Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Chính sach tôn giáo của đảng và nhà nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.51 KB, 13 trang )

Chuyên đề 3
CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA
I. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VỀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO
1. Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo gắn liền với
cuộc vận động toàn dân đoàn kết cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới .
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, do tôn giáo là một hình thái ý thức xã
hội nên để thay đổi ý thức xã hội, trước hết cần phải làm thay đổi tồn tại xã hội;
muốn xóa bỏ ảo tưởng nảy sinh trong tư tưởng con người phải xóa bỏ nguồn gốc
gây nên những ảo tưởng ấy. Đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực trong tôn
giáo là đấu tranh với cái thế giới đang cần có ảo tưởng chứ không phải là trực
tiếp tấn công vào thần, thánh và những biểu hiện tín ngưỡng khác. Muốn đẩy lùi
những ước mơ về thiên đường hư ảo ở ''thế giới bên kia'', thì con người phải
từng bước xây dựng một ''thiên đường'' có thực trên trần thế. Đó là một quá trình
lâu dài, gắn liền với công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần và trí tuệ cho con người. Phải kiên quyết đấu tranh
chống mọi biểu hiện chia rẽ, bè phái, cục bộ vì sự khác nhau về tín ngưỡng, tôn
giáo; khai thác và phát huy tiềm năng của đồng bào là tín đồ các tôn giáo vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chỉ có thông
qua quá trình đó, mới có khả năng gạt bỏ dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn
giáo trong đời sống xã hội.
Sự thống nhất về lợi ích của giai cấp, quốc gia và dân tộc sẽ tạo điều
kiện tiến tới sự thống nhất về tư tưởng và hành động.
Để khắc phục những yếu tố tiêu cực của tôn giáo cần quan tâm đến cuộc
đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, coi trọng tuyên truyền, giáo dục thế giới duy
vật biện chứng phương pháp luận khoa học cho quần chúng nhân dân.
2. Tôn trọng, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân
Quyền tự do tín ngưỡng được tôn trọng và đảm bảo là một bước tiến của
xã hội loài người, trong đó giai cấp tư sản trong quá trình đấu tranh chống phong
kiến đã đóng góp một phần nhất định. Song, dưới chế độ tư bản chủ nghĩa,
những tư tưởng về tự do tín ngưỡng chỉ nằm trong khuôn khổ mà những hoạt


động của giáo hội các tôn giáo phù hợp hoặc ít nhất cũng không đối lập với lợi
ích của giai cấp tư sản. Đấy là chưa kể giai cấp tư sản cầm quyền đang lợi dụng
tôn giáo để phục vụ lợi ích của chúng, chống phá phong trào cách mạng trong
nước và trên thế giới.


Trong chủ nghĩa xã hội, tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng là
một nguyên tắc. Quyền ấy được thể hiện về mặt pháp lý và trên thực tiễn. Đó là
quan điểm nhất quán, xuyên suốt, lâu dài của Đảng Cộng sản. Căn cứ vào bản
chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và quy luật của quá trình chuyển biến về
mặt tư tưởng của con người, những người cộng sản tôn trọng và đảm bảo những
quyền tự do tín ngưỡng của quần chúng có đạo, cũng như quyền không theo một
tôn giáo nào.
Nội dung cơ bản của quyền tự do tín ngưỡng là:
- Bất kỳ ai cũng được hoàn toàn tự do theo tôn giáo hoặc không theo một
tôn giáo nào. Việc vào đạo, chuyển đạo hay bỏ đạo trong khuôn khổ quy định
của pháp luật hiện hành là quyền tự do của mỗi người. Nhà nước xã hội chủ
nghĩa thừa nhận và đảm bảo cho mọi công dân có hoặc không có tín ngưỡng, tôn
giáo đều bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi, không có sự phân biệt đối xử vì lý
do tín ngưỡng, tôn giáo. Các tôn giáo được nhà nước thừa nhận đều bình đẳng
trước pháp luật. Giáo hội các tôn giáo có trách nhiệm động viên các tín đồ thực
hiện nghĩa vụ của công dân, phấn đấu sống ''tốt đời, đẹp đạo'' phù hợp với lợi ích
của dân tộc, quốc gia. Mọi người có ý thức tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo của người khác, đồng thời chống lại những phần tử lợi dụng tôn giáo, đi
ngược lại lợi ích chung của dân tộc.
- Nhà nước nghiêm cấm những kẻ lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng để hành
nghề mê tín dị đoan và những âm mưu lợi dụng tôn giáo vì những mục đích
chính trị phản động.
3. Phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo
Ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của mỗi tôn giáo đối

