Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Cảm nhận về 2 câu thơ sau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.53 KB, 3 trang )

Cảm nhận về 2 câu thơ sau :
"Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió "
( 1) Quê hương - khái niệm trừu tượng, thiêng liêng nhưng lại hết
sức bình dị, thân thiết với mỗi chúng ta , đó là mảnh đất chôn nhau cắt rốn, nơi
ấy có ông bà, cha mẹ, nơi ta tha thiết gắn bó khi gần và quay quắt nhớ lúc chia
xa, mỗi một miền quê đều có một nét riêng, ta gọi đó là hồn quê, có khi đó là lũy
tre xanh, là hàng dừa trước ngõ, là con đường đất đỏ đến trường… (2)Với Tế
Hanh, chàng trai mười tám tuổi xa quê, nhớ về quê hương, một làng chài giáp
sông, ven biển của mình, ông lại nhớ:
Cánh buồn giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng, bao la thâu góp gió.
(3)Đây là hai câu thơ đẹp, Tế Hanh đã viết bằng cả tấm tình mến yêu tha thiết
làng quê mình. (4)Nhà thơ đã sử dụng, nghệ thuật so sánh, cánh buồm trên con
thuyền ra khơi với mảnh hồn làng. (5) Cánh buồm là một vật cụ thể hữu hình
được ví với mảnh hồn làng , hồn vía của làng chài : cái trừu tượng với cái vô
hình vô ảnh; cái cụ thể với cái trừu tượng, cái vật chất với cái tinh thần, cái bình
dị với cái thiêng liêng. (6)Nhà thơ đã linh hồn hóa cánh buồm, thể hiện sự cảm
nhận tinh tế, chính xác về hồn quê hương, gợi rất đúng hồn quê thân thuộc, với
ông thuở mười tám tuổi, hình ảnh chiếc buồm ra khơi dường như mang hơi thở,
nhịp đập, quê hương.(7) Một cánh buồm rướn thân trắng bao la thâu góp gió thật
đẹp trong dáng vẻ cường tráng, sức vóc tung tỏa của nó. (8) Phải là người yêu
quê hương , đất nước da diết mới có thể vẽ lên mọi vật trong trí nhớ mình rõ nét
đến như vậy , điều này cho thấy , hình ảnh quê hương chưa bao giờ phai mờ
trong tâm hồn người con yêu nước Tế Hanh
Cảm nhận về 4 câu thơ cuối bài thơ " Khi con tu hú "
(1)Tố Hữu - một cánh chim đầu đàn của thơ ca Việt Nam , một tác phẩm
của ông đều gắn liền với một chặng đường cách mạng và " Khi con tu hú " là
một trong những bài thơ đó .(2) Nổi bật lên trong bài thơ , ấn tượng nhất với em
là 4 câu thơ đầu , nó đã lột tả được tâm trạng uất ức ngột ngạt của nhà thơ trong
chốn lao tù .(3Văn học trung đại Việt Nam trải qua mười hai thế kỉ từ thế kỉ


Xuân Hương đến hết thế kỉ XIX. Đây là thời kì dân tộc ta đã thoát khỏi ách
thống trị nặng nề của phong kiến phương Bắc hơn một ngàn năm. Nền văn học
trung đại Việt Nam gắn liền với quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của
dân tộc. Về nội dung văn học thời kỳ này mang hai đặc điểm lớn đó là: Cảm
hứng yêu nước và cảm hứng nhân đạo. Cảm hứng yêu nước và cảm hứng nhân
đạo thực ra không hoàn toàn tách biệt nhau. Bởi yêu nước cũng là phương diện
cơ bản của nhân đạo.
Tuy vậy cảm hứng nhân đạo cũng có những đặc điểm riêng. Nó bao
gồm những nguyên tắc đạo lí làm người, những thái độ đối xử tốt lành trong các
mối quan hệ giữa con người với nhau, những khát vọng sống, khát vọng về hạnh
phúc. Đó còn là tấm lòng cảm thương cho mọi kiếp người đau khổ, đặc biệt là
với trẻ em, với phụ nữ và những người lương thiện bị hãm hại, những người


