Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Nghiên cứu và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu chè Việt Nam trong điều kiện hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (474.5 KB, 91 trang )

MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU

1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG

7

LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP XUẤT KHẨU
TRONG NỀN KINH TẾ HỘI NHẬP
1.1. Tổng quan về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh

7

1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh

13

1.3. Các tiêu chí phản ánh năng lực cạnh tranh

20

1.4 Kinh nghiệm của một số quốc gia thành công trong việc nâng cao năng lực

24

cạnh tranh của chè xuất khẩu và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
Chương 2: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC


29

DOANH NGHIỆP XUẤT KHẨU CHÈ VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
2.1. Vị trí, vai trò của ngành chè trong nền kinh tế

29

2.2. Đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành chè Việt

39

Nam
2.3. Thực trạng sản xuất kinh doanh của ngành chè Việt Nam

48

2.4. Đánh giá năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu chè Việt

54

Nam
Chương 3: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH

59

CỦA CÁC DOANH NGHIỆP XUẤT KHẨU CHÈ TRONG THỜI GIAN
TỚI
3.1. Định hướng phát triển ngành chè đến năm 2020


59

3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp

75

xuất khẩu chè Việt Nam
KẾT LUẬN

83

TÀI LIỆU THAM KHẢO

84

1


2


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 2.1: Thị trường tiêu dùng chè của thế giới, xếp theo thứ tự tăng dần

34

Bảng 2.2: Thị trường xuất khẩu chè năm 2014

53


3


KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT
AFTA
ASEAN
CBCNV
CCI
EC
EU
FAO
FDI
FTA
GATT
GCI
GDP
GSP
ISO
KN
KTQT
MTV
NN & PTNT
PTNT
TNHH
XK
VAT
SA 8000
WEF
WTO


Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
Cán bộ công nhân viên
Chỉ số năng lực cạnh tranh hiện hành
Cộng đồng Châu Âu
Liên minh Châu Âu
Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc

Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Hiệp định thương mại tự do
Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch
Chỉ số năng lực cạnh tranh tăng trưởng
Tổng sản phẩm quốc nội
Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập
Tiêu chuẩn quốc tế
Kim ngạch
Kinh tế quốc tế
Một thành viên
Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Phát triển nông thôn
Trách nhiệm hữu hạn
Xuất khẩu
Thuế giá trị gia tăng
Hệ thống trách nhiệm xã hội
Diễn đàn kinh tế thế giới
Tổ chức thương mại thế giới

4



5


LỜI MỞ ĐẦU
1.

Lý do lựa chọn đề tài
Xuất phát từ một nước nền nông nghiệp lâu đời Việt nam đang bước vào thời kỳ

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy,
phát triển nông nghiệp còn giữ vai trò rất quan trọng (cả về kinh tế lẫn xã hội), nhất là
trong giai đoạn tích lũy ban đầu, khi mà các nguồn lực đất đai, lao động, truyền thống sản
xuất...) và lợi thế so sánh đang nằm trong nông nghiệp, nông thôn, trong lúc công nghiệp
và dịch vụ chưa phát triển tới mức có thể tạo ra lượng công ăn việc làm chiếm tỷ trọng áp
đảo trong nền kinh tế quốc dân.
Trong số những chủng loại cây trồng, con-vật nuôi ở Việt nam, sản phẩm nông
nghiệp và có nguồn gốc từ nông nghiệp, cây chè và các sản phẩm từ cây chè có truyền
thống lâu đời, người dân trong nước và trên thế giới sử dụng khá rộng rãi. Bởi vậy, ngành
chè hiện nay đang có một vị trí nhất định trên thị trường trong nước và thế giới. Ngoài
ra, do đặc điểm sinh trưởng của cây chè rất phù hợp với những vùng đất trung du, miền
núi, nền về mặt xã hội nó còn là cây có ý nghĩa quan trọng giúp đồng bào vùng cao xóa
đói, giảm nghèo trên cơ sở tham gia vào các vùng sản xuất chè để xuất khẩu, tạo công ăn
việc làm cho lao động tại chỗ...
Trong những năm đổi mới cơ chế quản lý của toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói
chung, cũng như các ngành hàng nói riêng, ngành chè đã trải qua nhiều bước đổi mới,
hoàn thiện các mô hình quản lý theo hướng thích hợp hơn với cơ chế thị trường và bước
đầu đã thu được những thành tích nhất định, thể hiện trên nhiều mặt, như: tăng diện tích,
nâng cao năng suất, sản lượng, chất lượng, đa dạng hóa mặt hàng, mở rộng thị trường,
tăng giá trị xuất khẩu, xuất hiện nhiều nhân tố mới trong sản xuất, kinh doanh và quản lý

ngành chè...
Tuy nhiên, so với tiềm năng phát triển (điều kiện tự nhiên, lao động, công nghệ...);
cũng như so với khả năng phát triển ngành chè của một số nước trong khu vực có những
điều kiện tự nhiên, xã hội tương đồng, thì ngành chè Việt Nam chưa thực sự ngang tầm,
chưa có chỗ đứng vững chắc trên thị trường trong và ngoài nước. Điểm yếu tồn tại trong
xuất khẩu chè của Việt Nam trong nhiều năm qua là năng lực cạnh tranh chưa cao bởi
6


hạn chế về chất lượng sản phẩm, chủng loại thiếu đa dạng, năng suất thấp, chưa xây dựng
được chiến lược thương hiệu thật sự hiệu quả...Do vậy, tuy là nước đứng thứ 5 trên thế
giới về xuất khẩu chè nhưng giá trị gia tăng thấp, thiếu tính bền vững. Để góp phần giúp
cho ngành chè Việt Nam phát triển, gia tăng kim ngạch xuất khẩu trên cơ sở nâng cao
năng lực cạnh tranh, tác giả đã chọn vấn đề “Giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu chè Việt Nam trong điều kiện hiện nay” làm
đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở của Trường.
2.

Tình hình nghiên cứu

2.1.

Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Trên thế giới cũng đã có một số nghiên cứu của một số cá nhân và tổ chức liên

quan đến vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh. Các nghiên cứu về nâng cao lợi thế và
khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp trên thị trường có thể tổng kết thành 03 trường
phái với 03 cách tiếp cận khác nhau đó là:
- Trường phái nghiên cứu lợi thế cạnh tranh và định vị doanh nghiệp, điển hình là
các nghiên cứu của Micheal Porter (1980, 1985, 1986). Các nghiên cứu theo trường phái

này đưa ra nhiều mô hình phân tích về lợi thế cạnh tranh và định vị doanh nghiệp trên thị
trường nhưng nhược điểm là không đề cập đến cách thức mà doanh nghiệp cần phải làm,
các kỹ năng cần phải có để đạt được các lợi thế cạnh tranh.
- Các nghiên cứu của Barney (1991), Hamel and Prahalad (1994), teece, Pisano và
Shuen (1997) tập trung nghiên cứu về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên cơ sở
coi nguồn lực của doanh nghiệp như là yếu tố sống còn trong cạnh tranh. Các nghiên cứu
theo trường phái này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc khai thác nguồn lực doanh
nghiệp để có được lợi thế cạnh tranh
- Trường phái nghiên cứu quá trình hoạch định và triển khai chiến lược cạnh tranh
của các doanh nghiệp dựa trên cấu trúc doanh nghiệp và văn hóa doanh nghiệp. Trường
phái này tập trung nghiên cứu và phân tích quá trình kinh doanh, các phương pháp xây
dựng và hoạch định chiến lược kinh doanh chứ không đề cập đến định vị doanh nghiệp
và các hoạt động thực thi chiến lược. Điển hình các nghiên cứu thuộc trường phái này là

7


các nghiên cứu của các học giả Ghosal và Barret (1997), Collins và Porras (1994), Miller
và Whitney (1999), Peters (1991).
Mặc dù cũng đã có một số công trình nghiên cứu có liên quan đến vấn đề cạnh
tranh và nâng cao năng lưc cạnh tranh như trên nhưng cho đến hiện tại cũng chưa có một
nghiên cứu nào của các chuyên gia, nhà khoa học quốc tế về việc nâng cao năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu chè của Việt Nam. Những tài liệu liên quan mà các
tác giả ngoài nước nghiên cứu và công bố có giá trị tham khảo tốt để tác giả hoàn thành
báo cáo khoa học của đề tài này.
2.2.

Tình hình nghiên cứu ở trong nước
Trên thực tế đã có một số công trình nghiên cứu của các cá nhân, tổ chức Việt


Nam về việc nâng cao năng lực cạnh tranh nói chung và năng lực cạnh tranh của một số
sản phẩm xuất khẩu nói riêng, trong đó có sản phẩm chè như:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, mã số B2004-40-41 của nhóm tác giả ở
Trường Đại học ngoại thương do TS Nguyễn Hữu Khải làm chủ nhiệm với tựa đề: “Một
số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh mặt hàng chè xuất khẩu của Việt Nam
trong những năm đầu thế kỷ 21”. Đề tài này các tác giả đã khái quát về năng lực cạnh
tranh của mặt hàng chè xuất khẩu Việt Nam trong những năm cuối của thế kỷ 20, sau khi
Việt Nam đã tham gia là thành viên của một số tổ chức kinh tế như AFTA, WTO. Tuy
nhiên ở thời điểm này, sự hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế của thế giới còn nhiều
hạn chế, mới ở những bước đi đầu tiên. Đề tài của nhóm tác giả kể trên, sau khi đánh giá
năng lực cạnh tranh của mặt hàng chè xuất khẩu của Việt Nam đã đưa ra một số giải pháp
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng này trong những năm đầu tiên của thế
kỷ 21. Đề tài kể trên là một công trình nghiên cứu có giá trị tốt để chúng tôi thực hiện đề
tài nghiên cứu khoa học của mình như là một sự tiếp nối của giai đoạn tiếp theo mà đề tài
trên đã thực hiện. Cụ thể là đề tài của chúng tôi sẽ đánh giá ở phạm vi rộng hơn đó là
năng lực cạnh tranh ở cấp độ doanh nghiệp trong giai đoạn những năm đầu của thế kỷ 21,
từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
xuất khẩu chè của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2015 trở đi. Đây là giai đoạn có

8


những bối cảnh mới đó là sự hội nhập kinh tế của nước ta ngày càng sâu rộng, cộng đồng
kinh tế ASEAN dự kiến được thành lập, FTA giữa Việt Nam và EU cũng như giữa Việt
Nam và Hàn Quốc dự kiến được ký kết, TPP giữa Việt Nam và 20 nước thành viên của
khu vực Châu Á - Thái Bình Dương dự kiến cũng kết thúc đàm phán và ký kết.
- Đề tài luận văn tốt nghiệp đại học với tựa đề “Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu chè
tại Tổng công ty chè Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005”. Đề tài này có phạm vi nghiên cứu
trong phạm vi của Tổng công ty chè Việt Nam trong giai đoạn đầu thế kỷ 21. Nội dung
của đề tài cũng là những gợi ý tốt để chúng tôi tham khảo, phát triển mở rộng phạm vi

nghiên cứu không chỉ đối với các đơn vị thành viên của Tổng công ty chè Việt Nam mà
còn đối với các đơn vị sản xuất và xuất khẩu chè ngoài Tổng công ty, đồng thời giai đoạn
mà đề tài chúng tôi sẽ thực hiện là đánh giá năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
xuất khẩu chè Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2010 - 2014, trên cơ sở đó đề xuất các
giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp này sau năm 2015,
thời kỳ mà nền kinh tế của Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới.
Bên cạnh những đề tài kể trên còn có những đề tài có liên quan khác như: Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu
cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”
do PGS.TS Nguyễn Quốc Thịnh và nhóm tác giả Trường Đại học Thương mại thực hiện
năm 2006; Sách chuyên khảo “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện
toàn cầu hóa” của tác giả Trần Sửu - Trường Đại học Ngoại thương thực hiện năm 2005;
Sách chuyên khảo “Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Dệt May để thành
công tại thị trường EU” của tác giả Nguyễn Hoàng - Trường Đại học Thương mại thực
hiện năm 2006…Các công trình nghiên cứu khoa học kể trên đã đề cập đến năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp nói chung và một số doanh nghiệp thuộc ngành Dệt May,
Thủ công mỹ nghệ, Đồ gỗ, Nhựa gia dụng, Thủy sản, Hóa chất, Cơ khí, Dược nói riêng
mà không đề cập đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu chè Việt Nam.
Do đó, đây là những công trình nghiên cứu khoa học có giá trị về phương pháp luận khoa
học, là tài liệu tham khảo tốt về mặt lý luận để tác giả thực hiện đề tài nghiên cứu khoa
học của mình.
9