với đời sống xã hội không giống nhau. Vì vậy, khi thực hiện nhất quán nguyên tắc
bình đẳng, không phân biệt đối xử, phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét,
đánh giá và ứng xử đối với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo.
Có những tôn giáo khi mới xuất hiện như một phong trào bảo vệ lợi ích
của người nghèo, người áp bức và nô lệ. Nhưng rồi, tôn giáo ấy lại biến thành
công cụ của giai cấp bóc lột, thống trị. Có những giáo sĩ suốt đời hành đạo, luôn
luôn đồng hành cùng với dân tộc, nhưng cũng có những người có thời đã hợp tác
với các thế lực thù địch bên ngoài, đi ngược lại lợi ích quốc gia. Điều đó khiến
cho nhà nước xã hội chủ nghĩa cần có thái độ, cách ứng xử phù hợp với từng
trường hợp cụ thể, như V.I. Lênin đã nhắc nhở người mác-xít cần phải biết chú ý
đến toàn bộ tình hình cụ thể.


4. Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết vấn
đề tôn giáo
Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng thực chất là phân biệt tính chất
khác nhau của hai loại mâu thuẫn luôn tồn tại trong bản thân tôn giáo. Mặt chính
trị phản ánh mâu thuẫn đối kháng về lợi ích kinh tế, chính trị giữa những thế lực
lợi dụng tôn giáo chống lại sự nghiệp cách mạng và lợi ích của nhân dân lao
động. Còn mặt tư tưởng phản ánh mâu thuẫn không mang tính đối kháng giữa
những người có tín ngưỡng, tôn giáo với những người không có tín ngưỡng, tôn
giáo cũng như giữa những người có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau.
Trong cuộc sống, vấn đề chính trị và tư tưởng trong tôn giáo thường đan
xen vào nhau. Có khi những mâu thuẫn về chính trị trong tôn giáo bị các phần tử
phản động ngụy trang bằng sự khác nhau về tư tưởng và ngược lại.
Xuất phát từ lợi ích giai cấp, dân tộc và an ninh quốc gia, Nhà nước xã
hội chủ nghĩa phải thường xuyên đấu tranh loại bỏ yếu tố chính trị phản động
trong tôn giáo.
Đối với người có đạo, sinh hoạt tôn giáo là một nhu cầu tinh thần không
thể thiếu. Tôn giáo từ lâu đã ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa và mang tính quốc

tế. Do vậy, khắc phục mặt tư tưởng lạc hậu trong tôn giáo chỉ có thể là kết quả
của một quá trình chuyển biến lâu dài, gắn với sự phát triển mạnh mẽ trên các
lĩnh vực của đời sống, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học v.v... Việc không
ngừng nâng cao đời sống mọi mặt cho nhân dân, tạo điều kiện cho giáo dân,
giáo sĩ trực tiếp tham gia vào các phong trào yêu nước, cải tạo tự nhiên và xã hội
là biện pháp tích cực và thiết thực nhất nhằm từng bước khắc phục những biểu
hiện tiêu cực trong tôn giáo.
Đồng thời phải coi giáo dục chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước
là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, lâu dài của toàn bộ hệ thống chính trị do
Đảng Cộng sản lãnh đạo.
5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo.
Nội dung chính của tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo là:
a. Đoàn kết lương - giáo, hòa hợp dân tộc
Hồ Chí Minh đã từng nói:
''Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công''.
Đoàn kết lương, giáo và đoàn kết giữa những người có tín ngưỡng, tôn
giáo với những người không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa những người theo
tôn giáo khác nhau là một bộ phận của đại đoàn kết toàn dân tộc.


