Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Vai trò của công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.39 KB, 24 trang )

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU........................................................................................2
NỘI DUNG.............................................................................................4
1. Sự cần thiết phải tiến hành công nghiệp hoá- hiện đại hoá.................4
1.1. Khái niệm công nghiệp hoá- hiện đại hoá..........................................4
1.2. Vai trò, nhiệm vụ và mục tiêu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá.. 4
1.2.1. Vai trò công nghiệp - hoá hiện đại hoá.....................................4
1.2.2. Nhiêm vụ công nghiệp hoá- hiện đại hoá...................................5
1.2.3. Mục tiêu công nghiệp hoá- hiện đại hoá....................................5
1.3. Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá - hiện đại hoá...........6
2. Thực trạng công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta.........................9
2.1. Quan điểm của Đảng ta về công nghiệp hoá - hiện đại hoá...............9
2.2. Nội dung của công nghiệp hoá - hiện đại hoá..................................12
2.2.1. Những thành tựu mà công nghiệp hoá - hiện đại hoá đã đạt
được...................................................................................................12
2.2.2. Những khó khăn của công nghiệp hoá - hiện đại hoá. ...........15
3. Các biện pháp để thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở nước ta.
.....................................................................................................................18
3.1. Tập trung đào tạo và phát triển nguồn nhân lực...............................18
3.2. Huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả phục phụ tốt cho công
nghiệp hoá- hiện đại hoá.........................................................................19
3.3. Đổi mới và nâng cao trình độ khoa học - công nghệ trong nước.....20
3.4. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại..................................................21
3.5. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước...........22
KẾT LUẬN...........................................................................................23
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................24
LỜI NÓI ĐẦU
Chúng ta đang ở những năm đầu của thế kỷ XXI - thế kỷ của văn minh
và tiến bộ khoa học, công nghệ mới.Thế kỉ XX đã trôi qua nhưng nó để lại
nhiều thành tựu rực rỡ về khoa học - công nghệ cho thế giới và nước ta. Đối
với nước ta, một nước có nền kinh tế kém phát triển thì vấn đề công nghiệp


hoá - hiện đại hoá là con đường tất yếu tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội để có thể bắt kịp sự chuyển biến của nền kinh tế trong khu vực
và trên thế giới.
Vấn đề công nghiệp hoá nền kinh tế của nước ta được đặt ra từ năm 1960
trong văn kiện đại hội đảng toàn quốc lần thứ III nhưng do tập trung chống
phá bọn xâm lược nên mãi sau khi đất nước hoà bình thống nhất cùng đi lên
chủ nghĩa xã hội, chủ trương công nghiệp hoá mới được triển khai, thực hiện.
Thể hiện trong văn kiện đại hội IV, V, VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Sau
khi nước ta từ bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp và tiến
hành đổi mới kinh tế thì Việt Nam đã tiến hành công cuộc công nghiệp hoá
với phương châm “Xây dựng một nền kinh tế mở hội nhập với khu vực và thế
giới, hướng mạnh về xuất khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có
hiệu quả” . Với việc thực hiện theo phương châm trên thì nền kinh tế nước ta
có sự phát triển đáng kể từ năm 1991 – 2000.
Bước sang thiên niên kỷ mới, trước yêu cầu thực hiện nghị quyết IX của
Đảng về phát triển kinh tế - xã hội mười năm đầu của thế kỷ XXI là “Đẩy
mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây
dựng nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”
Tuy nhiên, công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá của nước ta trong
thời đại ngày nay sẽ gặp không ít khó khăn, thử thách, phức tạp, đòi hỏi
chúng ta phải động viên và phát huy sức mạnh dân tộc, đẩy mạnh sự nghiệp
đổi mới, phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực tạo thành
nguồn lực tổng hợp để biến đường lối của Đảng thành hiện thực.
2
Với mong muốn làm sáng tỏ thêm về công cuộc đổi mới nói chung và
công nghiệp hoá - hiện đại hoá nói riêng ở nước ta hiện nay, em chọn đề tài:
“Vai trò của công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay”. Do kiến thức còn hạn chế nên
bài viết này chưa phản ánh được hết vấn đề công nghiệp hoá - hiện đại hoá
của đất nước ta hiện nay và không tránh khỏi còn nhiều thiếu sót. Em rất

