn bản pháp luật.
Hiện nay thuật ngữ "thẩm định" có nhiều cách hiểu khác nhau. Với
cách hiểu thông thường, Từ điển Tiếng Việt thông dụng giải thích
thẩm định là “xem xét để xác định về chất lượng”. Dưới góc độ
pháp lý, theo Từ điển Luật học do Viện khoa học pháp lý Bộ Tư
pháp biên soạn, đã đưa ra cách hiểu:


“Thẩm định có ý nghĩa là việc xem xét, đánh giá và đưa ra kết luận
mang tính pháp lý bằng văn bản về một vấn đề nào đó. Hoạt động
này do tổ chức hoặc cá nhân có chuyên môn, nghiệp vụ thực
hiện ... Việc thẩm định có thể tiến hành với nhiều đối tượng khác
nhau như thẩm định dự án, thẩm định báo cáo, thẩm định hồ sơ,
thẩm định thiết kế, thẩm định đồ án quy hoạch, thẩm định dự thảo


văn bản quy phạm pháp luật ...”.
Như vậy, thẩm định trước hết là hoạt động của một chủ thể được
tiến hành nhằm kiểm tra, đánh giá văn bản theo những tiêu chí
nhất định. Tính đúng đắn của văn bản có thể được nhìn nhận từ
nhiều góc độ khác nhau, tùy thuộc loại, tính chất của văn bản. Xét
về bản chất, thẩm định là việc kiểm tra trước nhằm phát hiện
những vi phạm, khiếm khuyết, hạn chế và dự báo, phòng ngừa
những sai trái có thể có trong dự thảo.
Theo Điều 1, Quy chế thẩm định dự án, dự thảo văn bản quy phạm
pháp luật ban hành kèm theo Quyết định số 05/2007/QĐ-TTG ngày
10/1/2007 của Thủ tướng Chính phủ: "Thẩm định dự án, dự thảo
văn bản quy phạm pháp luật là hoạt động xem xét, đánh giá về
nội dung và hình thức của dự án, dự thảo nhằm đảm bảo tính hợp
hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ của dự án, dự thảo trong
hệ thống pháp luật".
Như vậy, thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật là hoạt
động xem xét, đánh giá về nội dung, hình thức, kỹ thuật soạn thảo
của dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, theo nội dung, trình tự,
thủ tục do pháp luật quy định, nhằm đảm bảo tính hợp hiến, tính
hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ của dự thảo trong hệ thống
pháp luật. Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật là hoạt


động thuộc quy trình xây dựng văn bản. Hoạt động này do cơ quan
chuyên môn về tư pháp có thẩm quyền tiến hành, nhằm đánh giá
một cách toàn diện, khách quan và chính xác dự thảo văn bản quy
phạm pháp luật trước khi trình cơ quan có thẩm quyền ban hành,
phê chuẩn.
2. Ý nghĩa của hoạt động thẩm định dự thảo văn bản quy phạm
pháp luật.

Hoạt động thẩm định có vai trò rất quan trọng trong quá trình xây
dựng và ban hành văn bản.
Trước hết, hoạt động thẩm định là giải pháp nâng cao chất lượng
của văn bản pháp luật, đóng vai trò đi trước, là phương thức mang
tính chất phòng ngừa và đạt hiệu quả rất cao. Hoạt động thẩm
định góp phần hoàn thiện pháp luật trong việc bảo đảm tính hợp
hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ của văn bản trước khi
ban hành.
Ý kiến thẩm định nhằm đưa ra những đánh giá, tư vấn xây dựng
các quy phạm pháp luật phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội,
quản lý nhà nước, với hệ thống pháp luật. Khi một văn bản quy
phạm pháp luật được thẩm định và ý kiến thẩm định có giá trị thì
sẽ tạo ra một văn bản có hiệu quả, góp phần thúc đẩy sự phát
triển xã hội và quản lý nhà nước. Ngược lại, nếu chất lượng của
Báo cáo thẩm định không đưa ra được những đánh giá chuẩn
mực, xác đáng thì thậm chí sẽ gây thiệt hại lớn cho cơ quan quản
lý cũng như đối tượng điều chỉnh.


