Tải bản đầy đủ (.docx) (57 trang)

LUẬT BÓNG CHUYỀN FULL

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (651.14 KB, 57 trang )

LUẬT BÓNG CHUYỀN
Luật chơi[sửa | sửa mã nguồn]

Sân bóng chuyền
Sân thi đấu[sửa | sửa mã nguồn]
Bóng chuyền được chơi trên sân:
- Chiều dài: 18m (59 feet)
- Chiều rộng: 9m (29.5 feet)
Sân được chia thành hai nửa 9m × 9m bởi một lưới đặt giữa sân.
Kích thước lưới:
- Rộng: 1m (40-inch)
- Mép trên cao: 2,43m (7 feet 11 5/8 inches) đối với nam và 2,24m (7 feet 4
1/8 inches) đối với nữ
1

1


Lưu ý: chiều cao này có thể thay đổi đối với từng giải đấu chuyên nghiệp
và nghiệp dư.
Có một vạch song song và cách lưới 3m trên phần sân của mỗi đội, được
xem là "vạch tấn công". Vạch "3m" (hoặc 10 foot) này chia phần sân mỗi
đội thành "hàng trước" và "hàng sau" (cũng có thể gọi là sân trước và sân
sau). Lần lượt ta có 3 khu vực: được đánh số như dưới đây, bắt đầu từ
khu "1", là vị trí của người giao bóng.

Sự di chuyển người chơi
Sau khi giành được quyền giao bóng (còn được gọi là siding out), các
thành viên của đội phải di chuyển theo chiều kim đồng hồ, với người chơi
lúc trước ở vị trí "2" di chuyển tới vị trí "1" và lần lượt như vậy, người chơi
ở vị trí "1" di chuyển tới vị trí "6".


Sân được bao quanh bởi một diện tích gọi là vùng tự do, rộng ít nhất là 3m
và là nơi người chơi có thể vào và đánh bóng sau khi phát bóng. [9] Mọi
vạch thể hiện đường biên của sân và vùng tấn công được vẽ hoặc sơn
trong phạm vi kích thước của sân. Nếu bóng chạm vào vạch thì được xem
như là ở trong. Có một cọc nhỏ đặt tại nơi trực giao của lưới và đường
biên và được xem là đường biên đứng. Bóng chỉ thực sự qua lưới nếu
vượt được qua giữa hai cọc này (hay đường kéo dài vuông góc của nó tới
trần nhà) mà không chạm vào chúng.
Bóng[sửa | sửa mã nguồn]
Bài chi tiết: Bóng chuyền (bóng)
Quy định của FIVB (liên đoàn bóng chuyền thế giới) về bóng thi đấu:
1.
2

Chất liệu: da hoặc da nhân tạo với khí nén bên trong
2


2.
3.
4.

Chu vi: 65–67 cm
Trọng lượng: 260–280 g
Áp lực bên trong bóng: 0.30–0.325 kg/cm2.[10]

Một vài nơi khác cũng có quy định tương tự.
Cách chơi[sửa | sửa mã nguồn]
Có 2 đội chơi, mỗi đội gồm sáu người. Để bắt đầu trận đấu, đội giành
quyền giao bóng được quyết định bằng cách tung đồng xu. Người chơi

ở đội giao bóng (người giao bóng) tung quả bóng lên và cố gắng đánh
bóng sao cho nó vượt qua lưới và chạm đất trong phần sân của đối
phương. Đội bên kia phải phối hợp với nhau sao cho đưa bóng ngược
trở lại qua lưới với nhiều nhất là 3 lần chạm bóng (không kể một lần
chắn bóng). Những lần chạm bóng đó thường là "bump" (tâng bóng)
hay "pass" (bắt bước 1) để khống chế những đường bay của bóng và
chuyền cho người kiến tạo đợt tấn công "setter" (chuyền 2); bước tiếp
theo (thường là những quả chuyền bóng bằng cổ tay đẩy bóng bằng
ngón tay) người kiến tạo đợt tấn công chuyền bóng cho người thực
hiện đợt tấn công "attacker" để người này đập bóng; và cuối cùng là
người thực hiện đợt tấn công, người mà "spike" (đập bóng) (nhảy cao
lên không trung, giơ một tay cao trên đầu và đập bóng để bóng bay
nhanh và mạnh xuống mặt đất phần sân đối phương) đánh trả bóng
qua lưới. Đội khống chế bóng mà đang thực hiện đợt tấn công như đã
miêu tả ở trên được gọi là ở trạng thái "offense" (tấn công).
Đội đang ở trạng thái "defense" (phòng thủ) cố gắng ngăn chặn đối
phương đánh bóng trực diện xuống phần sân của mình: người chơi
đứng trên lưới nhảy lên và đưa tay lên cao hết mức có thể (nếu được,
có thể đưa tay qua phần sân bên kia) để "block" (chắn banh) quả banh
đối phương. Nếu banh xuống gần đến mặt đất, vượt qua hàng chắn,
những người còn lại của đội phòng thủ có thể cố gắng chặn bóng không
cho chạm mặt đất bằng cách "dig" (đào) (thường là dùng tay thuận để
chuyền hoặc lái một cách khó khăn trái banh). Sau khi đào thành công,
đội chuyển sang thế tấn công.
Trò chơi tiếp tục như trên, đỡ và đánh bóng trở lại bên kia, đến khi bóng
chạm đất hoặc người chơi phạm lỗi. Lỗi thường gặp nhất là không thể
đưa được bóng qua phần sân đối phương sau 3 lần chạm bóng, hay
làm bóng chạm mặt đất bên ngoài phần sân thi đấu. Quả bóng được
tính "in" (trong sân) nếu bất kì phần nào của trái bóng chạm đất từ vạch
3


3


biên và vạch cuối sân trở vào, và một cú đập mạnh có thể làm biến
dạng quả bóng đến nỗi khi chạm đất tưởng như nó ra ngoài thì thực sự
nó lại trong sân. Người chơi có thể khống chế bóng từ ngoài sân nếu
bóng bay ra ngoài phần sân thi đấu.
Các lỗi thường gặp khác là người chơi chạm bóng liên tục 2 lần (trừ 1
lần chắn bóng), người chơi "catching" (cầm bóng), chạm lưới trước khi
lượt banh kết thúc, hay đưa bất kì bộ phận cơ thể nào qua dưới lưới
sang phần sân đối phương. Có rất nhiều lỗi được định nghĩa trong luật
chơi, hầu hết là các lỗi hiếm gặp. Những lỗi này thường là hàng sau
hay libero đập banh hay chắn banh (người chơi ở hàng sau có thể tham
gia tấn công nếu họ nhảy đập banh từ sau vạch 3 mét), người chơi
không ở đúng vị trí khi trái bóng được giao, tấn công cú giao bóng trực
diện hoặc trên lưới, sử dụng người chơi khác để chơi bóng, đạp vạch
biên cuối sân khi giao bóng, thời gian giao bóng quá 8 giây hay giao
bóng trước khi trọng tài cho phép,[11] hay chơi bóng khi bóng còn đang ở
phần sân đối phương.
Tính điểm[sửa | sửa mã nguồn]
Khi bóng chạm đất bên trong phần sân quy định hay có người phạm lỗi,
đội không phạm lỗi được tính 1 điểm, dù họ giao banh hay không. Nếu
bóng chạm vạch, trái bóng đó được tính trong sân. Đội mà giành được
điểm sẽ giao banh ở lượt tiếp theo. Nếu đội ghi điểm không giao trái
banh trước đó, thì các thành viên trong đội phải quay vòng vị trí theo
chiều kim đồng hồ. Trò chơi tiếp tục, với đội nào đạt 25 điểm trước (và
hơn đối phương tối thiểu 2 điểm) thắng set đấu đó. Trận đấu theo thể
thức đánh 5 ăn 3 và nếu phải đánh đến set thứ 5 thì đội chiến thắng set
chỉ cần đạt 15 điểm trước (vẫn phải cách đối phương 2 điểm) sẽ là đội