mong sự dóng góp ý kiến của cô giáo .
Em xin chân thành cảm ơn!
3
NỘI DUNG
1. Sự cần thiết phải tiến hành công nghiệp hoá- hiện đại hoá.
1.1. Khái niệm công nghiệp hoá- hiện đại hoá.
Nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu quá độ tiến thẳng lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, ngay từ đại hội đảng
toàn quốc lần III - 1961 đảng đã xác định: “ Công nghiệp hoá - hiện đại hóa là
nhiệm vụ trung tâm cho cả thời kỳ quá độ”.
Hiện nay ở các nước phát triển thì công nghiệp hoá - hiện đại hoá là một
trong những chính sách chủ yếu và là một thách thức lớn. Tuy nhiên, các
chính sách công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong giai đoạn này có nhiều điểm
khác so với trước kia. Chính điều đó đã làm cho chính sách ở các nước, các
thời kỳ đa dạng hơn.
Kế thừa có chọn lọc những tri thức văn minh của nhân loại và những
kinh nghiệm trong lịch sử tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá, từ thực
tiễn công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới mà ban
chấp hành trung ương lần thứ VII, khoá VI và Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác định: “Công nghiệp hoá - hiện đại
hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh
doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế- xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là
chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công
nghiệp và tiến bộ khoa học- công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.
1.2. Vai trò, nhiệm vụ và mục tiêu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
1.2.1. Vai trò công nghiệp - hoá hiện đại hoá.
Thứ nhất là công nghiệp hoá - hoá hiện đại hoá làm phát triển lực lượng
sản xuất, năng suất lao động tăng lên tạo điều kiện tăng trưởng và phát triển
kinh tế. Khắc phục tụt hậu về kinh tế của nước ta so với các nước khác trong

4
khu vực và trên thế giới, góp phần ổn định và nâng cao đời sống của nhân
dân.
Thứ hai là công nghiệp hoá - hiện đại hoá góp phần củng cố và tăng
cường vai trò kinh tế của nhà nước, nâng cao năng lực tích tuỹ tạo điều công
ăn việc làm cho nhân dân. Khuyến khích sự phát triển tự do và toàn diện của
mỗi cá nhân.
Thứ ba là công nghiệp hoá - hiện đại hoá tạo điều kiện củng cố quốc
phòng, an ninh.
Thứ tư là công nghiệp hoá - hiện đại hoá tạo điều kiện cho việc xây
dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đủ sức tham gia một cách có hiệu quả vào sự
phân công và hợp tác quốc tế.
1.2.2. Nhiêm vụ công nghiệp hoá- hiện đại hoá.
Qua tất cả các kỳ đại hội Đảng ta luôn luôn xác định công nghiệp hóa -
hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
Nhiệm vụ cơ bản mà công nghiệp hoá - hiện đại hoá phải giải quyết là
tạo cơ sở, vật chất cho chủ nghĩa xã hội, đó là nền tảng của sản xuất bằng máy
móc thay thế cho sản xuất nhỏ thủ công bằng chân tay, công nghiệp hoá trong
tất cả các ngành kinh tế quốc dân đều dựa trên điện khí hoá và áp dụng rộng
rãi những thành tựu khoa học, kỹ thuật mới vào để tổ chức một cách có kế
hoạch trên phạm vi cả nước. Nhằm thoã mãn ngày càng đầy đủ những nhu
cầu vật chất và văn hoá tinh thần của người dân trong xã hội. Vấn đề chủ
nghĩa xã hội tạo ra một hệ thống công nghiệp hóa nặng đặc biệt là công
nghiệp điện tử chế tạo máy móc, công nghiệp nhẹ chế biến.
1.2.3. Mục tiêu công nghiệp hoá- hiện đại hoá.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã
xác định mục tiêu của sự nghiệp công nghiệp hoá nước ta là: “Xây dựng nước
5
ta trở thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất, kĩ thuật hiện đại, cơ cấu

kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với quá trình phát triển của
lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh
vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”. Nước ta phấn
đấu từ nay đến năm 2020 trở thành một nước công nghiệp.
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá được coi như là chìa khóa mở ra con
đường phát triển của đất nước. Chính vì vậy, tại đại hội IX- Đảng ta nêu rõ:
“Phát triển kinh tế, công nghiệp hoá - hiện đại hoá là một nhiệm vụ trung
tâm”.
Trong những năm tới, nước ta sẽ đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá
nhằm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển, đời sống của nhân dân
được cãi thiện hơn. Tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực về con người, khoa học kỹ
thuật, kết cấu hạ tầng, tiềm lực về kinh tế, về quốc phòng - an ninh được tăng
cường. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cơ bản là hình
thành, vị thế của nước ta trên thị trường quốc tế được nâng cao.
1.3. Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Lịch sử phát triển của sản xuất xã hội đã chứng minh: “ Mỗi phương
thức sản xuất của xã hội chỉ có thể xác lập một cách vững chắc trên cơ sở vật
chất - kỹ thuật tương ứng. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của một xã hội là toàn bộ
hệ thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội phù hợp với trình
độ kỹ thuật tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng để sản xuất ra
của cải vật chất thoả mãn nhu cầu của xã hội. Vì vậy, cơ sở vật chất - kỹ thuật
là một nhân tố rất quan trọng, ở nước ta thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại
hóa chính là quá trình tạo dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người đã hình thành và tồn tại
các mối liên hệ khác nhau. Vì thế, phương thức sản xuất ra đời luôn kế thừa
6
các yếu tố của cơ sở vật chất - kỹ thuật của phương thức sản xuất trước nó và
cải tạo, phát triển thành cơ sở vật chất - kỹ thuật cho bản thân mình.
Nước ta trải qua nhiều cuộc chiến tranh tàn khốc, nền sản xuất chủ yếu là

nền sản xuất tự cung, tự cấp. Do vậy, công nghiệp hoá - hiện đại hoá trở thành
vấn đề cần thiết đối với nước ta để khắc phục khó khăn đồng thời xây dựng
đất nước.
Sự phát triển của nền đại công nghiệp cơ khí với sản xuất ngày càng xã
hội hoá đã tự phát tạo ra tiền đề vật chất khách quan cho sự ra đời của phương
thức sản xuất mới: phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu
của nó là chủ nghĩa xã hội. Như vậy, mối liên hệ tất yếu lịch sử, cơ sở vật chất
- kỹ thuật của xã hội chủ nghĩa mà giai đoạn đầu của phương thức sản xuất
cộng sản chủ nghĩa phải là nền đại công nghiệp cơ khí hiện đại.
Năm 1921, tại đại hội III quốc tế cộng sản LêNin đã chỉ rõ: “cơ sở vật
chất - kỹ thuật duy nhất của chủ nghĩa xã hội chỉ có thể là nền đại công
nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp nhưng không thể đóng
khung ở nguyên lý chung đó, cần phải cụ thể hoá nguyên lý đó. Nền đại công
nghiệp ở vào trình độ kỹ thuật hiện đại và có khả năng cải tạo cả nông nghiệp,
đó là điện khí hoá cả nước”. Ngoài ra, ông còn nói: “một lần nữa, tôi phải
nhấn mạnh rằng cơ sở kinh tế duy nhất có thể có được của chủ nghĩa xã hội là
nền đại công nghiệp cơ khí, ai quên điều đó người đó không phải là người
cộng sản. Chúng tôi phải đặt vấn đề một cách thực tiễn đại công nghiệp hiện
đại là thế nào? đại công nghiệp hiện đại có nghĩa là điện khí hoá toàn nước
Nga”.
Như vậy, cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền đại công
nghiệp cơ khí hiện đại có khả năng cải tạo nông nghiệp, luận điểm trên của
chủ nghĩa Mác- LêNin cần phải được vận dụng một cách thích hợp với đặc
điểm của thời đại cách mạng khoa học - kỹ thuật và đặc điểm cụ thể của mỗi
nước.
7
Trong xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá về kinh tế đang phát triển
mạnh mẽ, trong điều kiện cách mạng khoa học- kỹ thuật và công nghệ hiện
đại phát triển rất nhanh, những thuận lợi và khó khăn về khách quan và chủ
quan, có nhiều thời cơ và cũng có nhiều nguy cơ, vừa tạo cơ hội mới, vừa cản