Thẩm định giúp chủ thể ban hành sẽ dễ dàng tiếp cận tính hợp
hiến, hợp pháp, khả thi của dự thảo văn bản quy phạm pháp luật
một cách nhanh nhất có trọng tâm đúng pháp luật. Với tư cách là
những đánh giá, xem xét rất cơ bản trung thực khách quan về dự
thảo văn bản quy phạm pháp luật và đưa ra nhận xét nên thẩm
định còn mang tính chất định hướng chỉ dẫn và cung cấp các
thông tin dưới góc độ pháp lý cần thiết cho chủ thể ban hành dự
thảo cũng như chủ thể soạn thảo. Trong qúa trình thẩm định cơ
quan thẩm định có thể phát hiện được những bất hợp lý, bất hợp
pháp mà cơ quan soạn thảo đã vô tình hoặc cố ý tạo ra. Hơn nữa,
trong trường hợp có nhiểu quan điểm trái chiều nhau về cùng một

vấn đề, kết quả thẩm định là cơ sở để xem xét ban hành văn bản.
Thẩm định còn tạo ra cơ chế phối hợp và giám sát lẫn nhau giữa
các cơ quan tham gia xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp
luật. Để Báo cáo thẩm định có chất lượng, cơ quan thẩm định,
soạn thảo văn bản, cũng như các tổ chức cá nhân có liên quan
phải phối hợp chặt chẽ với nhau, tạo điều kiện cho nhau thực hiện
tốt chức năng, nhiệm vụ.
Trên thực tế nếu Báo cáo thẩm định thực sự khách quan có căn cứ
khoa học hợp lý văn bản được ban hành sẽ có hiệu lực và hiệu quả
cao. Bên cạnh đó thẩm định còn là cơ hội để trao đổi thông tin,
nâng cao trình độ cho cán bộ công chức. Có thể người có kiến thức
luật nhưng lại thiếu kiến thức chuyên môn về đối tượng điều chỉnh
của dự thảo văn bản quy phạm pháp luật và ngược lại. Qua đó, có
thể nâng cao chất lượng xây dựng văn bản.
II. Giá trị pháp lý của Báo cáo thẩm định dự thảo văn bản quy
phạm pháp luật.


Mặc dù thẩm định được coi là hoạt động quan trọng trong việc xây
dựng văn bản pháp luật, song Báo cáo thẩm định của cơ quan tư
pháp địa phương chỉ được coi là tài liệu có tính chất tham mưu,
không có tính chất bắt buộc cơ quan soạn thảo, cơ quan ban hành
phải thực hiện.
Báo cáo thẩm định là văn bản giúp Hội đồng thẩm định ghi chép
và tổng kết lại kết quả của quá trình thẩm định. Báo cáo thẩm định
được xây dựng khoa học thì mới phản ánh được chính xác và đầy
đủ tất cả những vấn đề của hoạt động thẩm định. Nếu hoạt động
thẩm định tốt mà báo cáo thẩm định không tốt thì nhiệm vụ thẩm
định để xây dựng được những văn bản quy phạm pháp luật cũng
không đạt được kết quả cao.

Giá trị pháp lý của Báo cáo thẩm định được pháp luật quy định
"sau khi nhận được báo cáo thẩm định, cơ quan chủ trì soạn thảo
có trách nhiệm nghiên cứu tiếp thu ý kiến của cơ quan thẩm định".
Đối với cơ quan ban hành, báo cáo thẩm định là một tài liệu trong
hồ sơ trình để ban hành văn bản và chỉ xem xét khi có văn bản
thẩm định của cơ quan tư pháp. Dưới góc độ pháp lý quy định như
vậy rất chặt chẽ, bảo đảm phát huy tối đa giá trị tham mưu, tư vấn
của hoạt động thẩm định trong quá trình ban hành văn bản quy
phạm pháp luật.
Giá trị pháp lý của Báo cáo thẩm định còn được thể hiện thông qua
chất lượng của Báo cáo thẩm định. Chất lượng của Báo cáo thẩm
định phải thể hiện được cả giá trị tham mưu, tư vấn cả về mặt
pháp lý và giá trị thực tế, nếu không hoạt động thẩm định chỉ được
coi là hoạt động mang tính hình thức, làm cho đúng thủ tục chứ


không có vị trí quan trọng. Trong khi đó trong luật ban hành văn
bản quy phạm pháp luật quy định tính khả thi là một tiêu chí
không bắt buộc thẩm định, làm giảm giá trị tham mưu về khả
năng thực thi đối với báo cáo thẩm định.
III.Ví dụ về hoạt động thẩm định và báo cáo thẩm định dự thảo xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật.
1. Ví dụ về hoạt động thẩm định dự thảo sửa đổi, bổ sung Bộ luật
lao động.
Ví dụ về hoạt động thẩm định dự thảo sửa đổi, bổ sung Bộ luật lao
động. Dự thảo BLLĐ mới sẽ gồm 17 chương với 276 điều (BLLĐ
hiện hành có 198 điều), tại mỗi chương, dự thảo quy định từng vấn
đề thành các mục riêng rất cụ thể, chi tiết, trong đó có riêng một
điều (Điều 5) giải thích một số thuật ngữ nhằm làm rõ thêm những
vấn đề trước đây đang còn nhiều cách hiểu khác nhau.