thắng trận. (Cách tính điểm khác với từng giải đấu và cấp độ; giải ở các
trường cấp 3 thường chỉ đánh 3 set ăn 2; giải NCAA) vẫn đánh đến 25
điểm trong cả 5 set ở mùa giải 2008.) [12]
Trước 1999, điểm số có thể được ghi chỉ khi đội ghi điểm là đội giao
bóng và mỗi set chỉ đánh đến 15 điểm. FIVB thay đổi bộ luật vào năm
1999 (với việc thay đổi bắt buộc vào năm 2000) sang sử dụng bộ luật
hiện tại (thường được biết dưới tên "rally point system" (hệ thống tính
điểm theo lượt đánh), chính thức làm cho mỗi trận đấu có thể tính toán
được thời gian cùng với dễ dự đoán và thân thiện với việc phát sóng
trên truyền hình.
4

4


Libero[sửa | sửa mã nguồn]
Năm 1998, vị trí libero được giới thiệu rộng rãi trên toàn thế giới.
[13]
Libero là vị trí có kĩ năng phòng thủ đặc biệt: libero phải mặc đồ
tương phản khác hẳn với các vị trí còn lại trên sân và không được phép
chắn bóng hay tấn công khi bóng nằm hoàn toàn trên mép lưới. Khi
lượt đấu chưa bắt đầu, libero được quyền thay người cho bất kì vị trí
nào ở hàng sau của đội, mà không cần thông báo với trọng tài, Việc
thay người này không được tính vào giới hạn số lần thay người trong
một set của mỗi đội, mặc dù libero có thể chỉ thay thế cho 1 người duy
nhất của đội.
Libero có thể được chơi như ở vị trí chuyền 2 với một giới hạn nhất
định. Nếu libero chuyền bóng cao hơn tay thì phải đứng sau vạch 3 mét
(không được phép đạp lên vạch); nếu không, trái bóng không được
phép dùng để tấn công trước vạch 3 mét. Chuyền bóng dưới tay có thể

được thực hiện ở bất kì vị trí nào trên sân. Libero thông thường là
người giỏi kĩ năng phòng thủ nhất trong đội. Ngoài ra, còn có một bảng
theo dõi các libero của trọng tài để kiểm soát libero nào thực hiện thay
người. Có thể chỉ có duy nhất 1 libero trong 1 set (game), nhưng cũng
có thể có nhiều libero khác nhau trong mỗi set đấu mới (game mới).
Thêm nữa, libero thường không được phép giao banh, theo bộ luật
quốc tế, trừ giải NCAA của nữ, đến khi bộ luật sửa đổi năm 2004 cho
phép libero được phát bóng, nhưng chỉ trong trường hợp quay vòng
đặc biệt. Điều này chỉ chấp thuận đối với 1 người duy nhất mà libero thế
chỗ, không phải tất cả những ai mà libero có thể thế chỗ). Bộ luật thay
đổi đã cho phép các trường cấp 3 và cấp 2 chơi ngay sau đó.
Kỹ thuật tấn công duy nhất của Libero khi thi đấu trong nhà có lẽ là tâng
bóng dội trần, lợi dụng trọng trường làm một quả bóng vài trăm gam
tăng thành vài kg khi dội từ trần nhà thẳng xuống phần sân đối phương,
gây khó khăn trong việc đỡ bóng. Tuy nhiên đây là một kỹ năng không
dễ. Libero được quyền ra vào sân tự do mà không cần thông báo với
trọng tài với mục đích là để cho các chủ công vào nghỉ.
Những thay đổi trong bộ luật hiện tại[sửa | sửa mã nguồn]
Những sửa đổi khác được ban hành năm 2000 bao gồm cho phép phát
bóng được chạm lưới, miễn là bóng leo lưới và qua được phần sân bên
kia. Cũng như mở rộng phạm vi được phát bóng ra mọi nơi trong phạm
vi sân trên lí thuyết. Những sửa đổi khác được thực hiện để giảm nhẹ
5

5


các lỗi ôm bóng hay chạm bóng 2 lần liên tiếp, như cho phép chạm
banh nhiều lần đối với 1 người chơi ("double-hits").
Vào năm 2008, NCAA đã thay đổi một chút trong việc tính điểm chiến

thắng ở 4 set đầu tiên từ 30 xuống 25 đối với nữ (đối với nam vẫn là
30). Nếu như phải đánh set quyết định (set thứ 5), điểm số tối thiểu yêu
cầu là 15. Thêm vào đó, thuật ngữ "game" được dùng để thay thế cho
"set".[12]
Những thay đổi trong luật đã được công bố bởi FIVB trong những năm
gần đây, và họ phát hành bộ luật cập nhật và năm 2009. [14]
Kĩ thuật đánh bóng chuyền[sửa | sửa mã nguồn]
Các đội tham gia phải nắm vững các kĩ thuật sau: giao bóng, bắt bước
1, chuyền 2, tấn công/đập bóng, chắn bóng và cứu bóng. Các kĩ thuật
này còn chứa đựng nhiều kĩ năng cao cấp, chuyên biệt hơn sau nhiều
năm phát triển, hoàn thiện và giờ đây đã trở thành tiêu chuẩn cơ bản
của bóng chuyền chuyên nghiệp.
Giao bóng[sửa | sửa mã nguồn]

Chuẩn bị để phát bóng cao.