trở nền kinh tế của chúng ta. Các mặt đó nó đan xen vào nhau, tác động lẫn
nhau. Vì vậy, nước ta phải chủ động sáng tạo để nắm lấy thời cơ đồng thời
phát huy những thuận lợi để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá tạo ra thế
và lực mới để vượt qua những khó khăn, đẩy lùi nguy cơ, đưa nền kinh tế
nước ta tăng trưởng, phát triển bền vững hơn.
Hiện nay, các quốc gia trên thế giới đều có nhu cầu thực hiện các mối
quan hệ, hợp tác với các quốc gia khác về mặt kinh tế. Việc thực hiện các mối
quan hệ, hợp tác kinh tế với các nước đặt ra vấn đề cho nước ta phải khắc
phục các hạn chế đó. Vì vậy, cần phải thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại
hoá thì mới tạo ra những tiền đề để hội nhập kinh tế quốc tế.
Chúng ta có nguồn lao động dồi dào bao gồm người lao động với kỹ
năng lao động của họ và tư liệu sản xuất. Vì thế, công nghiệp hoá tạo điều
kiện cho con người và khoa học công nghệ phát triển. Quá trình công nghiệp
hoá - hiện đại hoá góp phần nâng cao vai trò con người trong nền kinh tế đồng
thời thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển. Trên cơ sở đó tạo mối
quan hệ cho từng vùng, từng miền trong cả nước làm chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng, từng bước nâng cao đời sống của nhân dân.
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá không chỉ làm kinh tế phát triển mà còn
giữ vững trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền. Như
vậy, việc thực hiện quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá tạo ra sự phát
triển về mọi mặt, mọi lĩnh vực trong đời sống kinh tế xã hội.
8
2. Thực trạng công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta.
2.1. Quan điểm của Đảng ta về công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Ngày nay, nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội: “Đây là sự lựa chọn duy
nhất đúng đắn của Đảng và nhân dân ta”. Do thiếu một lực lượng sản xuất
phát triển vì thế cơ sở vật chất - kỹ thuật chưa phù hợp. Chừng nào cơ sở vật
chất chưa phù hợp thì đất nước ta chưa có chủ nghĩa xã hội hiện thực. Quá
trình xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật chính là quá trình thực hiện công
nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân. Văn kiện đại hội lần thứ VII

ban chấp hành trung ương khoá VII khẳng định quá trình công nghiệp hoá-
hiện đại hoá ở nước ta là: “Quá trình chuyển căn bản, toàn diện các hoạt động
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động
thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công
nghiệp, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển
của nông nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã
hội cao”.
Việc xác định đúng những quan điểm công nghiệp hoá - hiện đại hoá là
vấn đề rất quan trọng. Vì các quan điểm công nghiệp hoá - hiện đại hoá là cơ
sở cho việc định hướng và chỉ đạo, thực hiện các nội dung và bước đi của
công nghiệp hoá- hiện đại hoá.
Để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá cần phát triển
khoa học công nghệ. Vì thế, việc đưa khoa học công nghệ vào sản xuất và đời
sống là rất cần thiết đối với nước ta đồng thời phải xã hội hoá tri thức khoa
học công nghệ để mọi người có thể am hiểu và sử dụng chúng. Bên cạnh đó,
phải phát huy lợi thế của đất nước, tận dụng các thành tựu khoa học tiên tiến
và ứng dụng chúng trong đời sống để phát triển kinh tế.
Quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá là quá trình cải tiến lao động thủ
công lạc hậu thành lao động sử dụng máy móc, thực hiện cơ khí hoá trong sản
xuất. Từ đó, chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, có
9

×