Tóm lại, mặc dù đã có một số công trình nghiên cứu khoa học có liên quan như đã
kể trên nhưng chưa có một nghiên cứu nào đầy đủ về việc nâng cao năng lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp xuất khẩu chè sau khi Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế
thế giới trong những năm gần đây, đặc biệt là những năm khủng hoảng kinh tế toàn cầu
và FTA giữa Việt Nam và Hàn Quốc đã được ký kết cũng như sắp tới một loạt hiệp định
khác sẽ dự kiến được ký kết trong tương lai gần bao gồm: Cộng đồng kinh tế ASEAN

(AEC), Hiệp định FTA giữa Việt Nam và EU, TPP giữa Việt Nam và 11 nước thành viên
lớn trên thế giới. Do vậy, cần phải có nghiên cứu đầy đủ về thực trạng năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu chè Việt Nam, từ đó đưa ra các giải pháp thích hợp
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu của các doanh nghiệp kinh doanh chè
của Việt Nam khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới kéo theo sự
cạnh tranh ngày càng trở lên gay gắt hơn, đòi hỏi phải tranh thủ khai thác những thuận lợi
và vượt qua những thách thức lớn.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích các “nút thắt” cạnh tranh của ngành

chè Việt Nam, trên cơ sở đó tìm ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu chè Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế
của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới ngày càng sâu rộng hơn. Để đạt được mục đích
trên, báo cáo nghiên cứu có các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận chung về cạnh tranh và
năng lực cạnh tranh xuất khẩu
- Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất
khẩu chè Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, chỉ rõ những điểm mạnh,
điểm yếu và nguyên nhân gây ra những điểm yếu đó
- Đề xuất các quan điểm và giải pháp, kiến nghị có cơ sở khoa học và có tính khả
thi nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu chè Việt Nam
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.

10


4.


Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là lý luận và thực tiễn về

năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu chè Việt Nam trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế.
Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong hoạt động xuất
khẩu chè và các biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu
chè Việt Nam. Cụ thể là:
Giới hạn nội dung: Tập trung nghiên cứu tình hình xuất khẩu và khả năng cạnh
tranh của các doanh nghiệpn xuất khẩu chè, không đi sâu nghiên cứu chi tiết những vấn
đề về kỹ thuật sản xuất, không nghiên cứu hoạt động tiêu thụ ở thị trường trong nước.
Giới hạn thời gian nghiên cứu: Đề tài chủ yếu tập trung phân tích, đánh giá thực
trạng xuất khẩu và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu chè từ năm 2011
đến nay.
5.

Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, tác giả lấy phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp

duy vật lịch sử làm phương pháp nghiên cứu chủ yếu, ngoài ra còn sử dụng các phương
pháp: Phương pháp so sánh, liên hệ; Phương pháp phân tích tổng hợp; Phương pháp
thống kê; Phương pháp chuyên gia, Phương pháp nghiên cứu tài liệu…
6.

Nội dung đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, sơ đồ,

bảng biểu, báo cáo đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp xuất khẩu trong nền kinh tế hội nhập

Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu chè
Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Chương 3: Giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp xuất khẩu chè Việt Nam trong thời gian tới

11


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP XUẤT KHẨU
TRONG NỀN KINH TẾ HỘI NHẬP
1.1.

TỔNG QUAN VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH

1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh
Các học thuyết về kinh tế thị trường, dù trường phái nào cũng đều thừa nhận rằng:
cạnh tranh chỉ xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế thị trường, nơi mà ở đó cung - cầu và
giá cả hàng hóa là những nhân tố cơ bản của thị trường, là đặc trưng cơ bản của cơ chế
thị trường, cạnh tranh là linh hồn sống của thị trường.
Cạnh tranh là một hiện tượng kinh tế - xã hội phức tạp, do cách tiếp cận khác
nhau, nên có các quan niệm khác nhau về cạnh tranh, đặc biệt là phạm vi của thuật ngữ
này. Chúng ta có thể dẫn ra như sau:
Theo Các Mác: “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư
bản để giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa nhằm thu
được lợi nhuận siêu ngạch”.
Theo Từ điển kinh doanh của Mariam Webster xuất bản năm 1992 thì: “Cạnh
tranh là sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm giành
cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình”.

Theo Từ điển Bách Khoa của Việt Nam thì: “Cạnh tranh (trong kinh doanh) là
hoạt động ganh đua giữa những người sản xuất hàng hóa, giữa các thương nhân, giữa các
nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, nó được chi phối bởi quan hệ cung cầu nhằm
giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất”.
Theo cuốn Kinh tế học của M.Samuelson thì: “Cạnh tranh là sự kình địch giữa các
doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để giành khách hàng, thị trường”.

12


Theo các tác giả của cuốn Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh
và kiểm soát độc quyền kinh doanh thì: “Cạnh tranh có thể được hiểu là sự ganh đua giữa
các doanh nghiệp trong việc giành một số nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng
cao vị thế của mình trên thị trường, để đạt được mục tiêu kinh doanh cụ thể”.
Từ nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm cạnh tranh, chúng ta có thể rút ra
những nội hàm cơ bản của cạnh tranh kinh tế:
Thứ nhất, khi nói đến cạnh tranh là nói đến sự ganh đua nhằm giành lấy phần
thắng của nhiều chủ thể cùng tham dự.
Thứ hai, mục đích trực tiếp của cạnh tranh kinh tế là nhắm vào một đối tượng cụ
thể nào đó mà các bên đều muốn giành giật (một cơ hội, một sản phẩm, dự án...); một
loạt điều kiện có lợi (một thị trường, một khách hàng...). Mục đích cuối cùng là kiếm
được lợi nhuận cao.
Thứ ba, cạnh tranh diễn ra trong một môi trường cụ thể, có các ràng buộc chung
mà các bên tham gia phải tuân thủ như: Đặc điểm sản phẩm, thị trường, các tiêu chuẩn
pháp lý, các thông lệ kinh doanh...
Thứ tư, trong quá trình cạnh tranh các chủ thể kinh doanh tham gia cạnh tranh trên
4 phương diện chủ yếu: Cạnh tranh giá trị sử dụng sản phẩm; Cạnh tranh giá bán sản
phẩm; Cạnh tranh về phân phối sản phẩm; Cạnh tranh về truyền thông và khuếch trương.
Từ những cách tiếp cận trên, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, khái niệm
cạnh tranh nên được hiểu như sau: Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể

kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu
kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như
các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất.
1.1.2. Năng lực cạnh tranh và các cấp độ cạnh tranh
Nếu hiểu cạnh tranh là cuộc ganh đua gay gắt, quyết liệt giữa các chủ thể kinh
doanh trên thị trường. Trong quá trình cạnh tranh với nhau, để giành được lợi thế về phía
mình, các chủ thể phải áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp nhằm duy trì và phát triển vị
13


thế của mình trên thị trường. Các biện pháp này thể hiện một sức mạnh nào đó của chủ
thểnhằm kiến tạo năng lực cạnh tranh của chủ thể đó. Khi muốn có khả năng duy trì vị
thế của một hàng hóa nào đó nói chung, hàng nông sản nói riêng trên thị trường, mà hàng
hóa này phải thuộc một doanh nghiệp nào đó, một nước nào đó thì người ta cũng dùng
thuật ngữ “sức cạnh tranh của hàng hóa”, đó cũng là thuật ngữ dùng để chỉ mức độ hấp
dẫn của hàng hóa đó đối với khách hàng. Như vậy, khi nghiên cứu sức cạnh cạnh tranh
của một mặt hàng nào đó, cần phải xem xét nó trong môi trường cạnh tranh năng lực
quốc gia, cạnh tranh ngành và doanh nghiệp.
1.1.2.1. Năng lực cạnh tranh quốc gia
Theo định nghĩa của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF - World Economic Forum)
thì năng lực cạnh tranh của một quốc gia là khả năng của một nền kinh tế có thể tạo ra
tăng trưởng bền vững trong môi trường kinh tế đầy biến động của thị trường thế giới.
Ngoài những yếu tố về vị trí địa lý kinh tế, tài nguyên thiên nhiên... năng lực cạnh tranh
của quốc gia chịu sự chi phối bởi các nhóm nhân tố:
- Nhóm 1: Mức độ mở của nền kinh tế, bao gồm độ mở của thương mại và đầu tư
(thuế quan và hàng rào phi thuế quan, chính sách xuất nhập khẩu, tỷ giá hối đoái, đầu tư
trực tiếp của nước ngoài).
- Nhóm 2: Vai trò và hoạt động của chính phủ (mức độ can thiệp của Nhà nước,
năng lực của Chính phủ, quy mô của Chính phủ, chính sách tài khóa, hệ thống thuế, lạm
phát).

- Nhóm 3: Các yếu tố về tài chính (khả năng hoạt động của trung gian tài chính,
rủi ro tài chính, hiệu quả cạnh tranh, đầu tư và tiết kiệm).
- Nhóm 4: Các yếu tố về công nghệ (năng lực công nghệ nội sinh, công nghệ
chuyển giao, mức độ đầu tư cho nghiên cứu và triển khai).
- Nhóm 5: Các yếu tố về kết cấu hạ tầng (chất lượng hệ thống giao thông vận tải,
mạng viễn thông, điện, nước, kho tàng và các phương tiện vật chất).
- Nhóm 6: Quản lý kinh doanh, quản lý nhân lực.
14


- Nhóm 7: Các yếu tố về lao động (số lượng lao động, trình độ tay nghề và năng
suất lao động, hiệu quả và tính linh hoạt của thị trường lao động, chương trình xã hội)
- Nhóm 8: Các yếu tố về thể chế (chất lượng của các thể chể pháp lý).
Từ năm 2000, WEF điều chỉnh lại các nhóm tiêu chí, gộp thành ba nhóm lớn để
đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia là: Sáng tạo kinh tế, khoa học công nghệ; tài
chính; quốc tế hoá. Trong đó, trọng số của sáng tạo kinh tế, khoa học công nghệ đã tăng
mạnh từ 1/9 lên 1/3, với hai chỉ số mới - chỉ số năng lực cạnh tranh tăng trưởng (Growth
Competitiveness Index - GCI) và chỉ số năng lực cạnh tranh hiện hành (Current
Competitiveness Index - CCI). Theo phân tích và đánh giá của WEF thì sức vươn lên
trong hội nhập, cạnh tranh của nền kinh tế nước ta chưa mạnh, trong khi xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế đang đặt ra yêu cầu rất cao đối với năng lực cạnh tranh của các quốc gia
và năng lực cạnh tranh của cấp quốc gia ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp.
Một số nhà kinh tế khác lại đưa ra khái niệm năng lực cạnh tranh của quốc gia dựa
trên năng suất lao động, M. Porter cho rằng: “Khái niệm có ý nghĩa nhất về năng lực cạnh
tranh ở cấp quốc gia là năng suất lao động”. Ông đề cao vai trò của doanh nghiệp trong
cạnh tranh quốc gia và cho rằng năng suất lao động trong một quốc gia phụ thuộc vào
khả năng của từng doanh nghiệp của nó đạt được các mức năng suất cụ thể và tăng được
mức năng suất đó như thế nào. Muốn duy trì và nâng cao được năng suất lao động, từng
doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất bằng cách nâng cao chất

lượng sản phẩm, cải tiến kỹ thuật, hạ thấp chi phí, bổ sung các đặc điểm cần thiết ... để
đáp ứng nhu cầu ngày càng khắt khe của thị trường trong và ngoài nước.
Uỷ ban về Cạnh tranh Công nghiệp Hoa kỳ đã đưa ra khái niệm “ở quy mô một
quốc gia, năng lực cạnh tranh được hiểu là mức độ mà ở đó, dưới các điều kiện thị trường
tự do và công bằng có thể sản xuất các hàng hóa và dịch vụ đáp ứng được đòi hỏi của thị
trường quốc tế, đồng thời duy trì và mở rộng thu nhập thực tế của nhân dân nước đó”.
Theo quan điểm này thì cạnh tranh của một quốc gia được hiểu là khả năng của quốc gia
đó đạt được những thành quả nhanh và bền vững về mức sống của người dân, có nghĩa là