Muốn đoàn kết những người có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau và với
người không theo tín ngưỡng, tôn giáo phải đặt lợi ích dân tộc, lợi ích toàn dân
lên trên hết, đồng thời quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào
có đạo.
Muốn đoàn kết phải tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín
ngưỡng của nhân dân. Khắc phục những mặc cảm, định kiến với nhau và chống
âm mưu chia rẽ lương, giáo của bọn phản động.
Muốn đoàn kết tôn giáo phải phân biệt được nhu cầu tín ngưỡng chân
chính của đồng bào có đạo với việc lợi dụng tín ngưỡng vì lợi ích cục bộ, vị kỷ;

phân biệt đức tin chân chính của quần chúng với việc các phần tử phản động lợi
dụng tôn giáo để chống phá sự đoàn kết..., từ đó có hình thức xử lý phù hợp.
Muốn đoàn kết phải chú ý kế thừa giá trị nhân bản của các tôn giáo, trân
trọng những người sáng lập các tôn giáo. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói, nếu
như phật Thích ca, Chúa Giê-su, Các Mác, Tôn Dật Tiên sống cùng thời thì chắc
chắn các ông sẽ là bạn tốt của nhau vì các ông đều có mong muốn giải phóng
cho con người. Người luôn quan tâm đến các giáo sĩ, giáo dân; độ lượng, vị tha
đối với những người lầm lỗi, phê phán bọn phản động.
Quan điểm đoàn kết của Người là quan điểm trùm lên tất cả, vì sự
nghiệp giải phóng dân tộc, vì lợi ích của nhân dân. Muốn đoàn kết với đồng bào
có tín ngưỡng, tôn giáo trước hết phải tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng của họ.
b. Tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân.
Quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng là một trong những quyền
chính đáng của con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn giáo dục mọi người và
bản thân Người luôn luôn gương mẫu tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của
đồng bào có đạo.
Trong các bài nói, bài viết, các văn bản, sắc lệnh quan trọng... Hồ Chủ
tịch, luôn khẳng định tư tưởng nhất quán, lâu dài của Đảng và Nhà nước ta là
tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân. Sự tôn trọng ấy không chỉ thể
hiện trên văn bản, lời nói mà trên hành động thực tiễn của Người.
Sự tôn trọng đức tin của đồng bào có đạo và lòng thương yêu bà con có
tín ngưỡng tôn giáo khác nhau ở Hồ Chí Minh làm cho những người không cùng
quan điểm với Người cũng phải kính phục.
Một mặt, Hồ Chí Minh giáo dục mọi người cần tôn trọng tự do tín
ngưỡng; mặt khác, Người cũng nghiêm khắc phê phán những phần tử lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo, những kẻ hành nghề mê tín dị đoan, phê phán những việc


làm sai chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng và Chính phủ, ở cả giáo chức,