6

6


Người chơi thực hiện cú nhảy phát bóng.
Người phát bóng đứng từ ngoài vạch cuối sân để giao bóng, cố gắng
đưa bóng sang phần sân đối phương. Người phát bóng phải làm cho
bóng có đường bay thật khó và nhanh xuống mặt đất phần sân đối
phương để đối phương không thể đỡ hay kiểm soát được bóng. Quả
giao banh được gọi là "ace" (giao bóng ăn điểm trực tiếp) khi đối
phương không thể đón được cú giao banh (để banh chạm đất) hay
không kiểm soát được và để banh đi ra ngoài sân.
Trong bóng chuyền hiện đại, có rất nhiều cách giao banh được chấp

nhận:




7

Underhand (giao banh thấp): là cú giao banh mà người giao banh
đánh banh bằng cánh tay từ dưới lên thay vì ném lên và đập banh.
Giao banh thấp rất ít thấy ở các giải bóng chuyền chuyên nghiệp vì
trái bóng được giao rất dễ dàng kiểm soát được.
Sky Ball Serve: một dạng của giao banh thấp nhưng ở đây trái banh
được đánh sao cho bay cao hết mức có thể lên trên không trung để
nó rớt xuống thành một đường thẳng. Cách giao banh này được tạo
và sử dụng bởi rất nhiều đội bóng chuyền ở Brazil nhưng bây giờ đã
lỗi thời. Ở Brazil, cú giao banh này còn được gọi là Jornada nas
Estrelas (Du hành giữa các vì sao).
7


Topspin: là cú giao banh mà người giao banh ném bóng cao lên
không trung và đánh bóng bằng cổ tay, tạo cho nó độ xoáy lớn đủ để
làm trái banh lao cắm xuống mặt đất ngay khi bay qua lưới. Kĩ thuật
này cần phải đánh thật mạnh vào bóng và nhằm thẳng vào một vị trí
xác định bên phía đối phương (có thể là sân hoặc người). Đây cũng
là kĩ thuật ít được sử dụng trong bóng chuyền chuyên nghiệp.
• Float: là kĩ thuật giao banh cao nhưng không cung cấp cho nó độ
xoáy nên rất khó xác định hướng bay cho bóng, giống
nhưknuckleball trong bóng chày.
• Jump Serve: là kĩ thuật giao banh cao mà ném bóng thật xoáy lên

không trung, sau đó người giao banh lấy đà dậm nhảy để đánh thật
mạnh và xoáy vào trái banh. Đây là cách giao phổ biến trong bóng
chuyền ở các trường trung học và các giải chuyên nghiệp.
• Jump Float: kĩ thuật giao banh cao mà trái banh được ném cao vừa
đủ để người giao banh có thể nhảy lên trước khi đánh được trái
banh gần giống như float serve. Trái bóng được ném thấp hơn
topspin jump serve, nhưng vị trí chạm banh vẫn là ở trên không
trung. Cú giao banh này trở nên phổ biến trong các trường trung học
và người chơi chuyên nghiệp vì nó rất khó để có thể đoán được
hướng đi của bóng.
Bắt bước 1[sửa | sửa mã nguồn]


Vận động viên đang dùng tay thuận để bắt bước 1.
Còn được gọi nhận bóng, bắt bước 1 là kĩ thuật để khống chế bóng của
đối phương đánh sang. Việc khống chế bóng không những ngăn không
cho bóng chạm phần sân đội mình mà còn để thực hiện việc chuyền
bóng cho chuyền 2 kiến tạo đợt tấn công.
Kĩ thuật bắt bước 1 gồm 2 kĩ thuật cơ bản: đỡ bước 1 bằng cánh tay,
hoặc búng bóng, vị trí chạm bóng là ở trên 2 cánh tay, gần với mặt
phẳng thắt lưng; đối với búng bóng thì kĩ thuật đó, giống như chuyền 2,
dùng để khống chế bóng trên đầu bằng ngón tay. Cả hai phương pháp
8

8


đều được chấp nhận trong bóng chuyền chuyên nghiệp, tuy nhiên đối
với bóng chuyền bãi biển lại có một chút thay đổi.
Chuyền 2[sửa | sửa mã nguồn]


Nhảy chuyền 2
Chuyền 2 thường là lần chạm bóng thứ hai của đội nhận bóng. Mục
đích chính là điều chỉnh bóng sao cho đồng đội có thể dễ dàng tấn công
đối phương. Vị trí chuyền 2 đứng ngang hàng với hàng chắn của đội, và
đây cũng vị trí tối quan trọng quyết định ai sẽ là người tấn công trong
đội.
Cũng như bắt bước 1, chuyền 2 có thể sử dụng kĩ thuật bắt bước 1 (đỡ
bóng hoặc búng bóng). Nhưng vị trí này cho phép người chơi có nhiều
khả năng điều khiển bóng hơn; đỡ bóng được sử dụng khi bóng quá
thấp, không thể búng bóng được hay như trong bóng chuyền bãi biển,
việc búng bóng bị luật chơi hạn chế rất nhiều. Ở vị trí chuyền 2, người
chơi có thể chuyền bóng ra trước mặt hoặc sau đầu. Người thực hiện
chuyền 2 cũng được phép thực hiện việc khống chế bóng trên không
trung nếu bóng rơi vào vị trí quá gần lưới (không thể khống chế bóng
khi đứng dưới đất). Chuyền 2 thường đứng ở vị trí cách mép trái sân
khoảng ⅔, và hướng mặt về bên trái (vùng rộng của lưới mà người chơi
có thể thấy được).
Đôi lúc chuyền 2 có thể thực hiện việc đánh bóng trực tiếp sang sân đối
phương mà không cần phải chuyền bóng cho đồng đội. Kĩ thuật này
được gọi "dump".[15] Dump phổ biến nhất là đẩy bóng ra sau hoặc phía
9

9


trước của chuyền 2 của đối phương đến vị trí số 2 và 4. Chuyền 2 nhiều
kinh nghiệm có thể búng bóng cao và sâu về cạch cuối sân của đối
phương hoặc thực hiện việc đập banh ngay từ lần chạm banh thứ 2.
Tấn công / đập bóng[sửa | sửa mã nguồn]


Đập bóng
Tấn công, còn gọi là "spike" (đập bóng), thường là lần chạm bóng thứ 3
của đội. Mục tiêu của việc này là làm cho trái banh lao xuống mặt đất
đối phương mà không thể bị ngăn chặn. Chủ công thực hiện các bước
chạy nhằm tạo đà tiếp cận bóng ("approach"), nhảy và đập bóng.
Lí tưởng nhất là vị trí chạm bóng đạt được khi cú nhảy đạt độ cao cực
đại. Tại thời điểm tiếp xúc bóng, cánh tay đập bóng giơ cao hết mức
trên đầu, dồn hết sức đập thẳng vào trái banh, tạo vị trí tiếp xúc banh
cao nhất có thể để tạo được lực đánh mạnh nhất. Người đập bóng quạt
mạnh cánh tay xuống, gập cổ tay, và đồng thời gập toàn bộ cơ thể một
cách nhanh chóng để "lái" banh. "Bounce" (nhồi bóng) là từ thông tục
để chỉ cú đập mạnh (gây tiếng động lớn) làm trái bóng đập vuông góc
mặt đất và nảy cao lên không trung. "Kill" (giết chết) là từ thông tục để
chỉ đợt tấn công mà đối phương không thể trả được bóng đồng nghĩa
với việc ghi được điểm.
Bóng chuyền hiện đại có nhiều kĩ thuật tấn công khác nhau:


