Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Đấu tranh chống diễn biến hoà bình trên lĩnh vực dân chủ và nhân quyền ở nước ta hiện nay tiểu luận cao học môn chính trị học nâng cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.58 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Từ nhiều năm qua, các thế lực thù địch ráo riết thực hiện chiến lược “diễn
biến hoà bình” nhằm chống phá chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng thế
giới. Diễn biến về tư tưởng là một trong những mũi nhọn chống phá dưới nhiều
hình thức tinh thần thâm độc: xuyên tạc những nguyên lý cơ bản của hệ tư tưởng
cộng sản, gieo rắc những giá trị tư bản chủ nghĩa phương Tây, phê phán những
mô hình chính trị - xã hội của các nước xã hội chủ nghĩa. Chúng tỏ dựng những
lực lượng chống đối ở các quốc gia, kích động xu hướng chia rẽ, ly khai nhằm
gây các cuộc bạo loạn để kiếm cớ can thiệp lật đổ.
Văn kiện Đại hội đaị biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng khẳng định
“Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn liền với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí đang diễn ra nghiêm trọng chưa được ngăn chặn có hiệu quả. Những biểu
hiện xa rời mục tiêu, lý tưởng của Chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục.
Các thế lực thù địch vẫn đang ráo riết thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”,
gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân
tộc”, “tôn giáo” hòng làm thay đổi chính trị ở nước ta.
Để thực hiện âm mưu đó, chúng dùng chiến lược tấn công trên tư tưởng
hòng làm tan rã niềm tin, gây hỗn loạn về lý luận và tư tưởng, tạo ra những
khoảng chống để dần đưa hệ tư tưởng tư sản thâm nhập vào cán bộ, đảng viên
và nhân dân làm chuyển hoá, xoá bỏ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, trong thời gian tới, cuộc đấu tranh tư tưởng chắc chắn diễn ra
ngày càng quyết liệt. Để giành chiến thắng trong cuộc đấu tranh này, cần phải
tiến hành hàng loạt các giải pháp trên mặt trận tư tưởng, lý luận; trên lĩnh vực
kinh tế - xã hội; trên mặt trận đối ngoại và an ninh. Tư tưởng nhằm tạo ra sức
đề kháng trong mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân trước hàng loạt âm mưu

1



thủ đoạn của các thế lực thù địch; trên cơ sở đó sự thống nhất cao về chính trị
trong Đảng, sự đồng thuận về đường lối đổi mới, mở cửa, giao lưu hội nhập.
Văn kiện Đại hội X của Đảng nhấn mạnh: “tiến hành đồng bộ công tác
tư tưởng, công tác lý luận với công tác tổ chức – cán bộ và phát triển kinh tế;
chống sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống. Cương quyết đấu
tranh bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng; phê phán, bác bỏ các quan điểm
sai trái thù địch”.
Để góp phần làm rõ vấn đề trên, em chọn đề tài “Đấu tranh chống
diễn biến hoà bình trên lĩnh vực dân chủ và nhân quyền ở nước ta hiện
nay” làm tiểu luận môn học.
2. Mục đích nghiên cứu:
Nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận, tìm hiểu những quan điểm, tư tưởng cơ
bản của Đảng ta về công tác tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân
dân trong việc chống âm mưu diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Với mục đích đã xác định, từ những quan điểm, tư tưởng cơ bản của
Đảng ta về công tác tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân
trong việc chống âm mưu diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch, tiểu
luận làm rõ hơn những quan điểm, tư tưởng trên cũng như sự vận dụng vào
thực tiễn Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận:
Trên cơ sở lý luận duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử,
phương pháp lôgíc kết hợp với các phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp,
so sánh, miêu tả.
6. Ý nghĩa của tiểu luận:

2



Tiểu luận góp phần làm rõ việc nhận thức những quan điểm của Đảng ta
trong việc tuyên truyền, giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân chống âm
mưu diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch. Đồng thời, nâng cao tầm
hiểu biết, tính cảnh giác và trang bị cho bản thân những kiến thức cần thiết để
phục vụ cho quá trình học tập và công tác lâu dài.
7. Kết cấu của tiểu luận:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung tiểu luận gồm 02 chương.

3


NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUAN ĐIỂM SAI TRÁI THÙ
ĐỊCH VÀ CĂN CỨ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ ĐỂ BÁC BỎ CÁC LUẬN
ĐIỂM LỢI DỤNG DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN NHẰM CHỐNG PHÁ
CÁCH MẠNG VIỆT NAM
1.1 . Một số khái niệm có liên quan
- Các thế lực thù địch
Tất cả những ai, cá nhân hay tổ chức, nhà nước hay tổ chức phi chính
phủ, hợp pháp hay bất hợp pháp, ở trong nước hay ở nước ngoài, người Việt
Nam hay người nước ngoài với mục đích chống phá Nhà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, có hoạt động chống phá ta trên mọi lĩnh vực tư
tưởng, chính trị đều là thành phần của “các thế lực thù địch”. Các thế lực thù
địch trên thực tế là những phần tử hiếu chiến ở ơhương Tây, ngoài ra bao gồm
một số tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài như: Tổ chức Chính phủ
Việt Nam tự do; Tổ chức Mặt trận quốc gia thống nhất giải phóng Việt Nam;
Tổ chức Đảng nhân dân hành động; Tổ chức Liên minh Việt Nam tự do; Tổ

chức Uỷ ban bảo vệ quyền làm người Việt Nam; vv…
- Cơ hội chính trị
Theo định nghĩa kinh điển thì cơ hội chính trị là: Thái độ chính trị
không theo một đường lối rõ rệt, không có chính kiến hẳn hoi, có thể ngả bên
này hay bên nọ để mưu lợi trước mắt.
- Quan điểm sai trái
Những ý kiến, những quan điểm cá nhân, tổ chức trái với sự thật, có hại
đến tư tưởng của cán bộ và nhân dân ta là những quan điểm sai trái, nhưng
chưa phải là thù địch. Những sai trái này thậm chí xuất hiện ngay trong nội bộ
Đảng, trong tầng lớp trí thức vì thiếu thông tin, hoặc vì phương pháp sai lầm.
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1 Chủ nghĩa Mác – Lênin về con người