hồng nhan mà bạc mệnh, những người tài hoa mà lận đận…Những nội dung
nhân đạo đó đã được thể hiện ở trong toàn bộ văn học trung đại, những biểu hiện
tập trung nhất là ở trong các tác phẩm văn học nửa
sau thế kỉ XVIII và nửa đầu thế kỉ XIX, đặc biệt là trong những tác phẩm thơ.
Nội dung cảm hứng nhân đạo của văn học trung đại có ảnh hưởng sâu sắc từ tư
tưởng từ bi bác ái
của đạo phật và học thuyết nhân nghĩa của đạo Nho.
Trong thơ trung đại Việt Nam có thể kể ra rất nhiều những tác phẩm
mang nội dung nhân đạo như: Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, Truyện Kiều
của Nguyễn Du, Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, Chinh phụ ngâm
của Đặng Trần Côn, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu,...
Trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi đó là tư tưởng nhân nghĩa gắn liền với
tư tưởng yêu nước và độc lập tự do của Tổ quốc.
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Nhà nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Trước hết đó là tấm lòng cảm thông của tác giả dành cho những con
người nhỏ bé bất hạnh trong xã hội đã bị bọn giặc ngoại xâm đàn áp dã man:
Nướng dân đen lên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Ở Truyện Kiều của Nguyễn Du, Cung oán ngâm khúc của Nguyền
Gia Thiều đó là việc lên án chế độ phong kiến chà đạp lên quyền sống của người
phụ nữ, lên những số phận tài hoa. Xã hội đó đã tước đoạt đi những quyền sống
thiêng liêng mà lẽ ra con người phải có. Đặc biệt các tác giả nói lên tiếng nói
bênh vực người phụ nữ những người chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội.
Không chỉ lên tiếng đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người
mà các tác giả còn cất lên tiếng nói nhân đạo phản đối những cuộc chiến tranh
phi nghĩa đã cướp đoạt đi những quyền sống thiêng liêng mà lẽ ra con người
phải có. Đặc biệt các tác giả nói lên tiếng nói bênh vực người phụ nữ những
người chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội.
Không chỉ lên tiếng đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người
mà các tác giả còn cất lên tiếng nói nhân đạo phản đối những cuộc chiến tranh
phi nghĩa đã cướp đi biết bao nhiêu cảnh sống yên vui, chia lìa bao nhiêu đôi
lứa. Qua lời của người chinh phụ trong tác phẩm Chinh phụ ngâm - Đặng Trần
Côn muốn lên án cuộc chiến tranh phong kiến phi nghĩa đó là nỗi nhớ người
chồng nơi chiến trường gian khổ.
Buồn rầu nói chẳng nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.
Gà eo éc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Nỗi sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Những cuộc chiến tranh này thực chất chỉ là việc tranh quyền đoạt lợi



của các tập đoàn phong kiến và phủ lên nó là một bầu trời đầy tang thương. Thế
lực đồng tiền cũng đã phủ mờ đi những nét truyền thống tốt đẹp của xã hội đó là
với trường hợp nàng Kiều. Trong xã hội trung đại, thế lực đồng tiền cũng rất
đáng lên án vì nó đã vùi lấp và nhấn chìm đi biết bao những con người tài hoa,
những người có khát vọng hoài bão lớn muốn đem sức lực nhỏ bé của mình
cống hiến cho sự nghiệp của dân tộc.
Văn học trung đại đã chứng minh cho tinh thần nhân đạo cao cả của
dân tộc Việt Nam. Đó là một dân tộc có những truyền thống tốt đẹp. Quay trở lại
với bài Đại cáo bình Ngô, sau khi đánh thắng quân xâm lược nhà Minh, quân và
dân ta đã mở đường hiếu sinh cho kẻ thù chứ không phải đuổi cùng giết tận, việc
làm nhân đạo đó chẳng những đã thể hiện tinh thần nhân đạo cao cả của dân tộc
mà còn thể hiện niềm khát vọng được sống trong hòa bình của nhân dân.
Nhìn chung cảm hứng nhân đạo trong thơ trung đại chủ yếu được thể
hiện qua những nét chủ yếu sau: Trước hết đó là tiếng nói của tác giả, đó là tình
cảm của tác giả dành cho những con người nhỏ bé chịu nhiều thệit thòi trong xã
hội qua đó mà đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho họ, có được tình cảm như
vậy, các tác giả thơ thời kì này mới viết được những dòng thơ, trang thơ xúc
động đến như thế. Thơ trung đại còn thể hiện ở tiếng nói bênh vực giữa con
người với con người, đề cao tình bạn, tình anh em, tình cha con, thể hiện mong
muốn được sống trong hòa bình. Thơ trung đại đã thể hiện bước đi vững chắc
của mình trong hơn mười thế kỉ, đó là sự tiếp nối bước đi của nền văn học dân
gian. Tuy văn học dân gian thời kì này vẫn phát triển nhưng dấu ấn không còn
như trước. Thơ trung đại đã thể hiện những truyền thống tốt đẹp của dân tộc đó
là chủ nghĩa yêu
nước và tinh thần nhân đạo qua đó mà làm tiền đề cho sự phát triển văn học các
thời kì sau đó. )




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×