tín đồ, lẫn cán bộ, Đảng viên.
c. Về mối quan hệ giữa tôn giáo và dân tộc, đức tin và lòng yêu nước
Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, đối với người có tín ngưỡng, đức tin
tôn giáo và lòng yêu nước không mâu thuẫn nhau, mà mỗi một người vừa là
người dân yêu nước, vừa là một tín đồ chân chính. Đối với đồng bào Công giáo,
Người nói, người Công giáo tốt phải là người Công dân tốt, kính Chúa và yêu
nước là nhiệm vụ không thể tách rời, có hết lòng phụng sự Tổ quốc mới làm
sáng danh Chúa.
Vì vậy, mọi người phải làm cho nước nhà độc lập trước. Độc lập rồi phải
quan tâm đến đời sống của nhân dân, vì giành được độc lập rồi, nhân đân vẫn
đói, vẫn khổ thì độc lập ấy cũng chẳng để làm gì....
II. TÌNH HÌNH TÍN NGƯỠNG TÔN GIÁO NƯỚC TA HIỆN NAY
Ở nước ta, quyền tự do tín ngưỡng được quy định trong Hiến pháp và
trong các văn bản pháp luật của Nhà nước, mọi sinh hoạt tôn giáo bình thường
được tôn trọng, tạo điều kiện cho quần chúng thực hiện các tín ngưỡng tôn giáo
của mình. Trong những năm gần đây, cơ chế kinh tế mới cũng tác động vào tôn
giáo, làm xuất hiện những hiện tượng tôn giáo mới. Các thế lực thù địch chống
phá cách mạng Việt Nam tăng cường lợi dụng tôn giáo để thực hiện ý đồ ''diễn
biến hòa bình". Vì vậy, nhìn chung, tôn giáo ở nước ta có chiều hướng phát triển
và có những chuyển biến phức tạp.
Nhìn chung, các tôn giáo đều hành đạo trong khuôn khổ pháp luật tuân
thủ sự quản lý của Nhà nước. Đại đa số tín đồ, chức sắc tôn giáo ở nước ta là
những người lao động, có tinh thần yêu nước, có quá trình gắn bó với dân tộc,
tán thành và ủng hộ công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.
Trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược đã có hàng chục vạn tín đồ
tham gia bộ đội, thanh niên xung phong; hàng ngàn liệt sĩ, thương binh, hàng
trăm bà mẹ Việt Nam anh hùng là tín đồ các tôn giáo. Hiện tượng một vài giới
chức tôn giáo có thái độ và hành động không thiện chí với đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước, công khai lôi kéo các tín đồ chống lại chính quyền chỉ là
cá biệt, ít được quần chúng ủng hộ.

Công giáo, Phật giáo cũng như một số tôn giáo khác đang có biểu hiện
phục hồi, Tin lành đang phát triển mạnh, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu
số. Các cơ sở thờ tự, như: nhà thờ, chùa, thánh thất, đình, đền, lăng tẩm, tinh xá,
tịnh thất, nhà thờ họ được xây mới, tu sửa. Bên cạnh sự hoạt động sôi nổi hơn
của các tôn giáo lớn, đã xuất hiện những tạp giáo cả hiện tượng tôn giáo phản
văn hóa, cũng như hình tượng tôn giáo thiên về phục hồi đạo đức. Các ''đấng


tiên tri'', các ''phép lạ'', các hiện tượng tâm linh mang tính khoa học, vừa mang
tính thần bí xuất hiện lúc này, lúc khác, những hoạt động đồng bóng, bói toán, tử
vi nổi lên từng lúc từng nơi.
Hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng cũng chịu ảnh hưởng của cơ chế thị
trường, trở nên nhộn nhịp, nhất là trong mùa lễ hội. Tình trạng quá cả tin, lãng phí
nhiều thời gian, tiền của vào các nghi thức, lễ cúng phô trương, ít tính thiêng liêng
thường xuất hiện trong các cuộc hành hương, rước lễ. Sách, báo, băng hình về tôn
giáo, mê tín xuất hiện nhiều, tán phát tràn lan cả nông thôn lẫn thành thị. Ở một
vài nơi, nhất là trong các tôn giáo mới, xuất hiện tình trạng dùng nơi thiêng liêng
làm điều thế tục, chạy theo danh lợi, lợi dụng lòng tin của các tín đồ bày ra
chuyện quyên góp dưới nhiều hình thức, lấy tiền công đức mua sắm cho cá nhân
và gia đình; thậm chí nhận tiền trái phép của các tổ chức nước ngoài.
Song, cũng có tình trạng một số cá nhân, tổ chức tôn giáo lợi dụng đổi
mới và tự quản lý có những mặt còn yếu kém của chính quyền để luồn lách, lấn
lướt, thực hiện các hoạt động tôn giáo vượt quá khuôn khổ cho phép, kích động
một số chức sắc, tín đồ cực đoan trong các tôn giáo, phối hợp với các thế lực
phản động trong nước và quốc tế gây mất ổn định chính trị, lôi kéo quần chúng,
phục vụ cho âm mưu ''diễn biến hòa bình'' của các thế lực thù địch.
III. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO, NGUYÊN TẮC VÀ CHÍNH SÁCH CỦA
ĐẢNG, NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TÔN GIÁO.
1. Quan điểm chỉ đạo công tác tôn giáo
a. Công tác tôn giáo phải vừa quan tâm giải quyết hợp lý nhu cầu tín