4


Về mục tiêu, chủ nghĩa Mác và lý luận về con đường giải phóng hoàn
toàn và triệt để của con người, loài người thoát khỏi mọi sự áp bức, bóc lột và
sự tha hoá bởi của cải vật chất và quyền lực dưới tất cả mọi hình thức. Chủ
nghĩa Mác – Lênin hướng tới xây dựng một xã hội mới, trong đó có con
người được phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ và đạo đức, đồng thời giải
quyết hài hoà giữa yêu cầu phát triển của cá nhân với cộng đồng. như vậy, đối
với chủ nghĩa Mác – Lênin, bảo đảm “quyền” con người chưa phải là đủ.
Quyền của các cá nhân cần phải được gắn liền và bảo đảm bởi một chế độ xã
hội tốt đẹp, lành mạnh. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác viết: Chủ
nghĩa cộng sản là một xã hội trong đó “sự phát triển tự do của mỗi người là
điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. (C. Mác và
Phăngghen: Toàn tập, NxbCTQG, Hà nội 1995, tr628).
Ba tư tưởng lớn của Lênin đóng góp vào sự phát triển của chủ nghĩa
Mác về quyền con người đó là:

Một là, người đề xuất khái niệm dân chủ vô sản. Khái niệm này làm cơ
sở cho khái niệm quyền dân chủ. Dân chủ vô sản là dân chủ do số đông, cho
nhân dân lao động; là quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội của nhân
dân. Đem quyền dân chủ cho nhân dân, theo người là mục tiêu trực tiếp, trước
mắt của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Hai là, Người khẳng định quyền dân tộc tự quyết, bao gồm quyền phân
lập và quyền lựa chọn chế độ xã hội của các dân tộc sống dưới ách áp bức của
chủ nghĩa đế quốc. Đây là tiền đề chính trị của khái niệm quyền dân tộc tự
quyết và quyền tập thể trong hệ thống khái niệm quyền con người hiện đại.
Ba là, Người đề xuất chính sách xã hội của Nhà nước công – nông
hướng vào đại đa số nhân dân lao động và những người thuộc nhóm xã hội có
nhiều khó khăn như người già, cô đơn, thất nghiệp.
Nhiều học giả nhân quyền phương Tây đã thừa nhận chính sách xã hội
của Nhà nước Xô Viết là một đóng quan trọng cho quan niệm về các quyền
kinh tế, xã hội và văn hoá hiện đại.
5


1.2.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người
Kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
có những đóng góp lớn lao vào sự phát triển lý luận về quyền con người, nhất
là quyền của nhân dân sống ở các thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc và việc bảo
đảm những quyền đó trong xã hội quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trước hết, Người đánh giá khách quan giá trị nhân quyền do các cuộc
cách mạng dân chủ tư sản đem lại, đồng thời người cũng đã sớm chỉ ra rằng,
các nước đế quốc hứa sẽ trao lại độc lập, dân chủ, nhân quyền cho các dân tộc
thuộc địa chẳng qua chỉ là để lừa gạt nhân dân lao động ở “chính quốc” và để
ru ngủ các dân tộc bị áp bức. Các dân tộc bị áp bức muốn có dân chủ, nhân
quyền thật sự thì trước hết phải đấu tranh giành lại độc lập thống nhất đất
nước và đi theo con đường của chủ nghĩa Mác – Lênin. Độc lập dân tộc gắn

liền với chủ nghĩa xã hội không chỉ là tiền đề, điều kiện của quyền con người,
mà còn là một quyền – quyền tập thể quyền của con người.
Thứ hai, quyền con người là lý tưởng của Đảng, là bản chất của Nhà
nước ta và của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân dưới
sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố cơ bản nhất đảm bảo các quyền con người.
Với Hồ Chí Minh, quyền con người trước hết phải là một quyền hiến
định, hơn nữa phải được đặt ở vị trí những quyền cơ bản và quan trọng nhất,
thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội.
Thứ tư, đảm bảo quyền con người là trách nhiệm của tất cả các tổ chức
hợp thành hệ thống chính trị.
Thứ năm, đảm bảo quyền con người của nhân dân Việt Nam, đồng thời
đảm bảo quyền con người của các dân tộc khác.
1.2.3 Quan điểm cơ bản của Đảng ta về quyền con người
- Quyền con người là giá trị chung của nhân loại.
- Quyền con người gắn liền với quyền dân tộc cơ bản.
6