10

Backcourt (hay backrow)/pipe attack: là đợt tấn công do hàng sau
thực hiện. Người thực hiện bắt buộc phải nhảy từ sau vạch 3 mét
10


trước khi chạm bóng, nhưng được quyền đáp xuống phần sân trước
vạch 3 mét sau khi đập bóng.
• Line and Cross-court Shot (đập dãn biên): khi bóng bay thẳng theo
một đường cong song song với vạch biên, hoặc chéo sân tạo thành

một góc. Cú đập dãn biên (đập chéo sân) với một góc rõ rệt thường
cho kết quả là một đường banh sắc và chạm xuống phần sân trước
vạch 3 mét, còn được gọi là cut shot.
• Dip/Dink/Tip/Cheat/Dump: người chơi không cố gắng đập banh, chỉ
chạm nhẹ vào banh để banh rơi vào phần sân nằm ngoài tầm với
của hàng thủ.
• Tool/Wipe/Block-abuse: người chơi không cố tạo ra đợt tấn công gây
khó khăn cho đối thủ, mà chỉ đập bóng chạm hàng chắn đối phương
bay ra ngoài.
• Quick hit/"One" (đập nhú): cú tấn công (thường do vị trí số 3 thực
hiện) mà việc tiếp cận và nhảy đập thực hiện trước khi chuyền 2 đưa
bóng. Cú chuyền 2 đó (còn gọi là "quick set" (chuyền nhanh)) chỉ
đưa bóng đến vừa đủ trên mép lưới chỗ vị trí số 3 đứng và việc đập
bóng gần như xảy ra ngay tức khắc. Đập nhú tỏ ra rất hiệu quả bởi
việc gây rối loạn hàng chắn đối phương.
• Slide: là một biến đổi của đập nhú, vị trí số 3 đứng và đập banh từ
phía sau chuyền 2.
• Double quick hit/"Stack"/"Tandem": cũng là một biến đổi khác của
đập nhú mà ở đó, có đến hai người tham gia nhảy lên đập bóng, một
ở phía trước và một từ phía sau hoặc cả hai cùng ở phía trước
chuyền 2; cả hai thực hiện đập nhú cùng lúc. Điều này cũng có dùng
để vô hiệu hóa hàng chắn của đối phương để cho người thứ 4 tham
gia tấn công đập bóng mà có thể không gặp hàng chắn nào.
Chắn bóng[sửa | sửa mã nguồn]

3 người đang thực hiện chắn banh

11

11



Chắn banh là kĩ thuật dành cho các vị trí đứng ngay dưới lưới để ngăn
các đợt tấn công của đối phương sang phần sân đội mình.
Chắn banh mà chỉ chặn đợt tấn công của bên kia và giữ không cho
bóng sang phần sân của đội mình, còn gọi là tấn công. Một vận động
viên có kĩ thuật tốt có thể nhảy lên, đưa gần như toàn bộ cánh tay sang
phần sân bên kia và chắn banh của đối phương. Điều này đòi hỏi phải
đề phòng hướng bay của banh ngay khi đợt tấn công diễn ra. Nó còn
đòi hỏi phải sự phối hợp thật tốt của chân để tạo ra một hàng chắn hiệu
quả.
Cú nhảy cũng cần phải tính toán chính xác về thời điểm nhảy ngay khi
bóng bay qua lưới. Lòng bàn tay được điều chỉnh nghiêng xuống tạo
góc khoảng 45-60 độ về phía sân đối phương. Từ "roof" (trong tiếng
Anh có nghĩa là "nóc nhà") được dùng để chỉ những cú chắn banh mà
hướng toàn bộ lực và đường bay của banh thẳng xuống mặt đất của
sân đối phương, ngay khi đối phương đập banh vào mặt hướng xuống
của cánh tay.
Ngược lại, cú chắn banh được gọi là phòng thủ, hoặc "soft block" (chắn
nhẹ) khi mục tiêu chính chỉ là khống chế để giảm lực tấn công và điều
chỉnh hướng bay của bóng sao cho đội mình có thể dễ dàng tiếp cận.
Một cú "soft block" hoàn hảo thường là hai cánh tay đưa thẳng lên và
lòng bàn tay hơi ngửa lên, ngón tay nghiêng về phía sau.
Chắn banh còn được xếp loại dựa vào số lượng thành viên tham gia
chắn banh. Có thể có 1, 2 hay 3 người cùng tham gia chắn bóng. Một
cú chắn thành công là cú chắn bóng sao cho đối phương bị "roof", cú
chắn khiến cho lực tấn công của đối phương bị triệt tiêu hoặc làm cho
bóng bay đơn giản để cho đội mình dễ dàng khống chế bóng được coi
cú chắn thành công.
Cùng một lúc, vị trí chắn bóng cũng ảnh hưởng đến vị trí của hàng chắn

đối phương khi mà chủ công đối phương thực hiện đợt tấn công.
Cứu bóng[sửa | sửa mã nguồn]

12

12


Người đang thực hiện động tác cứu bóng
Cứu bóng là kĩ thuật ngăn không cho bóng chạm đất sau đợt tấn công
của đối thủ, chủ yếu được sử dụng khi bóng gần như chạm đất. Bề
ngoài, kĩ thuật này trông giống với đỡ bước 1 hoặc búng bóng: đưa
toàn bộ cánh tay ra đỡ bóng nhưng vẫn khác với kĩ thuật ở chỗ dùng
ngón tay hoặc 2 cánh tay khép lại để chạm bóng.
Một số kĩ thuật đặc biệt còn phổ biến hơn cứu bóng hoặc đỡ bước 1.
Người chơi có thể lao mình về phía bóng và tiếp đất bằng ngực để
vươn tay đến vị trí bóng sắp chạm đất để ngăn điều đó xảy ra, kĩ thuật
đo còn gọi là "pancake". Kĩ thuật này rất thường được sử dụng trong
bóng chuyền trong nhà.
Đôi lúc người chơi có thể ngả hẳn người về phía trước thật nhanh để
cứu bóng. Kĩ thuật này đòi hỏi phải có thêm kĩ thuật để lăn mình nhằm
tránh chấn thương.