ngưỡng của quần chúng, vừa kịp thời đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo để
phá hoại sự nghiêp cách mạng
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn
giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều
điểm phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới. Việc giải quyết những nhu
cầu hợp lý về tín ngưỡng tôn giáo của quần chúng là một nhiệm vụ của các tổ
chức Đảng và cơ quan nhà nước. Mọi hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo phải bị ngăn chặn và xử lý.
Mặt khác, do sự lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch chống phá sự
nghiệp cách mạng, mọi hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống lại Nhà
nước ta, phá hoại khối đoàn kết toàn dân đều bị xử lý theo pháp luật.
b. Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần
chúng
Thực chất công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng. Từ việc
chăm lo những lợi ích thiết thân, trong đó có nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo chính


đáng, các chính sách và việc làm cụ thể của Đảng và Nhà nước ta sẽ thuyết
phục, lôi cuốn, tập hợp tín đồ các tôn giáo tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Thái độ đối xử thô bạo, mệnh lệnh, áp đặt một chiều hoàn toàn xa lạ
với công tác vận động quần chúng. Ngay cả khi buộc phải dùng đến biện pháp
pháp luật thì cũng phải tuyên truyền, giải thích để được sự đồng tình, ủng hộ của
đông đảo quần chúng.
c. Công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị
Công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị nên phải có
sự phối hợp chặt chẽ giữa các thành tố trong hệ thống dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Đảng lãnh đạo, xác định quan điểm đường lối và không ngừng hoàn thiện
chính sách tôn giáo. Nhà nước thực hiện chức năng quản lý bằng pháp luật đối
với các tổ chức và các hoạt động tôn giáo. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân làm công tác vận động các tín đồ, chức sắc tôn giáo... Chỉ có như vậy

mới tạo ra sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị thực hiện công tác
tôn giáo.
2. Nguyên tắc thực hiện chính sách đối với tôn giáo
- Tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và tự do không
tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Mọi công dân đều bình đẳng về nghĩa vụ và
quyền lợi trước pháp luật, không phân biệt người theo đạo và không theo đạo,
cũng như giữa các tôn giáo khác nhau.
- Đoàn kết gắn bó với đồng bào theo các tôn giáo và không theo tôn giáo
trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Mọi cá nhân và tổ chức hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phải tuân thủ
Hiến pháp và pháp luật; có nghĩa vụ bảo vệ lợi ích của Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa; giữ gìn độc lập, dân tộc và chủ quyền quốc gia.
- Những hoạt động tôn giáo ích nước, lợi dân, phù hợp với nguyện vọng
và lợi ích chính đáng, hợp pháp của tín đồ được bảo đảm. Những giá trị văn
hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo, kể cả văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể,
được tôn trọng và khuyến khích, phát huy.
- Mọi hành vi lợi dụng hoạt động tôn giáo để làm mất trật tự an toàn xã
hội, phương hại nền độc lập dân tộc, phá hoại chính sách đoàn kết toàn dân,
chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gây tổn hại các giá trị
đạo đức, lối sống, văn hóa của dân tộc, ngăn cản tín đồ, chức sắc các tôn giáo
thực hiện nghĩa vụ công dân, đều bị xử lý theo pháp luật. Hoạt động mê tín phải
bị phê phán và lại bỏ.
- Các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể, các tổ chức xã hội và các tổ chức tôn giáo có trách nhiệm làm tốt công


tác vận động quần chúng và thực hiện đúng đắn chính sách tôn giáo của Đảng,
Nhà nước.
IV. NHIỆM VỤ CỦA CÔNG TÁC TÔN GIÁO VÀ NHỮNG CHÍNH
SÁCH CỤ THỂ ĐỐI VỚI TÔN GIÁO HIỆN NAY.