- Quyền con người vừa mang tính nhân loại, vừa mang tính giai cấp.
- Quyền con người là phổ biến, nhưng khi thực hiện phải phù hợp với
những đặc thù về truyền thống lịch sử, về văn hoá với điều kiện kinh tế, xã hội.
- Quyền con người phải được bảo vệ bằng pháp luật.
- Quyền, lợi ích cá nhân gắn liền với trách nhiệm, nghĩa vụ đối với xã hội.
Mở rộng hợp tác quốc tế trên mọi lĩnh vực quyền con người.
1.3. Cơ sở pháp lý quốc tế và quốc gia của cuộc đấu tranh chống lại
các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền.
Theo quan điểm của Đảng ta cũng nhơ cộng đồng quốc tế, việc đảm
bảo quyền con người trước hết thuộc về trách nhiệm của mỗi nước. Tuy
nhiên, ngày nay vấn đề nhân quyền không còn là vấn đề nội bộ của mỗi quốc

gia, nhất là những quốc gia đã tham gia các công ước quốc tế về quyền con
người. Bởi vậy, mối nhà nước, trong khi đảm bảo quyền con người của nước
mình, đồng thời quốc gia đó còn phải chịu sự giám sát của các cơ quan nhân
quyền của Liên hợp quốc và sự nhìn nhận đánh giá của cộng đồng quốc tế.
Cơ sở pháp lý của chúng ta là hệ thống văn kiện quốc tế về quyền con
người, bao gồm: các văn kiện không có tính ràng buộc như: Hiến chương,
Tuyên ngôn, Tuyên bố… và các văn kiện có tính ràng buộc về mặt pháp lý
như: các Công ước, Nghị định thư… và pháp luật quốc gia bao gồm: Hiến
pháp, pháp luật và pháp lệnh. Các văn kiện có tính ràng buộc về mặt pháp lý
bao gồm nhiều Công ước quốc tế và Nghị định thư, trong đó có những công
ước cơ bản và quan quan trọng sau:
- Công ước quốc tế và các quyền nhân sự, chính trị (1966);
- Công ước quốc tế về các quyền kinh tế - xã hội và văn hoá (1966);
- Công ước chống tra tấn và sử dụng các hình thức trừng phạt hay đối xử
tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (1984);
- Công ước quốc tế về loại trừ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (1965);
- Công ước về xoá bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (1979);
- Công ước về quyền trẻ em (1989).
7


Nắm vững và triệt để khai thác những văn kiện trên để phục vụ cho cuộc
đấu tranh chính trị - tư tưởng và đấu tranh pháp lý là hết sức quan trọng, nhất
là trong giai đoạn hiện nay.
Khác với đấu tranh vũ trang – chống bạo loạn lật đổ, bảo vệ an ninh
quốc gia, cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận và pháp lý là cuộc đấu tranh công
khai; là cuộc đấu tranh giành giật công lý, lẽ phải, đấu tranh giành giật dư
luận xã hội trong nước và quốc tế. Vũ khí của chúng ta trong cuộc đấu tranh
này quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của
Đảng ta và luật pháp quốc tế về quyền con người, về độc lập dân tộc, chủ

quyền quốc gia và quyền con người, là pháp luật quốc gia và những thành tựu
to lớn sinh động của công cuộc đổi mới hơn 20 năm qua của nhân dân ta.
1.3.1. Căn cứ lý luận và pháp lý bác bỏ luận điệu vu khống Việt
Nam vi phạm quyền dân chủ
- Những luận điệu phê phán, vu cáo, xuyên tạc, dân chủ ở Việt Nam
của các thế lực thù địch:
-“Việt Nam là một quốc gia độc đảng, do Đảng Cộng sản Việt Nam
kiếm soát”;
- “Chính phủ Việt Nam từ chối quyền được thay đổi Chính phủ”;
-“Chính phủ Việt Nam ngăn cấm tự do thông tin, tự do hội họp, tự do
ngôn luận, báo chí…”.
Để bác bỏ luận điểm của họ, chúng ta cần dựa vào những căn cứ sau:
- Nhà nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà, nay là Nhà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt nam ra đời sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, đó là
một Nhà nước Dân chủ, do Đảng Cộng sản Việt nam lãnh đạo. Nhà nước đó
đã thay thế một nhà nước thuộc địa – phong kiến thối nát, các quyền công dân
bị chà đạp. Nhà nước ta là nhà nước do dân tạo nên thông qua bầu cử tự do;
tất cả quyền lực thuộc về nhân dân; lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục
đích. Tất cả những nội dung trên đã được trân trọng ghi trong Hiến pháp năm
1946. Các Hiến pháp năm 1959, 1980 và 1992 đều đã khẳng định điều này.
8


Chế độ ta với nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật; quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân thông qua các cơ quan dân cử, người đứng
đầu nhà nước do nhân dân bầu ra. Với những yếu tố trên có thể nói, chế độ xã
hội ta, Nhà nước của chúng ta là một hình thức nhà nước văn minh – hiện đại,
hoàn toàn phù hợp với sự phát triển của nền chính trị đương đại.
- Nhà nước của chúng ta như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói, đó là
Nhà nước lấy “Dân làm gốc, dân là chủ, dân làm chủ”. Chủ tịch Hồ Chí Minh