Dự thảo sửa đổi, bổ sung Bộ luật lao động lao động do Bộ tư pháp
tiến hành.
Ngày 06 tháng 7 năm 2011, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành
Quyết định số 1165/QĐ-BTP về việc thành lập Hội đồng thẩm định
dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi). Hội đồng thẩm định bao gồm 11
thành viên là đại diện của các Bộ, ngành, tổ chức có liên quan, các
chuyên gia, nhà khoa học và đại diện các đơn vị chức năng của Bộ
Tư pháp do đồng chí Đinh Trung Tụng, Thứ trưởng Bộ Tư pháp làm
Chủ tịch Hội đồng. Ngày 08 tháng 7 năm 2011, Hội đồng đã tiến
hành thẩm định dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi).


Hội đồng thẩm định đã tiến hành thẩm định và tập trung vào các
vấn đề sau: sự cần thiết ban hành Bộ luật; phạm vi điều chỉnh và
đối tượng áp dụng của dự án Bộ luật; sự phù hợp của dự án Bộ luật
với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; tính hợp hiến, hợp
pháp, tính thống nhất, tính đồng bộ và tính khả thi của dự án Bộ
luật; ngôn ngữ, kỹ thuật soạn thảo; những vấn đề còn có ý kiến
khác nhau và những vấn đề khác có liên quan đến dự án Bộ luật.
2. Báo cáo thẩm định dự thảo sửa đổi, bổ sung Bộ luật lao động.
Trên cơ sở hoạt động thẩm định dự thảo Bộ luật lao động sửa đổi
được tiến hành bắt đầu từ ngày 08/07/2011 thì ngày 11/ 7/ 2011
Hội đồng thẩm định đã trình Báo cáo số 111/ BC-HĐTĐ về việc
thẩm định dự án Bộ luật lao động sửa đổi.
Báo gồm một số nội dung sau: I. Về sự cần thiết ban hành Bộ luật
Lao động; II. Về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụngIII. Về sự
phù hợp của nội dung dự án Bộ luật với đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng; tính hợp hiến, hợp pháp và thống nhất của
dự án Bộ luật với hệ thống pháp luật và tính tương thích với điều
ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

là thành viên; IV. Về tính khả khi của dự án Bộ luật; V. Về các vấn
có ý kiến còn khác nhau; VI. Về nội dung của dự án Bộ luật; IX.
Nhận xét chung; VII. Về hồ sơ và trình tự soạn thảo
3.Ý nghĩa của hoạt động dự thảo Bộ luật lao động và ý nghĩa của
báo cáo thẩm định.
Hoạt động thẩm định đã xem xét, đánh giá dự thảo Bộ luật lao
động sửa đổi trên nhiều mặt khác nhau, việc thẩm định sẽ giúp tìm


ra những điểm hợp lí và không hợp lí, những vấn đề còn nhiều ý
kiến tranh luận, phương hướng giải quyết. Qua đó sẽ tư vấn giúp
những nhà lập pháp xây dựng được một Bộ luật lao động tiến bộ,
chặt chẽ và khoa học, khắc phục được những hạn chế của Bộ luật
lao động hiện hành, đồng thời theo kịp và dự liệu được các tình
huống sẽ xảy ra trong thực tế liên quan đến những vấn đề mà Bộ
luật lao động điều chỉnh. Cũng từ đó sẽ tạo ra hành lang pháp lí
khoa học, đúng đắn, thúc đẩy đất nước phát triển. Mặt khác hoạt
động thẩm định còn tạo ra cơ chế giám sát giữa các cơ quan xây
dựng dự thảo và cơ quan thanh tra, giám sát, các cơ quan có liên
quan....
Báo cáo thẩm định của hội đồng thẩm định đã ghi chép, tổng kết
đầy đủ, chính xác hoạt động thẩm định dự thảo văn Bộ luật lao
động sửa đổi.
Báo cáo thẩm định cũng là cơ sở để trình lên Chính phủ, Bộ lao
động thương binh và xã hội về hoạt động thẩm định của Hội đồng
thẩm định, qua đó góp phần xây dựng được Bộ luật lao động mới
tốt hơn.
C. KẾT LUẬN
Thẩm định là hoạt dộng đánh giá, góp phần hoàn thiện nội dung
cũng như hình thức dự thảo văn bản pháp luật. Chất lượng thẩm

định dự thảo văn bản pháp luật có ý nghĩa đối với công tác xây
dựng văn bản pháp luật, đặc biệt là chất lượng xây dựng văn bản.
Ngược lại, nếu thẩm định không chính xác, hời hợt có thể làm mất
giá trị, ý nghĩa của báo cáo thẩm định. Tuy nhiên, trong công tác
thẩm định dự thảo văn bản pháp luật hiện nay còn tồn tại những


hạnchế nhất định như: nội dung thẩm định còn nặng về hình thức,
chất lượng thẩm định đôi khi không đáp ứng yêu cầu, việc tổ chức
thẩm định chưa khoa học, sự phối hợp giữa các cơ quan trong quá
trình thẩm định chưa chặt chẽ…



×