UỶ BAN
THỂ DỤC THỂ THAO
***

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-----------o0o-----------


Số:488/QĐ-UBTDTT

Hà Nội, ngày 12 tháng
3 nãm 2007

QUYẾT ĐỊNH
V/v: Ban hành Luật bóng chuyền
và Luật bóng chuyền bãi biển Quốc tế
BỘ TRƯỞNG - CHỦ NHIỆM UỶ BAN THỂ DỤC THỂ THAO
13

13


- Căn cứ Nghị định số 22/2003/NĐ-CP ngày 11-3-2003 của Chính phủ quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Uỷ ban TDTT;
- Xét yêu cầu về phát triển và nâng cao thành tích môn bóng chuyền và
Bóng chuyền bãi biển ở nước ta;
- Xét đề nghị của ông Vụ trưởng Vụ Thể thao thành tích cao II và Liên đoàn
Bóng chuyền Việt Nam.
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1: Ban hành Luật Bóng chuyền chính thức (2005 - 2008) của Liên đoàn Bóng
chuyền Quốc tế gồm 2 phần, 8 chương, 28 điều và Luật Bóng chuyền bãi biển
chính thức của Liên đoàn Bóng chuyền Quốc tế gồm 2 phần, 8 chương, 29 Điều.
Điều 2: Luật Bóng chuyền và Luật Bóng chuyền bãi biển này được áp dụng thống
nhất trong toàn quốc và thi đấu quốc tế tại Việt Nam.
Điều 3: Các ông Chánh văn phòng, Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ trưởng Vụ
Thể thao thành tích cao II, Liên đoàn Bóng chuyền Việt Nam, Thủ trưởng các Vụ,
đơn vị liên quan trực thuộc Uỷ ban TDTT, Giám đốc các Sở Thể dục Thể thao, cơ

quan TDTT các ngành chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này ./.
BỘ TRƯỞNG - CHỦ NHIỆM
UỶ BAN THỂ DỤC THỂ THAO
NGUYỄN DANH THÁI (đã ký)
LUẬT BÓNG CHUYỀN CHÍNH THỨC
ĐẶC ĐIỂM MÔN BÓNG CHUYỀN
Bóng chuyền là môn thể thao thi đấu giữa hai đội chơi trên một sân có
lưới phân cách ở giữa. Có nhiều hình thức chơi cho từng trường hợp cụ thể phù
hợp với tất cả mọi người.
Mục đích cuộc chơi là đánh bóng qua trên lưới sao cho bóng chạm sân đối
phương và ngăn không cho đối phương làm tương tự như vậy với mình. Mỗi đội
được chạm bóng 3 lần để đưa bóng sang sân đối phương (không kể lần chắn
bóng).
Bóng vào cuộc bằng phát bóng do vận động viên phát bóng qua lưới sang
sân đối phương. Một pha bóng chỉ kết thúc khi bóng chạm sân đấu, ra ngoài hoặc
một đội bị phạm lỗi.
14

14


Trong bóng chuyền, đội thắng mỗi pha bóng được một điểm (tính điểm
trực tiếp). Khi đội đỡ phát bóng thắng một pha bóng, đội đó ghi được một điểm
đồng thời giành được quyền phát bóng và các vận động viên đội đó thực hiện di
chuyển xoay vòng theo chiều kim đồng hộ một vị trí.
Phần I: THI ĐẤU
CHƯƠNG 1
SÂN BÃI VÀ DỤNG CỤ THI ĐẤU
ĐIỀU 1: SÂN THI ĐẤU (Hình 1 và 2)
Khu đấu gồm sân thi đấu và khu tự do. Sân thi đấu phải là hình chữ nhật và đối

xứng. (Điều 1.1)
1.1. Kích thước:
Sân thi đấu hình chữ nhật, kích thước 18 x 9m, xung quanh là khu tự do rộng
ít nhất 3m về tất cả mọi phía.
Khoảng không tự do là khoảng không gian trên khu sân đấu không có vật cản nào
ở chiều cao tối thiểu 7m tính từ mặt sân.
Khu tự do của các cuộc thi đấu thế giới của FIVB rộng tối thiểu 5m từ đường
biên dọc và 8m từ đường biên ngang. Khoảng không tự do phải cao tối thiểu
12,5m tính từ mặt sân.

Hình 1- Khu thi đấu
1.2. Mặt sân:

15

15


1.2.1. Mặt sân phải phẳng, ngang bằng và đồng nhất. Mặt sân không có bất kỳ
nguy hiểm nào gây chấn thương cho vận động viên. Cấm thi đấu trên mặt sân gồ
ghề hoặc trơn.
Mặt sân của các cuộc thi đấu thế giới và chính thức của FIVB chỉ được làm bằng
gỗ hoặc chất liệu tổng hợp. Các loại mặt sân đều phải được FIVB công nhận
trước.
1.2.2. Mặt sân thi đấu trong nhà phải là màu sáng.
Trong các cuộc thi đấu thế giới và chính thức của FIVB các đường biên phải là
màu trắng. Sân đấu và khu tự do phải có màu sắc khác biệt nhau. (Điều 1.1; 1.3).
1.2.3. Độ dốc thoát nước cho phép của mặt sân là 5mm/m. Cấm dùng các vật
liệu cứng để làm các đường giới hạn trên sân.
1.3. Các đường trên sân (Hình 2):

1.3.1 Bề rộng các đường trên sân là 5cm có màu sáng khác với màu sân và bất lỳ
đường kẻ nào khác (Điều 1.2.2).
1.3.2. Các đường biên:
Hai đường biên dọc và hai đường biên ngang giới hạn sân đấu. Các đường này
nằm trong phạm vi kích thước sân đấu. (Điều 1.1).
1.3.3. Đường giữa sân (Hình 2)
Trục đường giữa sân chia sân đấu ra làm hai phần bằng nhau, mỗi phần 9 x 9m,
đương nhiên bề rộng của đường giữa sân chia đều cho mỗi bên. Đường này chạy
dưới lưới nối hai đường biên dọc với nhau.
1.3.4. Đường tấn công:
Ở mỗi bên sân có một đường tấn công được kẻ song song với đường giữa sân
tính từ mép sau đường tấn công tới trục của đường giữa là 3m, để giới hạn khu
trước (khu tấn công).
Trong những cuộc thi đấu thế giới và chính thức của FIVB, đường tấn công được
kéo dài thêm từ các đường biên dọc 5 vạch ngắt quãng, mỗi vạch dài 15cm, rộng
5cm, cách nhau 20cm và tổng độ dài là 175cm. (Hình 2). (Điều 1.3.3; 1.4.1).
1.4 Các khu trên sân: (Hình 2)
1.4.1. Khu trước:
Ở mỗi bên sân, khu trước được giới hạn bởi trục giữa sân và tới mép sau của
đường tấn công (Điều 1.3.3; 1.3.4)
16

16


Khu trước được mở rộng từ mép ngoài đường biên dọc tới hết khu tự do. (Điều
1.1; 1.3.2).
1.4.2. Khu phát bóng:
Khu phát bóng là khu rộng 9m nằm sau đường biên ngang (không tính đường
biên ngang).