còn căn dặn cán bộ: khẳng định “quyền” của nhân dân là chưa đủ, mà phải
làm sao giúp cho nhân dân “có năng lực làm chủ”, phải biết dùng quyền làm
chủ của mình để bảo vêh quyền lợi của mình và tham gia vào công việc quản
lý của Nàh nước. Điều 50 Hiến pháp năm 1992 ghi: “ở nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn
hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy
định trong Hiến pháp và Pháp luật”. Trong những năm qua, Đảng và Nhà
nước ta đã ban hành “Quy chế dân chủ ở cơ sở”, mà nội dung chủ yếu là “Dân
biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra” trong việc thực hiện các chủ trương,
chính sách lớn của Đảng và Nàh nước, cũng như các quyết định về kinh tế xã hội ở địa phương. Đây là một bước tiến mới về dân chủ ở nước ta.
Về mô hình nhà nước “quyền lực của nhà nước là thống nhất, có sự
phân công rành mạch và sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Sự bài bác của các thế
lực thù địch là vô căn cứ. Các thế lực thù địch muốn lấy mô hình nhà nước
dân chủ tư sản ở phương Tây làm “khuôn vàng thước ngọc” cho các nước.
Thực tế cho thấy trên thế giới có nhiều mô hình nhà nước, đó là Nhà nước dân
chủ nhân dân, ở đó quyền lực thuộc về nhân dân mà Quốc hội là người đại
diện; Nhà nước quân chủ, ở đó nhà Vua là người đứng đầu nhà nước; Nhà
nước quân chủ Nghị viện, ở đó Vua là nguyên thủ quốc gia nhưng không nắm
thực quyền…

9


Việc lấy một mô hình nhà nước nào đó để phê phán nước khác là
không thể chấp nhận được. Thử hỏi nếu vì các tiêu chuẩn dân chủ, nhân
quyền thì tại sao người ta lại không lên án nhà nước theo chế độ quân chủ, nơi
đang tồn tại vương quyền? Thực chất của vấn đề là họ coi hệ thống chính trị
xã hội chủ nghĩa – hệ tư tưởng đối lập với chủ nghĩa tư bản là một nguy cơ to
lớn, đe doạ sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản, chứ sự thật không phải vì dân chủ

và nhân quyền.
Gắn liền với việc phê phán mô hình của nhà nước ta là sự phê phán “hẹ
thống độc đảng” theo họ đó là hệ thống “đối lập” với dân chủ. Với họ chỉ có
chính trị đa nguyên, đa đảng mới là chế độ dân chủ. Trên thế giới hiện không
có ít quốc gia có một đảng cầm quyền kéo dài nhiều thập kỷ. Bản chất của chế
độ dân chủ là quyền làm chủ nhà nước và xã hội thuộc về đa số nhân dân. Bởi
vậy, có nhiều hình thức dân chủ khác nhau, trong đó có hình thức một đảng
hoặc nhiều đảng. Sự khác nhau đó một mặt do lịch sử quy định, mặt khác do
sự lựa chọn của nhân dân.
Ở nước ta, sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước
do Đảng Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, là người khai
sinh ra chế độ dân chủ cộng hoà, khai sinh nước Việt Nma mới. Sự lựa chọn
Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo duy nhất của nhân dân ta hoàn toàn
là đúng đắn dựa trên điều kiện lịch sử cụ thể. Trên thực tế không có một tổ chức
nào có thể cạnh tranh được với Đảng về lý tưởng phấn đấu, về sự hy sinh cho sự
nghiệp cách mạng, về trí tuệ và về văn hoá, chính trị.
Về phương diện pháp lý quốc tế, việc lựa chọn chế độ chính trị nào
hoàn toàn thuộc về quyền tự quyết của mỗi quốc gia. Việc nhân dân ta lựa
chọn chế độ chính trị nhất nguyên, hệ thống một đảng hoàn toàn thuộc thẩm
quyền của nhân dân ta.
1.3.2 Căn cứ lý luận và pháp lý bác bỏ luận điệu vu khống Việt Nam
vi phạm nhân quyền.

10


Xét về mặt lý luận, quyền con người là giá trị chung của nhân loại. Tất
cả các dân tộc đều có những đóng góp vào giá trị đó. Việt Nam tham gia các
công ước quốc tế về quyền con người, một mặt chúng ta chia sẻ những giá trị
chung, phổ biến với cộng đồng quốc tế; mặt khác, Việt Nam tiếp tục đóng góp

vào việc bảo đảm nhân quyền bằng những sáng tạo trong chính sách và pháp
luật phù hợp với điều kiện của mình.
Trong xã hội tư bản với nền kinh tế dựa trên sở hữu tư bản tư nhân, với
sự thống trị của giai cấp tư sản, quyền con người không khỏi không mang tính
hình thức và thường là sự che đậy hoặc giảm đi sự mâu thuẫn của xã hội.
Trong quan hệ quốc tế, Nhà nước tư bản chủ nghĩa chưa bao giờ chia sẻ thành
quả dân chủ, nhân quyền cho các nước thuộc địa. Trái lại họ dùng khía niệm
dân chủ nhân quyền như là một công cụ tư tưởng để áp đặt sự thống trị về tư
tưởng của họ đối với các thuộc địa. Bác bỏ luận điểm nhân quyền cao hơn chủ
quyền, trước hết cần phân tích mối quan hệ giữa quyền độc lập dân tộc, quyền
dân tộc tự quyết với cơ chế quốc tế bảo đảm quyền con người.
Tiếp nối và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin về quyền dân tộc
tự quyết, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tuyên ngôn độc lập không chỉ nói đến
“quyền phân lập” với “mẫu quốc” mà nhấn mạnh đến quyền đấu tranh giành
độc lập dân tộc, đồng thời khẳng định rằng dân tộc Việt Nma có đủ điều kiện
và quyết tâm bảo vệ nền độc lập đó. Điều đó có nghĩa là, Việt Nam không cần
đến cái gọi là “chế độ quản thác” của bất cứ ai, kể cả Liên hợp quốc.
Sau 15 năm tuyên ngôn độc lập của Việt Nam, vào những năm 60 của
thế kỷ XX, cộng đồng quốc tế mới thừa nhận quyền dân tộc tự quyết trong
Văn kiện, Tuyên ngôn về trao trả độc lập cho các nước và dân tộc thuộc địa…
Các quyền dân tộc cơ bản bao gồm: Độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và
toàn vẹn lãnh thổ. Đó là những nguyên tắc cơ bản, bất di bất dịch trong quan
hệ quốc tế. Điều này có nghĩa là không có một cá nhân, tổ chức, quốc gia nào,
kể cả Liên hợp quốc có quyền can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi quốc
gia. Theo đó, vấn đề đảm bảo quyền con người bao gồm việc ghi nhận trong
11