l. Nhiệm vụ của công tác tôn giáo hiện nay.
Một là, làm cho toàn Đảng, toàn dân nói chung, bà con tín đồ, chức sắc
tôn giáo nói riêng hiểu rõ và thể hiện đúng quan điểm, đường lối chính sách tôn
giáo của Đảng và Nhà nước, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân,
đoàn kết tôn giáo, bảo đảm tôn giáo đồng hành gắn bó với dân tộc, tuân thủ pháp
luật giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia.
Hai là, thường xuyên chăm lo đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần,
nâng cao trình độ mọi mặt cho đồng bào là tín đồ các tôn giáo. Thực hiện tự do
tín ngưỡng, tích cực vận động đồng bào có đạo tăng cường đoàn kết xây dựng
cuộc sống mới, sống ''tốt đời, đẹp đạo” góp phần phát triển kinh tế - xã hội, giữ
vững ổn định chính trị, an ninh, quốc phòng.
Ba là, tăng cường công tác quản lý nhà nước, tạo điều kiện bảo đảm cho
các tôn giáo hoạt động bình thường theo pháp luật; mọi tín đồ, chức sắc, nhà tu
hành thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, tích cực đóng góp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng cuộc sống mới ở cơ sở, ở các khu dân cư.
Bốn là, tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn, giúp đỡ tín đồ và chức sắc
tôn giáo nâng cao tinh thần cảnh giác, chủ động ngăn ngừa và đấu tranh làm thất
bại âm mưu và hoạt động lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch chống lại sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.
Năm là, xây dựng, củng cố tổ chức Đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở
ngày càng vững mạnh trên các địa bàn có đồng bào có đạo. Cán bộ, Đảng viên
nói chung và Đảng viên theo tôn giáo nói riêng phải gương mẫu thực hiện và
vận động các tín đồ tôn giáo thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Kiện toàn bộ máy, có quy hoạch, kế hoạch
đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo ở các ngành, các cấp. Mặt trận
và các đoàn thể tăng cường công tác vận động tín đồ, chức sắc các tôn giáo hòa
nhập cùng cộng đồng trong công cuộc đổi mới; thực hiện cuộc vận động ''Toàn
dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư” ''Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa”..., hăng hái tham gia phong trào thi đua yêu nước ở từng
cơ sở địa phương và cả nước.

2. Những chính sách cụ thể đối với tôn giáo hiện nay
a. Đối với tín đồ các tôn giáo


- Tín đồ các tôn giáo có quyền thực hiện các hoạt động tôn giáo không
trái với chủ trương, chính sách và pháp luật của Nhà nước, tiến hành các nghi
thức thờ cúng, cầu nguyện tại gia đình và tham gia các hoạt động tôn giáo, học
tập giáo lý, đạo đức, phục vụ lễ nghi tôn giáo tại cơ sở thờ tự.
- Tín đồ các tôn giáo không được lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo làm trái
pháp luật, không được hoạt động mê tín, dị đoan.
- Người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được sinh hoạt tôn
giáo theo pháp luật Việt Nam.
b. Đối với chức sắc, nhà tu hành tôn giáo
- Chức sắc nhà tu hành tôn giáo có quyền:
+ Được thực hiện chức trách, chức vụ tôn giáo của mình trong phạm vi
trách nhiệm đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận.
+ Được Nhà nước xét khen thưởng công lao đóng góp trong sự nghiệp
đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
+ Được hưởng các quyền lợi chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của công dân.
- Chức sắc nhà tu hành tôn giáo có nghĩa vụ:
+ Thực hiện đúng chức trách, chức vụ tôn giáo trong phạm vi trách
nhiệm tôn giáo đã được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chấp thuận và
chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động tôn giáo trong phạm vi trách
nhiệm đó.
+ Động viên tín đồ chấp hành nghiêm chỉnh chính sách và pháp luật của
Nhà nước.
Người mạo danh chức sắc, nhà tu hành tôn giáo bị xử lý hành chính hoặc
truy cứu trách nhiệm hình sự.
Người đang chấp hành án phạt tù hoặc đang bị quản chế hành chính
không được thực hiện chức trách, chức vụ tôn giáo. Việc phục hồi chức trách,