Hình 2 – Khu thi đấu
Khu phát bóng được giới hạn bởi hai vạch dài 15cm thắng góc với đường biên
ngang, cách đường này 20cm và được coi là phần kéo dài của đường biên dọc.
Cả hai vạch này đều thuộc khu phát bóng (Điều 1.3.2) (Hình 2).
Chiều sâu khu phát bóng kéo dài tới hết khu tự do. (Điều 1.1).
1.4.3 Khu thay người (Hình 1)
Khu thay người được giới hạn bởi hai đường kéo dài của đường tấn công đến
bàn thư ký. (Điều 1.3.4).
1.4.4. Khu khởi động. (Hình 1)
Trong các cuộc thi đấu thế giới và chính thức của FIVB ở mỗi góc sân của khu tự
do có 1 khu khởi động kích thước 3 x 3m.
1.4.5. Khu phạt (hình 1)
Mỗi bên sân ở khu tự do, trên đường kéo dài của đường biên ngang, ở sau ghế
ngồi của mỗi đội cách 1,5m có 1 khu phạt kích thước 1 x 1m đặt được hai ghế
giới hạn bằng các vạch đỏ rộng 5cm.
1.5. Nhiệt độ:
Nhiệt độ thấp nhất không được dưới 100C (500F).
Trong các cuộc thi đấu thế giới và chính thức của FIVB nhiệt độ tối đa không
được cao hơn 250C (770F) và thấp dưới 160C (610F).
17

17


1.6. ánh sáng:
Tại các cuộc thi đấu thế giới và chính thức của FIVB độ sáng của sân đấu đo ở độ
cao 1m cách mặt sân phải từ 1000 đến 1500 lux (Điều 1).
ĐIỀU 2: LƯỚI VÀ CỘT LƯỚI (Hình 3)
2.1. Chiều cao của lưới:

2.1.1. Lưới được căng ngang trên đường giữa sân. Chiều cao mép trên của lưới
nam là 2,43m và của nữ là 2,24m. (Điều 1.3.3).
2.1.2. Chiều cao của lưới phải được đo ở giữa sân. Hai đầu lưới ở trên đường
biên dọc phải cao bằng nhau và không cao hơn chiều cao quy định 2cm. (Điều
1.1; 1.3.2; 2.1.1).
2.2. Cấu tạo:
Lưới màu đen, dài 9,50 - 10m, rộng 1m, đan thành các mắt lưới hình vuông mỗi
cạnh 10cm (mỗi bên đầu lưới kể từ mép ngoài băng giới hạn lưới có 1 khoảng
dài từ 0,25m đến 0,5m) (Hình 3).

Hình 3
Viền suốt mép trên lưới là một băng vải trắng gấp lại rộng 7cm. Hai đầu băng vải
có một lỗ để luồn dây buộc vào cọc lưới.
Luồn một sợi dây cáp mềm bên trong băng vải trắng tới hai cọc lưới để căng
mép trên của lưới. Hai đầu băng viền mép trên của lưới có hai lỗ và dùng hai dây
để buộc kéo vào cột giữ căng vải băng mép trên lưới.
18

18


Viền suốt mép dưới lưới là một băng vải trắng gấp lại rộng 5cm, trong luồn qua
một dây buộc giữ căng phần dưới của lưới vào hai cột.
2.3. Băng giới hạn:
Là hai băng trắng dài 1m, rộng 5cm đặt ở hai bên đầu lưới thẳng góc với giao
điểm của đường biên dọc và đường giữa sân.
Băng giới hạn là một phần của lưới (Hình 3; Điều 1.3.2).
2.4. Ăng ten:
Ăng ten là thanh tròn dẻo đường kính 10mm dài 1,8m làm bằng sợi thủy tinh
hoặc chất liệu tương tự.

Ăng ten được buộc chặt sát với mép ngoài mỗi băng giới hạn. Ăng ten được đặt
đối nhau ở hai bên lưới (Hình 3; Điều 2.3).
Phần ăng ten cao hơn lưới 80cm, được sơn xen kẽ các đoạn màu tương phản
nhau, mỗi đoạn dài 10cm, tốt nhất là màu đỏ và trắng.
Ăng ten thuộc phần của lưới và giới hạn 2 bên của khoảng không gian bóng qua
trên lưới (Hình 3 và 5, Điều 11.1.1).
2.5. Cột lưới (Hình 3)
2.5.1. Cột căng giữ lưới đặt ở ngoài sân cách đường biên dọc 0,50 - 1,00m, cao
2,55m, có thể điều chỉnh được.
Trong các cuộc thi đấu thế giới và chính thức của FIVB, cột căng giữ lưới phải đặt
ngoài sân cách đường biên dọc 1m.
2.5.2. Cột lưới tròn và nhẵn, được cố định chắc xuống đất, không dùng dây cáp
giữ. Cấm cột lưới có các dụng cụ phụ trợ nguy hiểm.
2.6. Thiết bị phụ:
Tất cả các thiết bị phụ phải theo đúng qui định trong điều lệ của FIVB.
ĐIỀU 3: BÓNG
3.1. Các tiêu chuẩn của bóng:
Bóng phải là hình cầu tròn, làm bằng da mềm hoặc da tổng hợp, trong có ruột
bằng cao su hoặc chất liệu tương tự.
Màu sắc của bóng phải đồng màu, hoặc phối hợp các màu.
Chất liệu da tổng hợp và phối hợp các màu của bóng dùng trong các cuộc thi đấu
quốc tế phải theo đúng chuẩn mức của FIVB.
19

19


Chu vi của bóng: 65 - 67cm, trọng lượng của bóng là 260 - 280g.
Áp lực trong của bóng: từ 0,30 đến 0,325 kg/cm2 (4,26 – 4,61psi), (294,3 318,82mbar hoặc hPa)
3.2. Tính đồng nhất của bóng:

Mọi quả bóng dùng trong một trận đấu phải có cùng chu vi, trọng lượng, áp lực,
chủng loại, màu sắc ... (Điều 3.1).
Các cuộc cuộc thi đấu thế giới và chính thức của FIVB, Vô địch quốc gia hay vô
địch Liên đoàn phải dùng bóng được FIVB công nhận, trừ khi FIVB cho phép khác.
3.3. Hệ thống sử dụng 3 bóng:
Các cuộc thi đấu thế giới của FIVB và chính thức đều sử dụng 3 bóng thi đấu với
6 người nhặt bóng, mỗi góc sân ở khu tự do một người và sau mỗi trọng tài một
người (Hình 10).
CHƯƠNG II
NHỮNG NGƯỜI THAM GIA
ĐIỀU 4: ĐỘI BÓNG
4.1. Thành phần của đội:
4.1.1. Một đội gồm tối đa 12 vận động viên, 1 huấn luyện viên trưởng, 1 huấn
luyện viên phó, một săn sóc viên và một bác sĩ. (Điều 5.2; 5.3).
Trong các cuộc thi đấu thế giới và chính thức của FIVB, Bác sĩ phải được FIVB
công nhận trước.
4.1.2. Một vận động viên của đội (trừ Libero) là đội trưởng trên sân phải được
ghi rõ trong biên bản thi đấu (Điều 5.1; 19.1.3).
4.1.3. Chỉ các vận động viên đã đăng ký trong biên bản thi đấu mới được phép
vào sân và thi đấu. Khi huấn luyện viên và đội trưởng đã ký vào biên bản thi đấu
thì không được thay đổi thành phần đăng ký của đội nữa (Điều 1; 5.1.1; 5.2.2).
4.2 Vị trí của đội bóng:
4.2.1. Các vận động viên không thi đấu có thể ngồi trên ghế của đội mình hoặc
đứng ở khu khởi động của đội mình.
20