pháp luật cũng như trong tổ chức thực hiện. Ở mỗi quốc gia, trước hết và chủ
yếu thuộc thẩm quyền của mỗi nhà nước.

Trong luật quốc tế, địa vị pháp lý của mỗi quốc gia độc lập là những
thực thể pháp lý độc lập và bình đẳng (về mọi mặt từ chính trị đến kinh tế,
văn hoá – xã hội). Trong các quan hệ song phương – quan hệ giữa quốc gia
này với quốc gia khác; và quan hệ đa phương – quan hệ giữa một quốc gia với
các tổ chức khu vực như ASEAN và tổ chức quốc tế Liên hợp quốc, trách
nhiệm pháp lý đối với mỗi quốc gia được giới hạn trong các điều ước quốc tế
mà quốc gia đó đã tham gia. Do đó pháp luật của mỗi quốc gia cũng có vị trí
độc lập và bình đẳng với pháp luật quốc tế. Tất nhiên, như Pháp lệnh về việc
ký kết các điều ước quốc tế của ta đã ghi nhận, Việt Nam tôn trọng các cam
kết quốc tế và ưu tiên điều ước quốc tế, nếu có xung đột về mặt pháp luật
trong điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
Từ nguyên tắc trên chúng ta bác bỏ luận điệu thù địch, vu cáo pháp luật
Việt Nam vi phạm nhân quyền; Đấu tranh bảo vệ nguyên tắc độc lập, bình
đẳng về pháp lý, bảo vệ Hiến pháp và pháp luật quốc gia là một mặt quan
trọng trong cuộc đấu tranh nhân quyền hiện nay.

12


CHƯƠNG II: THÀNH TỰU ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC VÀ GIẢI PHÁP ĐẤU
TRANH TRÊN LĨNH VỰC NHẠY CẢM, DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN
2.1. Thành tựu cơ bản về một số quyền trong thời kỳ đổi mới
- Về quyền con người
Đại hội VI của Đảng đã mở ra một thời kỳ mới, có tính bước ngoặt cả về
lý luận và thực tiễn đối với sự nghiệp xây dựng đất nước theo con đường
XHCN của nhân dân ta. 20 năm qua là một trong những thời kỳ phát triển
mạnh mẽ về mọi mặt của cách mạng Việt Nam. Các quyền con người, đặc
biệt là các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa, đã được bảo đảm đầy đủ hơn
bất cứ thời kỳ lịch sử nào trước đây. Con người được đặt vào trung tâm của
phát triển. Để có được những thành quả trên là do Đảng và Nhà nước ta đã

lựa chọn đúng đắn con đường phát triển của đất nước. Kế thừa những thành
quả đã đạt được, khắc phục sai lầm khuyết điểm, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
Việt Nam đã vượt qua khủng hoảng, giữ vững sự ổn định chính trị, xã hội, tạo
thế đi lên vững chắc và bền vững. Chưa bao giờ Việt Nam lại có được vị thế
quốc tế về chính trị và kinh tế vững chắc và rộng rãi như hiện nay. Uy tín
quốc tế của Việt Nam trên lĩnh vực quyền con người cũng được cộng đồng
quốc tế thừa nhận. Đến nay, nước ta đã tham gia hầu hết các công ước quốc tế
cơ bản về quyền con người. Việt Nam đã được bầu vào Ủy ban nhân quyền
của LHQ, nhiệm kỳ 2001-2003, và được bầu vào ủy ban phát triển xã hội
nhiệm kỳ 1998-2000. Trên lĩnh vực lập pháp, từ 1986 đến nay, đồng thời với
Hiến pháp 1992, Quốc hội đã thông qua trên 40 luật, trong đó có những bộ
luật lớn bảo đảm các quyền con người như Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng
hình sự, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Bộ luật Doanh nghiệp, Luật Đất
đai, Luật Chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em... Có thể nói, pháp luật Việt Nam
về cơ bản đã tương thích với pháp luật quốc tế về quyền con người.
Trên lĩnh vực quyền chính trị, việc xây dựng nhà nước pháp quyền của dân,
do dân và vì dân và cải cách hành chính, cải cách tư pháp đang được đẩy
mạnh. Với phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", người
13