15


đạt được các tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao được xác định bằng thay đổi của thu nhập bình
quân trên đầu người theo thời gian
Như vậy, dù có nhiều cách tiếp cận khác nhau nhưng đa số các quan niệm đều
thống nhất, năng lực cạnh tranh của quốc gia phụ thuộc vào khả năng khai thác các cơ hội
trên thị trường. Do đó, có thể hiểu, năng lực cạnh tranh của quốc gia là tổng thể sức
mạnh và ảnh hưởng của nền kinh tế quốc dân trong đời sống kinh tế quốc tế mà điều biểu
hiện rõ nhất là thương hiệu thương mại quốc gia được thế giới ngưỡng mộ, tín nhiệm.
1.1.2.2. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Về khái niệm này, phần lớn các tác giả đều gắn năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp với ưu thế của sản phẩm mà doanh nghiệp đưa ra thị trường hoặc gắn năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp với thị phần mà nó chiếm giữ thông qua khả năng tổ chức,
quản trị kinh doanh hướng vào đổi mới công nghệ, giảm chi phí nhằm duy trì hay gia
tăng lợi nhuận, bảo đảm sự tồn tại, phát triển bền vững của doanh nghiệp.
Do tính đa dạng và phức tạp của cạnh tranh kinh doanh, không thể có một khái
niệm cạnh tranh doanh nghiệp chung cho tất cả các loại hình doanh nghiệp. Trong điều
kiện và thực tế cạnh tranh của mình, thì doanh nghiệp phải tự định nghĩa năng lực cạnh
tranh cho mình. Song trên nhận thức chung nhất, chúng ta có thể xem xét năng lực cạnh
tranh doanh nghiệp trên 4 phương diện sau:

Một là, cạnh tranh phải đứng trên quan điểm khách hàng. Phải lấy yêu cầu và sự
thỏa mãn của khách hàng là chuẩn mực đánh giá sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Hai là, yếu tố cơ bản tạo nên sức mạnh trong việc thu hút khách hàng phải là thực
lực của doanh nghiệp. Thực lực này chủ yếu được tạo thành từ những ưu thế so sánh mà
doanh nghiệp cung ứng cho khách hàng.
Ba là, khi nói tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp luôn hàm ý so sánh với doanh
nghiệp hữu quan (các đối thủ cạnh tranh) cùng hoạt động trên thị trường. Muốn tạo nên
năng lực cạnh tranh thực thụ, thực lực của doanh nghiệp phải vượt trội lên đối thủ bằng
ưu thế riêng có của mình
16


Bốn là, các yếu tố tạo nên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có quan hệ ràng
buộc nhau. Một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh mạnh khi nó có khả năng thoả mãn
đầy đủ nhất tất cả những yêu cầu của khách hàng. Song khó có doanh nghiệp nào có được
yêu cầu này, thường thì có lợi thế về mặt này, lại có thế yếu về mặt khác. Bởi vậy, việc
đánh giá đúng đắn những mặt mạnh và mặt yếu của từng doanh nghiệp có ý nghĩa trọng
yếu với việc tìm các giải pháp tăng năng lực cạnh tranh.
Do đó, chúng ta có thể hiểu: năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp hiện thực lực
và lợi thế của doanh nghiệp so với các đối thủ khác trong việc thỏa mãn tốt nhất các đòi
hỏi của khách hàng để đạt mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp trong môi trường cạnh
tranh.
1.1.2.3. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm
Theo một số tác giả, năng lực cạnh tranh của sản phẩm là sự vượt trội của nó (về
các chỉ tiêu) so với sản phẩm cùng loại do các đối thủ khác cung cấp trên cùng một thị
trường. Khái niệm này cho thấy, việc xác định sản phẩm có năng lực cạnh tranh hay
không trên thị trường, là xác định mức độ tin cậy của người tiêu dùng đối với sản phẩm
về chất lượng, giá cả, công nghệ chế tạo, dịch vụ sau bán hàng... so với sản phẩm cùng
loại mà đối thủ khác cung cấp trên cùng một thị trường. Biểu hiện tập trung nhất là uy tín
thương hiệu sản phẩm.

Một số tác giả khác lại cho rằng: một hàng hóa được coi là có sức cạnh tranh khi
nó đáp ứng được nhu cầu của khách hàng về chất lượng, giá cả, tính năng, kiểu dáng, tính
độc đáo hay sự khác biệt, thương hiệu, bao bì ... hơn hẳn so với các hàng hóa cùng loại.
Hay nói cách khác, sức cạnh tranh của hàng hóa được hiểu là tất cả những đặc điểm, yếu
tố, tiềm năng mà hàng hóa đó có thể duy trì và củng cố chỗ đứng của mình trên thị trường
trong một thời gian dài. Sức cạnh tranh của hàng hóa còn được thể hiện thị phần của mặt
hàng đó trên thị trường, hay nói cách khác đó là sức mua đối với hàng hóa đó trên thị
trường, là mức độ chấp nhận của người tiêu dùng.

17


Như vậy, mặc dù vẫn chưa thống nhất khái niệm, song có thể hiểu rằng, năng lực
cạnh tranh của sản phẩm được cấu thành bởi các yếu tố chính như: tính hữu dụng thay thế
cho công dụng kinh tế của một loại sản phẩm so với sản phẩm tương tự của doanh nghiệp
khác: yếu tố về chất lượng của sản phẩm; yếu tố về giá cả của sản phẩm. Và các yếu tố
khác như: kiểu dáng, tính năng sử dụng, kiểu dáng, mẫu mã, hình thức độc đáo hay sự
khác biệt, thương hiệu, bao bì của sản phẩm, phương thức tiêu thụ, quảng cáo, bán hàng...
Tóm lại, các cấp độ năng lực cạnh tranh có mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau,
tạo điều kiện cho nhau, chế định nhau và phụ thuộc lẫn nhau. Một nền kinh tế có năng
lực cạnh tranh quốc gia cao phải có nhiều doanh nghiệp có sức cạnh tranh, ngược lại để
tạo điều kiện cho doanh nghiệp có sức cạnh tranh, môi trường kinh doanh của nền kinh tế
phải thuận lợi, các chính sách kinh tế vĩ mô phải rõ ràng, có thể dự báo được, nền kinh tế
phải ổn định, bộ máy Nhà nước phải trong sạch, hoạt động có hiệu quả, có tính chuyên
nghiệp.
Mặt khác, tính năng động, nhạy bén trong quản lý doanh nghiệp cũng là một yếu
tố quan trọng, vì trong cùng một môi trường kinh doanh có doanh nghiệp rất thành công
trong khi doanh nghiệp khác lại thất bại. Là tế bào của nền kinh tế nên sức cạnh tranh của
doanh nghiệp tạo cơ sở cho năng lực cạnh tranh quốc gia.
Đồng thời, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng thể hiện qua năng lực cạnh

tranh của các sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. Doanh nghiệp có thể
kinh doanh một hay một số sản phẩm và dịch vụ có năng lực cạnh tranh. Ngược lại, năng
lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá lại được định đoạt bởi năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp. Sẽ không có năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá cao khi năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sản phẩm đó thấp.
1.2.

NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NĂNG LỰC CẠNH TRANH

1.2.1. Nhóm nhân tố bên ngoài
Như đã đề cập ở trên, sức cạnh tranh của doanh nghiệp là năng lực nội sinh (bên
trong) của doanh nghiệp đứng trước cơ hội và thách thức của môi trường kinh doanh và
áp lực cạnh tranh từ phía thị trường.
18


Tuy nhiên, những khả năng này lại bị tác động đồng thời bởi nhiều yếu tố bên
ngoài ở trong nước và quốc tế. Vì vậy, khi phân tích tới các yếu tố cấu thành và ảnh
hưởng đến sức cạnh tranh của doanh nghiệp, phải đề cập tới các nhân tố tác động bên
ngoài.
1.2.1.1. Những nhân tố vĩ mô
Nhân tố kinh tế: Đây là nhóm các nhân tố và điều kiện ràng buộc rất phong phú.
Môi trường chính sách thị trường và các chính sách kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng quan
trọng đến thách thức, ràng buộc nhưng đồng thời lại là nguồn khai thác cơ hội hấp dẫn
đối với mỗi doanh nghiệp.
Nhân tố chính trị, pháp luật: Một thể chế chính trị, luật pháp rõ ràng, rộng mở và
ổn định sẽ là cơ sở đảm bảo sự thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp nói chung,
doanh nghiệp xuất khẩu chè nói riêng tham gia cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả.
Nhân tố khoa học và công nghệ: Đối với những nước chậm và đang phát triển, giá
và chất lượng có ý nghĩa ngang nhau trong cạnh tranh. Tuy nhiên, trên thế giới hiện nay,

xu hướng cạnh tranh đang chuyển dần từ cạnh tranh về giá sang cạnh tranh về chất lượng,
cạnh tranh giữa các sản phẩm và dịch vụ có hàm lượng khoa học công nghệ cao. Kỹ thuật
và công nghệ mới sẽ giúp cho các cơ sở sản xuất trong nước trang bị và tái trang bị toàn
bộ cơ sở sản xuất kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân. Đây là tiền đề để các doanh nghiệp
ổn định và nâng cao sức cạnh tranh của mình trên thị trường trong nước và quốc tế. Do
gặp khó khăn về vốn nên phần lớn doanh nghiệp sản xuất chè Việt Nam đang phải sử
dụng thiết bị công nghệ chưa đồng bộ, còn lạc hậu tới trên dưới 20 năm nên ảnh hưởng
tới năng suất và chất lượng sản phẩm.
Nhân tố nhân khẩu học: Đây là nhân tố tạo lập quy mô thị trường, được đề cập trên
các khía cạnh: Quy mô và tốc độ tăng trưởng dân số; cơ cấu dân số; những thay đổi trong
gia đình và di chuyển nơi cư trú; những thay đổi trong phân phối lại thu nhập; trình độ
học vấn; nghề nghiệp của các tầng lớp dân cư.
Nhân tố tự nhiên: Là một yếu tố đầu vào hết sức quan trọng của nhiều ngành kinh
tế như: nông nghiệp, công nghiệp khai khoáng, du lịch, vận tải, chế biến...Trong rất nhiều
19


trường hợp, chính các điều kiện tự nhiên trở thành một yếu tố rất quan trọng để hình
thành lợi thế cạnh tranh của các sản phẩm và dịch vụ. Bên cạnh đó, nhân tố tự nhiên còn
tác động làm thay đổi nhu cầu của khách hàng nên các nhà sản xuất kinh doanh phải chú
ý tới yếu tố này để tạo ra những sản phẩm phù hợp.
Nhân tố văn hóa - xã hội: Đây là nhóm yếu tố quan trọng tạo lập nên những chuẩn
mực về nhân cách, đạo đức, thẩm mỹ, lối sống, phong tục tập quán, thị hiếu thói quen,
trình độ nhận thức của người tiêu dùng, nó mang tính bền vững cao và tác động trong
phạm vi rộng nên là cơ sở để cho các nhà quản lý lựa chọn và điều chỉnh các quyết định
kinh doanh.
Nhân tố quốc tế: Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế thì chiến lược kinh
doanh và cạnh tranh của doanh nghiệp cho dù kinh doanh ở thị trường trong nước hay
trên thị trường nước ngoài cũng đều bị chi phối bởi những vấn đề chung của quan hệ và
môi trường kinh tế - chính trị quốc tế. Khi mối quan hệ giữa các quốc gia trở nên thù

địch, thì sự mâu thuẫn giữa hai Chính phủ có thể hoàn toàn phá hủy các mối quan hệ kinh
tế giữa hai nước. Ngược lại, nếu mối quan hệ chính trị song phương được cải thiện sẽ
thúc đẩy thương mại phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh.
1.2.1.2. Những nhân tố vi mô
Các nhân tố vi mô có phạm vi ảnh hưởng hẹp và không tương tự nhau đối với
những doanh nghiệp hoạt động trong cùng ngành và cùng thị trường kinh doanh. Trong
cùng một ngành kinh doanh, các doanh nghiệp cùng tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có
thể thay thế lẫn nhau nhằm đáp ứng cùng một nhu cầu nào đó của người tiêu dùng.
Theo Michael Poter, trong tác phẩm “Lợi thế cạnh tranh” (1985) và “Chiến lược
cạnh tranh” (1980) đã đưa ra mô hình 5 lực lượng cạnh tranh trong ngành kinh doanh bao
gồm (xem Hình 1.1):
Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn. Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn là các doanh nghiệp hiện
nay chưa xuất hiện trên thị trường nhưng có khả năng cạnh tranh trong tương lai. Khả
năng cạnh tranh của đối thủ này được đánh giá qua việc rào cản ngăn chặn việc gia nhập
vào ngành, có nghĩa là một doanh nghiệp phải tốn kém nhiều hay ít để tham gia vào
20


ngành kinh doanh. Nếu phí tổn gia nhập ngành càng cao, rào cản ngăn chặn gia nhập sẽ
càng cao và ngược lại.
CÁC ĐỐI THỦ TIỀM ẨN