20


Huấn luyện viên và những người khác của đội phải ngồi trên ghế nhưng có thể

tạm thời rời chỗ (Điều 1.4.4; 5.2.3; 7.3.3).
Ghế của đội đặt ở 2 bên bàn thư ký, ngoài khu tự do (Hình 1a, 1b)
4.2.2. Chỉ các thành viên của đội mới được phép ngồi trên ghế và tham gia khởi
động trong thời gian trận đấu. (Điều 4.1.1; 7.2).
4.2.3. Các vận động viên không thi đấu trên sân có thể khởi động không bóng
như sau:
4.2.3.1. Trong thời gian trận đấu, các vận động viên có thể khởi động không
bóng ở khu khởi đông (Điều 1.4.4; 8.1; Hình 1).
4.2.3.2. Trong thời gian hội ý và hội ý kỹ thuật, có thể khởi động ở khu tự do sau
sân của đội mình (Điều 1.3.3; 15.4; Hình 1).
4.2.4. Khi nghỉ giữa hiệp các vận động viên có thể khởi động bóng ở khu tự do
(Điều 18.1).
4.3. Trang phục:
Trang phục thi đấu của một vận động viên gồm: áo thể thao, quần đùi, tất và
giầy thể thao.
4.3.1. Áo, quần đùi và tất của toàn đội phải đồng bộ, sạch sẽ và đồng màu (trừ
vận động viên Libero, Điều 4.1; 20.2).
4.3.2. Giầy phải nhẹ, mềm, đế bằng cao su hay bằng da và không có đế gót.
Trọng tài thứ nhất phải kiểm tra sự thống nhất trang phục của từng đội bóng và
buộc phải thực hiện đúng điều này.
Trong các cuộc thi đấu thế giới và chính thức của FIVB cho người lớn, cấm sử
dụng giầy đế đen. Áo, quần đùi phải theo đúng tiêu chuẩn của FIVB.
4.3.3. Áo vận động viên phải đánh số từ 1 đến 18.
4.3.3.1. Số áo phải ở giữa ngực và giữa lưng. Màu sắc và độ sáng của số phải
tương phản với màu sắc và độ sáng của áo.
4.3.3.2. Số trước ngực phải cao ít nhất là 15cm, số sau lưng ít nhất là 20cm. Nét
số phải rộng tối thiểu 2cm.
Trong các cuộc thi đấu thế giới và chính thức của FIVB, phải in số áo của vận
động viên ở ống quần đùi bên phải. Số phải cao từ 4 - 6cm, nét số rộng ít nhất
1cm.

21

21


4.3.4. Trên áo đội trưởng dưới số trước ngực phải có một vạch khác màu sắc 8 x
2cm (Điều 5.1).
4.3.5. Cấm vận động viên cùng đội mặc trang phục khác màu nhau (trừ vận động
viên Libero) và/hoặc áo không có số chính thức (Điều 19.2).
4.4. Thay đổi trang phục:
Trọng tài thứ nhất có thể cho phép một hay nhiều vận động viên (Điều 23):
4.4.1. Thi đấu không đi giầy.
4.4.2. Thay trang phục thi đấu bị ướt giữa hai hiệp hay sau khi thay người nhưng
trang phục mới phải cùng màu, cùng kiểu và cùng số áo. (Điều 4.3; 15.5).
4.4.3. Nếu trời rét, toàn đội được mặc quần áo trình diễn để thi đấu, miễn là
đồng màu, đồng kiểu (trừ vận động viên Libero), có ghi số hợp lệ theo Điều
4.3.3. (Điều 4.1.1; 19.2).
4.5. Những đồ vật bị cấm:
4.5.1. Cấm mang các đồ vật gây chấn thương hoặc tạo trợ giúp cho vận động
viên.
4.5.2. Vận động viên có thể mang kính cá nhân và tự chịu trách nhiệm về việc
này.
ĐIỀU 5: ĐỘI TRƯỞNG VÀ HUẤN LUYỆN VIÊN
Đội trưởng và huấn luyện viên là những người chịu trách nhiệm về hành vi và kỷ
luật của các thành viên trong đội. Vận động viên Libero (L) không được làm đội
trưởng. (Điều 19.1.3; 20).
5.1. Đội trưởng:
5.1.1. Trước trận đấu, đội trưởng phải ký vào biên bản thi đấu và thay mặt đội
bắt thăm (Điều 7.1; 25.2.1.1).
5.1.2. Trong trận đấu, đội trưởng vào đấu là đội trưởng trên sân (Điều 6.2;

19.1.3)
Khi đội trưởng của đội không vào sân thi đấu, huấn luyện viên hoặc bản thân đội
trưởng phải chỉ định một vận động viên khác trên sân trừ Libero làm đội trưởng
trên sân. Vận động viên này chịu trách nhiệm làm đội trưởng trên sân đến khi bị
thay ra hoặc đội trưởng của đội lại vào sân thi đấu, hoặc khi hiệp đấu kết thúc.
Khi bóng ngoài cuộc, chỉ đội trưởng trên sân được quyền nói với trọng tài (Điều
8.2):
22

22


5.1.2.1. Đề nghị trọng tài giải thích hoặc làm rõ điều luật cũng như thắc mắc về
đội mình. Nếu đội trưởng trên sân không đồng ý với giải thích của trọng tài thứ
nhất thì được khiếu nại, nhưng phải cho trọng tài thứ nhất biết việc ghi khiếu
nại vào biên bản thi đấu vào lúc kết thúc trận đấu. (Điều 23.2.4).
5.1.2.2. Có quyền đề nghị:
a. Thay đổi trang phục thi đấu. (Điều 4.3; 4.4.2).
b. Đề nghị kiểm tra lại vị trí trên sân. (Điều 7.4).
b. Đề nghị lại mặt sân, lưới, bóng... (Điều 1.2, 2.3).
5.1.2.3. Đề nghị hội ý và thay người. (Điều 15.2.1; 15.4; 15.5).
5.1.3. Kết thúc trận đấu, đội trưởng phải (Điều 6.3):
5.1.3.1. Cảm ơn trọng tài và ký vào biên bản công nhận kết quả trận đấu. (Điều
25.2.3.3).
5.1.3.2. Đội trưởng (hoặc đội trưởng trên sân) có thể ghi vào biên bản thi đấu ý
kiến khiếu nại đã báo cáo với trọng tài thứ nhất (Điều 5.1.2.1; 25.2.3.2).
5.2. Huấn luyện viên:
5.2.1. Trong suốt trận đấu, huấn luyện viên được chỉ đạo đội mình từ bên ngoài
sân đấu. Huấn luyện viên là người quyết định đội hình thi đấu, thay người và xin
hội ý. Khi thực hiện các việc này, huấn luyện viên phải liên hệ với trọng tài thứ