dân bằng việc sử dụng các quyền dân chủ trực tiếp và dân chủ, đại diện đã
thực sự tham gia vào công việc quản lý nhà nước và xã hội. Có thể nói chưa
bao giờ hoạt động của Quốc hội lại thu hút được sự quan tâm của nhân dân
như hiện nay; cũng chưa bao giờ sinh hoạt của Quốc hội thể hiện rõ tính dân
chủ và cởi mở như bây giờ. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã được bảo
đảm đầy đủ. Hiện nay, hơn 20 triệu tín đồ thuộc các tôn giáo được tự do thực
hiện các hoạt động tôn giáo. Quyền của đồng bào các dân tộc thiểu số không
những được pháp luật bảo vệ mà còn được Nhà nước chăm sóc, giúp đỡ thông
qua các chương trình phát triển kinh tế-xã hội cho các vùng khó khăn, thông

qua chính sách xã hội, văn hóa như hệ thống trường dân tộc nội trú, như công
tác bồi dưỡng và đào tạo cán bộ đồng bào các dân tộc. Đặc biệt là di sản văn
hóa và ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số đã và đang được phục hồi, phát
triển. Một số di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc thiểu số được
Nhà nước ta khuyến nghị với tổ chức UNESCO và đã được tổ chức này ghi
nhận, trở thành di sản văn hóa thế giới. Thành tựu nổi bật nhất về quyền con
người trong thời kỳ đổi mới, xóa đói, giảm nghèo, bảo trợ xã hội có thể nói là
điểm nổi bật nhất. Tỷ lệ đói, nghèo của Việt Nam đã liên tục giảm với tốc độ
khá nhanh. Từ 70% hộ nghèo (theo tiêu chuẩn Việt Nam) vào những năm 80,
đến năm 2004, chỉ còn khoảng 8%. Tính theo tiêu chuẩn nghèo quốc tế, Việt
Nam đã giảm được 50% số người nghèo-đạt mục tiêu thứ nhất trong các "mục
tiêu thiên niên kỷ" do LHQ đề ra trước thời hạn 10 năm. Theo kết quả điều tra
của Ủy ban kinh tế và xã hội khu vực châu Á-Thái Bình Dương của LHQ vừa
công bố (năm 2006), Việt Nam được đánh giá "là nền kinh tế tăng trưởng
nhanh nhất khu vực Đông Nam Á". Nhiều chính khách, nhà đầu tư lớn cho
rằng Việt Nam là một quốc gia có sức hấp dẫn lớn về đầu tư do có môi trường
chính trị ổn định và chính sách kinh tế cởi mở. Chúng ta còn rất nhiều điều
chưa hài lòng, thậm chí là bức xúc về tình trạng quan liêu, tham nhũng của
một bộ phận cán bộ, đảng viên, điều này đã tác động xấu đến việc bảo đảm
quyền con người của nhân dân ta. Tuy nhiên, có thể nói những thành quả bảo
14


đảm quyền con người trong thời kỳ đổi mới là to lớn, vững chắc và sẽ tiếp tục
phát triển. Bởi lẽ, những thành quả này bắt nguồn sâu xa từ đổi mới tư duy lý
luận của Đảng về CNXH, về Nhà nước pháp quyền, về dân chủ XHCN, về
kinh tế thị trường và về thời đại ngày nay.
Bước vào thời kỳ đổi mới, thành tựu quan trọng nhất trong việc đảm
bảo quyền con người là bảo vệ quyền tự quyết của dân tộc với tính cách
quyền tập thể, đó là vị thế chính trị của Việt Nam trên trường quốc tế được

nâng cao hơn bao giờ hết và đường lối chính trị, kinh tế, độc lập tự chủ vẫn
tiếp tục được đảm bảo và phát huy, mở ra thời kỳ phát triển mới của cách
mạng Việt nam. Việt Nam đã trở thành những thành viên trong các tổ chức
quốc tế, cho đến nay đã có quan hệ ngoại giao với trên 170 quốc gia và vùng
lãnh thổ. Từ năm 1981 đến nay, Việt Nam đã tham gia hầu hết các công ước
quốc tế cơ bản về quyền con người. Với những quan hệ quốc tế được mở rộng
về số lượng, đa dạng về nội dung, vị thế chính trị, uy tín quốc tế của Việt
Nam hiện nay được củng cố vững chắc hơn bất cớ giai đoạn nào trước đây.
Nói tóm lại, trong thời kỳ đổi mới, các quyền và tự do của con người
được phát huy đảm bảo vững chắc bởi các thể chế - Nhà nước pháp quyền của
dân, do dân, vì dân; xãhội công dân và nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
- Thành tựu trên lĩnh vực quyền dân sự, chính trị
Ngay từ khi ra đời, Nhà nước Việt Nam đã đặt ở vị trí cao nhiệm vụ bảo
đảm quyền con người. Trong bản Tuyên ngôn độc lập đọc ngày 2 tháng 9
năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố: "Nước Việt Nam
có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập.
Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng
và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy". Trên tinh thần đó, các quyền
con người đã được khẳng định rõ trong các bản Hiến pháp từ khi lập nước đến
nay. Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam 1946 mới chỉ gồm có 70
Điều, nhưng đã dành cho việc quy định các quyền nghĩa vụ cơ bản của công
15


dân đến 18 điều và được trình bày tập trung tại một chương: "Nghĩa vụ và
quyền lợi công dân" và đặt trang trọng ở vị trí ưu tiên, ngay tại Chương II
Hiến pháp 1959 là bước phát triển hơn nữa so với Hiến pháp 1946 với 21 điều
khoản quy định các quyền và nghĩa vụ của công dân. Hiến pháp 1980 là Hiến
pháp của nước Việt Nam thống nhất, kế thừa và phát huy tinh thần của hai