Nguy cơ đe doạ từ
những đối thủ cạnh tranh mới

NGƯỜI
CUNG
ỨNG

Quyền lực


CÁC ĐỐI THỦ CẠNH TRANH
TRONG NGÀNH

Thương lượng
Của người
cung ứng

Quyền lực
Thương lượng

CUỘC CẠNH TRANH GIỮA
CÁC ĐỐI THỦ HIỆN TẠI

NGƯỜI
MUA

Của người
mua

Nguy cơ đe doạ từ các sản phẩm,
dịch vụ thay thế
SẢN PHẨM THAY THẾ

Hình 1.1: Các lực lượng điều khiển cuộc cạnh tranh trong ngành
Sức ép của các đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngành: Là các doanh nghiệp đã
có vị thế chắc chắn trên thị trường cùng ngành kinh doanh, nếu mức cạnh tranh giữa họ
càng cao, giá bán sẽ càng giảm, đưa đến mức lợi nhuận giảm. Do đó, cạnh tranh về giá
bán là nguy cơ đối với doanh nghiệp.
Sức ép của nhà cung ứng: Nhà cung cấp là chỉ những cá nhân hay tổ chức cung

ứng các loại yếu tố đầu vào cho doanh nghiệp như: nguyên liệu, vật liệu, bán thành phẩm
hay dịch vụ cho doanh nghiệp; lao động; máy móc thiết bị kỹ thuật hay tiền vốn cho
doanh nghiệp. Giữa các nhà cung cấp và doanh nghiệp thường diễn ra các cuộc thương
lượng về giá cả, chất lượng và thời hạn giao hàng. Các nhà cung ứng có thế lực mạnh khi
họ có những điều kiện sau: khi họ độc quyền cung cấp một loại vật tư thiết yếu cho
doanh nghiệp thì khả năng tác động của họ rất lớn; khi doanh nghiệp không phải là khách
hàng quan trọng của nhà cung cấp; khi loại vật tư mà họ cung cấp lại là yếu tố đầu vào

21


quan trọng quyết định rất lớn đến hiệu quả sản xuất - kinh doanh, hoặc đến chất lượng
sản phẩm của doanh nghiệp thì khi đó nhà cung cấp sẽ có thế lực đáng kể đối với doanh
nghiệp. Các nhà cung ứng thường gây sức ép đối với doanh nghiệp trong những tình
huống như: Nhà cung ứng có lợi thế hơn nếu họ độc quyền cung cấp vật tư; Khi sản
phẩm của nhà cung ứng là đầu vào quan trọng, quyết định lớn đến hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp; Khi các vật tư được cung cấp không có khả năng thay thế;
Khi doanh nghiệp không phải là khách hàng quan trọng của nhà cung ứng; Khi nhà cung
ứng có khả năng khép kín sản xuất hay thực hiện chính sách liên kết dọc.
Nếu mối quan hệ giữa nhà cung ứng và doanh nghiệp là tốt, thân thiện thì các doanh
nghiệp sẽ có nguồn nguyên liệu ổn định, từ đó giúp cho quá trình sản xuất kinh doanh
được diễn ra nhịp nhàng, đồng bộ, và đúng kế hoạch. Nếu số lượng nhà cung ứng cho các
doanh nghiệp nhiều hơn thì nguy cơ rủi ro, và phụ thuộc vào các nhà cung ứng của các
doanh nghiệp cũng giảm bớt. Do đó, sự đa dạng về nguồn cung ứng cũng như tìm kiếm
được nhà cung ứng đủ tiềm lực là vấn đề sống còn và quyết định đến thành công của bất
kì doanh nghiệp nào..
Sức ép của khách hàng: Khách hàng là danh từ chung để chỉ những người hay tổ
chức mua sản phẩm hay dịch vụ của doanh nghiệp. Khách hàng bao gồm: người tiêu
dùng trực tiếp; các trung gian phân phối (các nhà bán sỉ, bán lẻ và đại lý); khách hàng
công nghiệp, khách hàng cơ quan. Nếu khách hàng là người mua với khối lượng lớn so

với doanh thu của toàn bộ ngành, khi đó họ sẽ có quyền ép giá nhất định.
Khi sản phẩm của doanh nghiệp cung cấp chiếm một tỷ trọng lớn và quyết định
đến thu nhập, tổng chi phí của doanh nghiệp thì họ cũng sẽ tìm cách gây sức ép đối với
doanh nghiệp để được lợi; Khi khách hàng không bị ràng buộc và có thể chuyển sang
mua sản phẩm của các doanh nghiệp khác với giá rẻ hơn một cách dễ dàng thì các doanh
nghiệp trong ngành tìm cách đối phó với nhau và buộc phải giảm giá hàng loạt; Khi
khách hàng có thu nhập thấp thường tạo áp lực buộc các doanh nghiệp sản xuất cung cấp
với giá rẻ hơn; Khi khách hàng có đủ thông tin về nhu cầu, giá cả trên thị trường, về chi
phí của người sản xuất thì khả năng ép giá của họ càng mạnh.

22


Sự xuất hiện các sản phẩm thay thế: Những sản phẩm thay thế cũng là một trong
những lực lượng tạo nên sức ép cạnh tranh lớn đối với các doanh nghiệp trong ngành. Sự
sẵn có của các sản phẩm thay thế trên thị trường là mối đe doạ trực tiếp đến khả năng
phát triển, khả năng cạnh tranh và mức lợi nhuận của các doanh nghiệp. Đặc biệt những
sản phẩm có có xu hướng thay thế hoàn toàn sản phẩm của doanh nghiệp đang kinh
doanh thì khi đó doanh nghiệp còn đứng trước nguy cơ đe dọa sự tồn tại của doanh
nghiệp, ngành. Việc phải đối mặt với các sản phẩm thay thế trở thành vấn đề chung của
toàn ngành.
Nói tóm lại, khi đánh giá các nhân tố tác động đến sức cạnh tranh thì các doanh
nghiệp cần phải xem xét đầy đủ các nhân tố tác động, từ đó mà sàng lọc để tìm ra các
biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho chính các doanh nghiệp.
1.2.2. Nhóm nhân tố bên trong
Như đã đề cập ở trên, cạnh tranh trong thương trường không phải là loại trừ đối
thủ của mình, mà chính là phải mang lại cho khách hàng những giá trị cao hơn hoặc mới
lạ hơn để khách hàng lựa chọn mình chứ không lựa chọn người khác.
Cạnh tranh không phải chỉ là những hành động mang tính thời điểm mà là cả một
quá trình tiếp diễn không ngừng: khi các doanh nghiệp đều phải đua nhau để phục vụ tốt