chức vụ tôn giáo của người đã hết hạn chấp hành các hình phạt kể trên phải do
tổ chức tôn giáo quản lý người đó đề nghị và được cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền chấp thuận.
- Việc mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành phải được phép của Thủ
tướng Chính Phủ. Tổ chức và hoạt động của các trường thực hiện theo quy định
của Ban Tôn giáo Chính phủ và Bộ giáo dục và Đào tạo. Các trường thực hiện các
quy chế, chính sách, pháp luật của Nhà nước theo sự hướng dẫn, giám sát, kiểm
tra của các cơ quan chức năng Nhà nước và ủy ban nhân dân cấp tỉnh sở tại.


- Việc phong giáo phẩm, phong chức cho chức sắc, nhà tu hành tôn giáo;
việc bổ nhiệm, thuyên chuyển những chức sắc, nhà tu hành... thực hiện theo
Hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo và đảm bảo các quy định mới được
Nhà nước thừa nhận. Đối với chức sắc, nhà tu hành tôn giáo được tổ chức, cá
nhân tôn giáo ở nước ngoài phong giáo phẩm, phong chức, bổ nhiệm phải có
thỏa thuận trước với cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo ở Trung ương.
c. Đối với các tổ chức tôn giáo
- Tổ chức tôn giáo có tôn chỉ, mục đích, đường hướng hành đạo, cơ cấu
tổ chức phù hợp với pháp luật và được Thủ tướng Chính phủ cho phép hoạt
động thì được pháp luật bảo hộ.
- Tổ chức tôn giáo hoạt động trái tôn chỉ, mục đích, đường hướng hành đạo,
cơ cấu tổ chức đã được Thủ tướng Chính phủ cho phép thì bị đình chỉ hoạt động.
- Những cá nhân chịu trách nhiệm về những vi phạm đó bị xử lý theo
pháp luật.
- Chức sắc, nhà tu hành và tổ chức tôn giáo hoạt động từ thiện theo quy định
của Nhà nước. Các cơ sở từ thiện do chức sắc, nhà tu hành và tổ chức tôn giáo bảo
trợ hoạt động theo sự hướng dẫn của các cơ quan chức năng của Nhà nước.
d. Đối với các hoạt động tôn giáo
- Các hoạt động tôn giáo tại cơ sở thờ tự tôn giáo đã đăng ký hàng năm
và thực hiện trong khuôn viên cơ sở thờ tự thì không phải xin phép.

- Những hoạt động tôn giáo vượt ra ngoài khuôn viên cơ sở thờ tự hoặc
chưa đăng ký hàng năm phải được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Các cuộc tĩnh tâm của linh mục trong giáo phận, của các tu sĩ tập trung
từ nhiều cơ sở, dòng tu của Thiên chúa, các cuộc bồi linh của mục sư và truyền
đạo của đạo Tin lành, các kỳ an cư của tăng, ni Phật và những sinh hoạt tôn giáo
tương tự của các tôn giáo khác thực hiện theo quy định của cơ quan quản lý nhà
nước cấp tỉnh về tôn giáo.
Đại hội, hội nghị của tổ chức tôn giáo cấp toàn quốc hoặc có liên quan
đến nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải được phép của Thủ tướng
Chính phủ.
Đại hội, hội nghị của tổ chức tôn giáo các cấp ở địa phương phải được
phép của Chủ tịch ủy ban nhân cấp tỉnh.
- Việc in, xuất bản các loại kinh, sách và các xuất bản phẩm tôn giáo,
việc sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu văn hóa phẩm tôn giáo, đồ dùng trong
việc đạo thực hiện theo quy chế của Nhà nước về in, xuất bản, sản xuất kinh
doanh, xuất nhập khẩu văn hóa phẩm, hàng hóa.