Hiến pháp trước, với 29 điều quy định cụ thể về các quyền của công dân.
Hiến pháp Việt Nam năm 1992, là Hiến pháp của công cuộc đổi mới, đã
khẳng định: "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về
nhân dân..." (Điều 2); “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các
quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế văn hóa và xã hội được tôn
trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và
pháp luật" (Điều 50). Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp
luật để cụ thể hóa nội dung quyền con người quy định trong Hiến pháp Việt
Nam năm 1992 sửa đổi, cũng như nội dung quyền con người theo Công ước
quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966. Trong số này, có những đạo
luật quan trọng, trực tiếp liên quan đến lĩnh vực dân sự chính trị như: Luật tổ
chức Quốc hội, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật
bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân, Bộ Luật Dân sự, Bộ Luật tố tụng dân sự, Bộ Luật Hình sự, Bộ Luật Tố
tụng Hình sự, Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của
công dân... Trong quá trình xây dựng và trước khi thông qua Hiến pháp và
các đạo luật quan trọng, dự thảo các văn bản đều được công bố rộng rãi để lấy
ý kiến đóng góp của nhân dân và được chỉnh lý trên cơ sở các ý kiến đóng
góp trên. Bằng việc tham gia vào quá trình xây dựng luật pháp, nhân dân đã
thực hiện các quyền tự do, dân chủ của mình và các văn bản pháp luật quan
trọng đều thể hiện được ý chí, lợi ích và nguyện vọng của nhân dân.

16


- Thành tựu trên lĩnh vực kinh tế, xã hội
Về tăng trưởng GDP, trước thời kỳ đổi mới tăng trưởng thấp, thậm chí
nhiều năm tăng trưởng âm, thu nhập bình quân 200USD/người, cho đến năm

2002 GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt khoảng 439USD đứng thứ
8 trong khu vực, thứ 39 Châu Á và 112 trên thế giới, đến năm 2006 là
720USD. Với đường lối kinh tế xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, Hiến pháp năm 1992 pháp luật đã quy định bảo
đảm quyền sở hữu và quyền thừa kế cho tất cả mọi người (theo pháp luật),
gắn liền với cơ cấu sở hữu đa thành phần, quyền tự do trong sản xuất, kinh
doanh cũng được đảm bảo. Tính đến tháng 9/2003, cả nước có tới 12.601
doanh nghiệp tư nhân được thành lập, đưa tổng số doanh nghiệp tư nhân lên
127.000 tạo thêm nhiều việc mới cho người lao động. Đáng chú ý nhất là các
thủ tục phiền hà được giảm đi đáng kể, kinh tế trang trại cũng phát triển mạnh
mẽ, tính đến năm 1999 có 43.372 trang trại.
Trên lĩnh vực giáo dục, mặc dù hiện nay xã hội có nhiều bức xúc về nội
dung, phương pháp giảng dạy, học tập; về quản lý…., song Viêt Nam cũng
đạt được một thành tích đáng tự hào. Quan điểm xã hội hoá giáo dục, xây
dựng xã hội học tập, học tập suốt đời đã được khẳng định. Nếu như năm 1986
nước ta mới có gần 100 trường đại học thì nay đã có hơn 100 trường. Hiện
nay theo thống kê, 100% các tỉnh thnàh phố đạt tiêu chuẩn phổ cập tiểu học
và xoá mù chữ, một số tỉnh thành đang thực hiện chương trình phổ cập trung
học cơ sở. Thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước,
quyền được chăm sóc sức khoẻ của nhân dân trong thời kỳ đổi mới cũng đạt
được những thành tựu to lớn. Về cơ bản, hệ thống các cơ sở y tế quốc gia đã
hình thành với 6 tuyến xã, phường, quận, huyện, thành phố và trung ương, đó
là chưa kể các cơ sơe y tế của quân đội, công an và của nhiều bộ, ngành. Việc
chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, chăm sóc sức khoẻ ban đầu đã đạt được thành
tích rất ấn tượng. Cho đến nay 6 bệnh: Lao, sởi, ho gà, bạch hầu, uốn ván, bại

17


liệt và uốn ván sơ sinh, tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em giảm liên tục trong

nhiều năm. Tuy nhiên, Việt Namvẫn có tỷ lệ cao so với khu vực.
Đối với người nghèo, Nhà nước đã chi ngân sách giúp khám, chữa bệnh
với số tiền lên tới hàng nghìn tỷ đồng.
Trên lĩnh vực khoa học – y học, giới khoa học nước ta đã đạt được
những thành tựu to lớn như ghép gan, thụ tinh trong ống nghiệm và điều trị
thành công bệnh SART được cộng đồng đánh giá cao.
Tính đến năm 2000 xếp hạng HDI của Việt nam là 109/201 nước, trong
khi xếp hạng kinh tế của Việt nam là 112/201. Điều này nói lên rằng đường
lối, chính sách kinh tế - xã hội của Việt Nam hướng vào con người đã đạt
được hiệu quả rõ nét đây là một ưu việt của nước ta. Có thể nói, chưa bao giờ
người dân Việt Nam lại được hưởng các quyền con người cao như giai đoạn
này. Sở dĩ có được những thành tựu đó là vì:
Một là, đường lối, chính sách, pháp luật của nước ta nhất quán hướng
vào mục tiêu độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội và hạnh phúc của con người.
Hai là, Đảng ta đã phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, nắm vững bản
chất chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đổi mới tư duy về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội với ba thể chế xã hội. Nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa được hình thành tạo ra các điều kiện cơ bản, bảo đảm cho các
quyền tự do của người dân một cách vững chắc.
Ba là, những thành tựu trên lĩnh vực quyền con người của nhân dân ta
còn dựa trên quan điểm vừa hợp tác vừa đấu tranh, hoà nhập chứ không hoà
tan; Việt Nam là bạn với tất cả các quốc gia trong cộng đồng quốc tế, tôn
trọng các điều ước quốc tế mà Việt nam đã tham gia…
2.2. Giải pháp đấu tranh trên lĩnh vực nhạy cảm, dân chủ, nhân
quyền
2.2.1. Về đối nội