nhất khách hàng thì điều đó có nghĩa là doanh nghiệp phải thường xuyên mang lại giá trị
gia tăng về lợi ích khách hàng.
Xuất phát từ đặc điểm và nội dung hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, có thể
xác định các nhân tố bên trong chủ yếu trực tiếp ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của
doanh nghiêp như sau:
Chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Chiến lược kinh doanh thực chất là
chiến lược cạnh tranh. Thể hiện tư duy, tầm nhìn, sức mạnh và hệ thống giải pháp cạnh
tranh thị trường.
Năng lực tài chính: Phải có sự bảo đảm cần thiết về năng lực tài chính thì mới có
thể duy trì được lợi thế cạnh tranh. Khả năng thanh khoản luôn là thách thức đối với các
23


doanh nghiệp, vì vậy một nền tảng tài chính vững chắc là nhân tố quan trọng để tạo lập vị
thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
Năng lực quản lý và điều hành kinh doanh: Chất lượng của bộ máy quản lý doanh
nghiệp, đặc biệt là đội ngũ quản trị cấp cao là nhân tố có ý nghĩa quyết định trong thành
bại của doanh nghiệp trên thị trường.
Năng lực Marketing: Hoạt động tiếp thị trước hết là thu thập và xử lý thông tin về
thị trường mua, bán, thông tin về tâm lý và thị hiếu khách hàng, về giá cả, đối thủ cạnh
tranh,... có ý nghĩa quan trọng đến việc ra quyết định kinh doanh của doanh nghiệp. Phát
động thị trường, định vị sản phẩm, định vị thương hiệu, tạo nên hiệu ứng tích cực của thị
trường cũng là nhân tố rất quan trọng tạo nên năng lực cạnh tranh thị trường của doanh
nghiệp.
Khả năng liên kết và hợp tác với các doanh nghiệp khác: Tình trạng tranh mua
tranh bán ở thị trường nội địa, tranh bán tranh mua trên thị trường thế giới sẽ đưa tới chỗ
giảm đáng kể sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Do đó, cần phát huy vai trò của các hiệp
hội ngành hàng, tạo thành sự hiệp đồng chặt chẽ khi đưa sản phẩm ra thị trường thế giới.
Đảm bảo chữ tín trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt có ý nghĩa quan trọng hàng
đầu. Những hành động bất tín, gian lận,...chỉ có thể đem lại lợi ích nhỏ nhoi trước mắt,

song về lâu dài sẽ mất bạn hàng và chỗ đứng trên thị trường.
Trình độ công nghệ: Công nghệ sản xuất có ảnh hưởng một cách sâu sắc tới sức
cạnh tranh của doanh nghiệp. Vì nó trực tiếp tác động đến chất lượng và giá thành sản
phẩm.
Chất lượng đội ngũ lao động: Trình độ tay nghề, chuyên môn nghiệp vụ của người
lao động và lòng hăng say làm việc của họ là một yếu tố tác động mạnh mẽ đến sức cạnh
tranh của doanh nghiệp. Bởi vì khi tay nghề cao, chuyên môn cao lại cộng thêm lòng
hăng say nhiệt tình lao động thì tăng năng suất lao động là tất yếu. Đây là tiền đề để
doanh nghiệp có thể tham gia và đứng vững trong cạnh tranh.

24


Tinh thần doanh nghiệp: Sức mạnh của doanh nghiệp không phải chỉ tồn tại trong
một số cá nhân hay một nhóm mà trong sự đoàn kết, nhất trí hết mình vì sự phát triển của
doanh nghiệp. Tinh thần doanh nghiệp hội tụ bản lĩnh và ý chí tập thể.
Quản trị chi phí thấp sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh, đặc biệt
tiết kiệm các nguồn lực một cách tối đa sẽ giúp cho doanh nghiệp hạ giá thành sản phẩm.
Chấp nhận mạo hiểm, rủi ro trong kinh doanh: Chấp nhận mạo hiểm cũng là một
năng lực, một phẩm chất của các nhà kinh doanh. Vượt qua và thành công sẽ tạo ra vị thế
mới, sinh khí mới cho doanh nghiệp. Có thể nói cạnh tranh là một cuộc chơi của những
người dám chấp nhận mạo hiểm.
Tóm lại, các nhân tố bên trong của doanh nghiệp có ý nghĩa quyết định và bảo
đảm tính bền vững đối với năng lực cạnh tranh thị trường của doanh nghiệp. Tuy nhiên, ở
mỗi doanh nghiệp không thể hội đủ các yếu tố cạnh tranh mà vấn đề là mỗi doanh nghiệp
phải xác định rõ các yếu tố cơ bản, cốt lõi để phát huy và tạo lập ưu thế cạnh tranh của
mình trên thị trường.
1.3. CÁC TIÊU CHÍ PHẢN ÁNH NĂNG LỰC CẠNH TRANH
1.3.1. Thị phần và tốc độ tăng thị phần
Thị phần là thị trường (khách hàng) mà doanh nghiệp đang “sở hữu” (thị trường

được đo bằng tỷ lệ %)
Thị phần được coi là một chỉ tiêu để đo lường vị thế, sức mạnh của doanh nghiệp
trên thị trường. Vị thế của doanh nghiệp càng cao chứng tỏ thị phần của doanh nghiệp
càng cao, điều đó cũng đồng nghĩa với khả năng cạnh tranh cao của doanh nghiệp. Bởi
thực chất năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp là khả năng duy trì và phát triển thị
phần. Nếu các doanh nghiệp có phạm vi thị trường nhỏ hẹp thì phản ánh doanh nghiệp
đang bị chèn ép, thị phần bị thu hẹp bởi các đối thủ cạnh tranh.

25


×