Cấm in, sản xuất, kinh doanh, lưu hành, tàng trữ sách báo, văn hóa phẩm
có nội dung chống lại nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, gây chia
rẽ tôn giáo, chia rẽ dân tộc, gây mất đoàn kết trong nhân dân.
e. Đối với nơi thờ tự và tài sản của các tổ chức tôn giáo
- Nhà nước bảo hộ nơi thờ tự của tổ chức tôn giáo.
- Tổ chức tôn giáo có trách nhiệm giữ gìn, tu bổ nơi thờ tự.
- Nhà, đất và các tài sản khác đã được các tổ chức, cá nhân tôn giáo
chuyển giao cho các cơ quan nhà nước quản lý, sử dụng do thực hiện chính sách
của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
hoặc tặng, hiến cho Nhà nước thì đều thuộc quyền sở hữu của Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

- Việc tu bổ và sửa chữa nhỏ, không làm thay đổi cấu trúc, kiến trúc
công trình thuộc cơ sở thờ tự thì tổ chức thực hiện sau khi thông báo cho chủ
tịch ủy ban nhân dân cấp xã sở tại.
Việc sửa chữa lớn làm thay đổi cấu trúc, kiến trúc công trình tại cơ sở thờ
tự; việc khôi phục công trình thờ tự bị hoang phế, bị hủy hoại do chiến tranh,
thiên tai, rủi ro; việc tạo lập cơ sở thờ tự mới, xây dựng công trình thờ tự (nhà,
tượng, bia, đài, tháp...) phải được phép của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
- Tổ chức tôn giáo được tạo nguồn tài chính từ sự ủng hộ tự nguyện của
cá nhân, tổ chức, từ những thu nhập hợp pháp khác.
Việc tổ chức quyên góp bao gồm cả quyên góp để xây dựng, sửa chữa cơ
sở thờ tự phải được Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh cho phép. Nghiêm cấm
việc ép buộc tín đồ đóng góp.
Việc quản lý, sử dụng các khoản tài chính có được từ các nguồn trên đây
thực hiện theo quy định của pháp luật.
f. Đối với hoạt động đối ngoại của tôn giáo.
- Hoạt động quốc tế của tổ chức tôn giáo, của các tín đồ chức sắc tôn
giáo phải tuân thủ pháp luật phù hợp với chính sách đối ngoại của Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền
quốc gia, vì hòa bình, ổn định, hợp tác và hữu nghị.
- Tổ chức, cá nhân tôn giáo ở trong nước mời tổ chức, cá nhân tôn giáo ở
nước ngoài vào Việt Nam phải được sự chấp thuận của cơ quan quản lý nhà
nước về tôn giáo ở Trung ương.
- Tổ chức, cá nhân tôn giáo ở trong nước tham gia làm thành viên của tổ
chức tôn giáo ở nước ngoài, tham gia các hoạt động tôn giáo hoặc có liên quan


đến tôn giáo ở nước ngoài thực hiện theo quy định của cơ quan quản lý nhà
nước về tôn giáo ở Trung ương.
- Tổ chức, cá nhân nước ngoài, kể cả tổ chức cá nhân tôn giáo vào Việt
Nam để hoạt động ở các lĩnh vực không phải là tôn giáo thì không được tổ chức,

điều hành hoặc tham gia tổ chức, điều hành các hoạt động tôn giáo, không được
truyền bá tôn giáo.




×