18



- Cần xác định rõ việc phát huy dân chủ, bảo vệ và tăng cường các
quyền con người phải là sự nghiệp, là mục tiêu phấn đấu của Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta. Vì thế, ta cần đẩy mạnh công tác hoàn thiện hệ thống pháp
luật bảo vệ quyền con người; củng cố và tăng cường các thể chế, chính sách
của nhà nước nhằm bảo đảm thực hiện đầy đủ hơn, tốt hơn các quyền tự do
chính đáng của nhân dân;
- Cần nâng cao nhận thức và tăng cường công tác phối hợp giữa các bộ,
ban, ngành, giữa Trung ương với địa phương trong việc xử lý các vấn đề liên
quan đến dân chủ, nhân quyền. Trước mắt chúng ta cần tập trung giaie quyết
tốt các vấn đề bức xúc ở Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây Bắc và vùng đồng
bào dân tộc thiểu số. Xử lý các vấn đề tôn giáo ở một số địa phương phải theo
đúng đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.

2.2.2. Về đối ngoại
- Phấn đấu xây dựng khuôn khổ quan hệ ổn định lâu dài với Mỹ và EU
là hai đối tượng chính trong đấu tranh của ta về dân chủ và nhân quyền. Trên
cơ sở quan hệ song phương tốt hơn, đồng thời buộc các nước này cũng phải
thận trọng và cân nhắc lợi ích nhiều mặt khi chống ta về dân chủ, nhân quyền.
- phấn đấu để có thể thực sự chủ động trong đấu tranh với lập luận và
thông tin thuyết phục để ngăn chặn các chiến dịch chống ta về dân chủ, nhân
quyền vào một số thời điểm nhất định, nhằm hạn chế hoặc giảm thiểu sức ép
từ bên ngoài chống ta. Phải làm tốt hơn công tác dự báo thời điểm và phản
ứng của bên ngoài đối với những vấn đề nảy sinh để chuẩn bị và kịp thời đề
xuất chủ trương xử lý.
- Cần mở rộng và nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác tuyên truyền đối
ngoại, đặc biệt là công tác đấu tranh dư luận, chủ động chiếm lĩnh mặt trận
thông tin, báo chí; phải nắm chác và sâu hơn nữa tình hình tổ chức và hoạt
động của các tổ chức người Việt phản động lưu vong, tìm ra những chỗ yếu,
19



sơ hở của các tổ chức này, để từ đó có biện pháp đấu tranh thường xuyên, hạn
chế sự hỗ trợ của các chính quyền các nước sở tại đối với hoạt động chống
đối của các tổ chức này, hạn chế những hoạt động thù địch chống Việt Nam
chúng ta.

20


KẾT LUẬN
Trong những năm gần đây, các thế lực thù địch tăng cường lợi dụng vấn
đề dân chủ, nhân quyền để đẩy nhanh quá trình "diễn biến hòa bình", vấn đề
dân chủ, nhân quyền mà ngày đêm chúng lợi dụng chống Việt Nam lại không
dừng lại ở mức độ vu cáo mà còn tiềm ẩn nguy cơ tạo thành nguyên cớ để can
thiệp sâu hơn nữa, phức tạp hơn nữa, tinh vi hơn nữa. Sự bịa đặt, vu cáo dân
chủ, nhân quyền từ phía các thế lực thù địch vừa qua đã gây ra những khó
khăn, phức tạp không nhỏ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của
toàn Đảng, toàn dân ta. Đây là vấn đề hết sức khó khăn, nhạy cảm đòi hỏi
chúng ta cần nâng cao hơn nữa tinh thần cảnh giác cách mạng, chủ động nắm
bắt và phát hiện những biến thái mới trong thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân chủ,
nhân quyền để chống phá Nhà nước ta, không ngừng học tập, nghiên cứu
nâng cao trình độ, kịp thời có những biện pháp đồng bộ, hữu hiệu làm thất bại
âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, góp phần xứng đáng vào công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

21


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng Cộng sản Việt nam: Văn kiện Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb
CTQG,H 2007
2. Hội đồng lý luận Trung ương: Vững bước trên con đường đã chọn.
Nxb CTQG, Hà nội 2004
3. Ban Tuyên giáo Trung ương: Phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái,
thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cộng sản Việt Nam. Nxb CTQG,
Hà nội 2007
4. PGS.TS Đào Duy Quát: Về công tác tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Nxb CTQG, Hà nội 2005
5. PGS.TS Lương khắc Hiếu: nguyên lý công tác tư tưởng. Nxb CTQG,
Hà nội 2008
6. TS Hồng Vinh: Cuộc đấu tranh chống những quan điểm sai trái, thù
địch - thực trạng và giải pháp. Nxb CTQG, Hà nội 2005.

22


MỤC LỤC

23



×