hai. (Điều 1.1; 7.3.2; 15.4; 15.5).
5.2.2. Trước trận đấu, huấn luyện viên ghi và soát lại tên và số áo các cầu thủ
của đội đã ghi trong biên bản rồi ký tên. (Điều 4.1; 25.2.1.1).
5.2.3. Trong thời gian trận đấu, huấn luyện viên:
5.2.3.1. Trước mỗi hiệp, trao phiếu báo vị trí có ký tên cho thư ký hoặc trọng tài
thứ hai hoặc thư ký. (Điều 7.3.2).
5.2.3.2. Ngồi trên ghế gần bàn thư ký nhất, nhưng có thể rời chỗ ngồi chốc lát.
(Điều 4.2),
5.2.3.3. Xin tạm dừng hội ý và thay người. (Điều 15.4; 15.5).
5.2.3.4. Cũng như các thành viên khác của đội huấn luyện viên có thể chỉ đạo vận
động viên trên sân. Huấn luyện viên có thể đứng hoặc đi lại trong khu tự do
trước ghế ngồi của đội mình tính từ đường tấn công tới khu khởi động để chỉ
đạo vận động viên, nhưng không được làm ảnh hưởng hoặc trì hoãn cuộc đấu.
(Điều 1.3.4; 1.4.4).
23

23


5.3. Huấn luyện viên phó:
5.3.1. Huấn luyện viên phó ngồi trên ghế, nhưng không có quyền tham gia vào
trận đấu.
5.3.2. Trường hợp huấn luyện viên trưởng phải rời khỏi đội, huấn luyện viên
phó có thể làm thay nhiệm vụ nhưng phải do đội trưởng trên sân yêu cầu và phải
được sự đồng ý của trọng tài thứ nhất. (Điều 5.1.2; 5.2).
CHƯƠNG III
THỂ THỨC THI ĐẤU
ĐIỀU 6: ĐƯỢC 1 ĐIỂM, THẮNG 1 HIỆP VÀ THẮNG 1 TRẬN
6.1. Được một điểm:
6.1.1. Được một điểm khi:

6.1.1.1. Bóng chạm sân đối phương (Điều 8.3; 10.1.1).
6.1.1.2. Do đội đối phương phạm lỗi (Điều 6.1.2)
6.1.1.3. Đội đối phương bị phạt (Điều 16.2.3; 21.3.1).
6.1.2. Phạm lỗi
Khi một đội có hành động đánh bóng sai luật hoặc phạm luật bằng hành động
nào khác thì trọng tài thổi còi phạm lỗi, xét mức phạm lỗi và quyết định phạt
theo luật.
6.1.2.1. Nếu hai hay nhiều lỗi xảy ra liên tiếp thì chỉ tính lỗi đầu tiên.
6.1.2.2. Nếu hai đội cùng phạm hai hoặc nhiều lỗi thì xử hai đội cùng phạm lỗi.
Đánh lại pha bóng đó (Hiệu tay 11.23).
6.1.3. Hậu quả của thắng một pha bóng.
Một pha bóng là chuỗi các hành động đánh bóng tính từ thời điểm người phát
bóng đánh chạm bóng đến khi trọng tài thổi còi "bóng chết" (Điều 8.1; 8.2).
6.1.3.1. Nếu đội phát bóng thắng pha bóng đó thì đội phát bóng được một điểm
và tiếp tục phát bóng.
6.1.3.2. Nếu đội đối phương đỡ phát bóng thắng pha bóng đó thì đội đó được
một điểm và giành quyền phát bóng.
24

24


6.2. Thắng một hiệp:
Đội thắng một hiệp (trừ hiệp thứ 5 - hiệp quyết thắng) là đội được 25 điểm
trước và hơn đội kia ít nhất 2 điểm. Trường hợp hòa 24 - 24, phải đấu tiếp cho
đến khi hơn nhau 2 điểm (26 - 24, 27 - 25...) (Điều 6.3.2) (Hiệu tay 11.9).
6.3. Thắng một trận:
6.3.1. Đội thắng một trận là đội thắng 3 hiệp (Điều 6.2). (Hiệu tay 11.9).
6.3.2. Trong trường hợp hòa 2 - 2, hiệp quyết thắng (hiệp 5) đấu đến 15 điểm và
đội thắng phải hơn ít nhất 2 điểm (Điều 7.1; 15.4.1).

6.4. Bỏ cuộc và đội hình không đủ người đấu:
6.4.1. Nếu một đội sau khi đã được mời đến thuyết phục vẫn từ chối không đấu,
đội đó bị tuyên bố bỏ cuộc và bị thua với kết quả toàn trận 0 –3; mỗi hiệp 0 - 25
(Điều 6.2; 6.3).
6.4.2. Nếu một đội không có lý do chính đáng để có mặt đúng giờ thi đấu thì bị
tuyên bố bỏ cuộc và xử lý kết quả thi đấu như Điều 6.4.1.
6.4.3. Một đội bị tuyên bố không đủ đội hình thi đấu một hiệp hoặc một trận
(Điều 7.3.1) thì bị thua hiệp đó hoặc trận đó. Đội đối phương được thêm đủ số
điểm và số hiệp còn thiếu để thắng hiệp trận đó. Đội có đội hình không đủ người
đấu bị giữ nguyên số điểm và kết quả các hiệp trước (Điều 6.2; 6.3; 7.3.1).
ĐIỀU 7: TỔ CHỨC TRẬN ĐẤU
7.1. Bắt thăm:
Trước trận đấu, trọng tài thứ nhất cho bắt thăm để chọn quyền ưu tiên đội nào
phát bóng trước và đội nào chọn sân ở hiệp thứ 1 (Điều 12.1.1).
Nếu thi đấu hiệp thứ 5, phải tiến hành bắt thăm lại (Điều 6.3.2).
7.1.1. Tiến hành bắt thăm với sự có mặt của hai đội trưởng hai đội (Điều 5.1).
7.1.2. Đội thắng khi bắt thăm được chọn:
7.1.2.1. Quyền phát bóng hoặc đỡ phát bóng (Điều 13.1.1).
7.1.2.2. Hoặc chọn sân. Đội thua lấy phần còn lại.
7.1.3. Nếu hai đội khởi động riêng, đội nào phát bóng trước được khởi động trên
lưới trước (Điều 7.2).
7.2. Khởi động:
25

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×