Cảm nhận về các bài thơ: Tỏ lòng, Cảnh ngày
hè, Nhàn, Đọc Tiểu Thanh kí
Cảm nhận của em về bài thơ Tỏ Lòng
Triều đại nhà Trần (1226-1400) là một mốc son chói lọi trong 4000 năm dựng
nước và giữ nước của lịch sử dân tộc ta. Ba lần kháng chiến và đánh thắng quân xâm
lược Nguyên – Mông, nhà Trần đã ghi vào pho sử vàng Đại Việt những chiến cơng
Chương Dương, Hàm Tử, Bạch Đằng… bất tử.
Khí thế hào hùng, oanh liệt của nhân dân ta và tướng sĩ đời Trần được các sử
gia ngợi ca là “Hào khí Đơng A”. Thơ văn đời Trần là tiếng nói của những anh hùng –
thi sĩ dào dạt cảm hứng yêu nước mãnh liệt. “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn,
“Thuật hồi” ( Tỏ lịng ) của Phạm Ngũ Lão, “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán
Siêu.v.v… là những kiệt tác chứa chan tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc.
Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là một danh tướng đời Trần, trăm trận trăm thắng,
văn võ toàn tài. Tác phẩm của ông chỉ còn lại hai bài thơ chữ Hán: “Thuật hồi” và
“Vãn Thượng tướng Quốc cơng Hưng Đạo Đại vương”.
Bài thơ “Tỏ lòng” thể hiện niềm tự hào về chí nam nhi và khát vọng chiến cơng
của người anh hùng khi Tổ quốc bị xâm lăng. Nó là bức chân dung tự hoạ của danh
tướng Phạm Ngũ Lão.
Hồnh sóc giang san kháp kỉ thu
Tam qn tì hổ khí thơn ngưu
Nam nhi vị liễu cơng danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.
Cầm ngang ngọn giáo (hồnh sóc) là một tư thế chiến đấu vô cùng hiên ngang
dũng mãnh. Câu thơ “Hồng sóc giang sơn kháp kỷ thu” là một câu thơ có hình tượng
kỳ vĩ, tráng lệ, vừa mang tầm vóc khơng gian (giang sơn) vừa mang kích thước thời
gian chiều dài lịch sử (kháp kỷ thu). Nó thể hiện tư thế người chiến sĩ thuở “bình
Nguyên” ra trận hiên ngang, hào hùng như các dũng sĩ trong huyền thoại. Chủ nghĩa
yêu nước được biểu hiện qua một vần thơ cổ kính trang nghiêm: cầm ngang ngọn
giáo, xơng pha trận mạc suốt mấy mùa thu để bảo vệ giang sơn yêu quý.
Đội quân “Sát Thát” ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp (ba quân) với sức
mạnh phi thường, mạnh như hổ báo (tỳ hổ) quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Khí
thế của đội quân ấy ào ào ra trận. Không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn cản
nổi. “Khí thơn Ngưu” nghĩa là khí thế, tráng chí nuốt sao Ngưu, làm át, làm lu mờ sao
Ngưu trên bầu trời. Hoặc có thể hiểu : ba quân thế mạnh nuốt trôi trâu. Biện pháp tu từ
thậm xưng sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hồnh tráng, vũ trụ: “Tam
qn tì hổ khí thơn Ngưu”. Hình ảnh ẩn dụ so sánh: “Tam quân tì hổ…” trong thơ
Phạm Ngũ Lão rất độc đáo, khơng chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của
đội quân “Sát Thát” đánh đâu thắng đấy mà nó còn khơi nguồn cảm hứng thơ ca; tồn
tại như một điển tích, một thi liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc:
-“Thuyền bè muôn đội;
Tinh kỳ phấp phới
Tỳ hổ ba quân, giáo gươm sáng chói…” (Bạch Đằng giang phú)
Người chiến sĩ “bình Nguyên” mang theo một ước mơ cháy bỏng: khao khát
lập chiến công để đền ơn vua, báo nợ nước. Thời đại anh hùng mới có khát vọng anh
hùng! “Phá cường địch, báo hoàng ân” (Trần Quốc Toản) – “Đầu thần chưa rơi xuống
đất, xin bệ hạ đừng lo” (Trần Thủ Độ). “…Dẫu cho trăm thân này phơi ngồi nội cỏ,
nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng” (Trần Quốc Tuấn)… Khát vọng
ấy là biểu hiện rực rỡ những tấm lòng trung quân ái quốc của tướng sĩ, khi tầng lớp
quý tộc đời Trần trong xu thế đi lên đang gánh vác sứ mệnh lịch sử trọng đại. Họ mơ
ước và tự hào về những chiến tích hiển hách, về những võ cơng oanh liệt của mình có
thể sánh ngang tầm sự nghiệp anh hùng của Vũ Hầu Gia Cát Lượng thời Tam Quốc.
Hai câu cuối sử dụng một điển tích (Vũ Hầu) để nói về nợ công danh của nam nhi thời
loạn lạc, giặc giã:
“Cơng danh nam tử cịn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”
“cơng danh” mà Phạm Ngũ Lão nói đến trong bài thơ là thứ công danh được
làm nên bằng máu và tài thao lược, bằng tinh thần quả cảm và chiến cơng. Đó khơng
phải là thứ “cơng danh” tầm thường, đậm màu sắc anh hùng cá nhân. Nợ công danh
như một gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu và lòng
dũng cảm. Không chỉ “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”, mà tướng sĩ còn học tập
binh thư, rèn luyện cung tên chiến mã, sẵn sàng chiến đấu “Khiến cho người người
giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở
cửa Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai,…” để Tổ quốc Đại Việt được
trường tồn bền vững: “Non sơng nghìn thuở vững âu vàng” (Trần Nhân Tơng).
“Thuật hồi” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Giọng thơ hùng tráng,
mạnh mẽ. Ngơn ngữ thơ hàm súc, hình tượng kỳ vĩ, tráng lệ, giọng thơ hào hùng,
trang nghiêm, mang phong vị anh hùng ca. Nó mãi mãi là khúc tráng ca của các anh
hùng tướng sĩ đời Trần, sáng ngời “hào khí Đơng-A”.
Cảm nhận bài thơ Cảnh Ngày Hè
"Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hoè lục đùn đùn tán rợp gương
Thạch lựu hiên cịn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương."
Bài thơ 8 câu 57 chữ gồm một bức tranh cảnh ngày hè - 6 câu đầu và một lời
bình, suy ngẫm từ bức tranh ấy - 2 câu cuối.
Trong bức tranh đậm màu, nền trời chiều ráng đỏ, một ngơi lầu vắng lặng, cây
h cổ thụ ngồi sân tán xanh thẫm, che rợp, bên hiên nhà cây thạch lựu sắc đỏ. Vài
ba chú ve trên các cành cây. Ao sen hồng và xa xa là làng chài đang họp chợ. Có một
người ngồi trên lầu trâm ngâm.
Xem tranh, trước hết ta thấy một tư thế của con nguời ngồi đó. Câu mở đầu
“hóng mát” - ngoạn cảnh nhàn nhã, thảnh thơi.
Nên nhớ, đây là bức tranh thơ của vị tướng cầm quân từng xông pha trận mạc
một thời, từng “đau lịng nhức óc” vì vận nước từng cùng Lê Lợi “dựng cầu trúc ngọn
cờ phấp phới”, và sau này sắm vai ẩn sĩ mà tấm lịng vì dân nước không lúc nào yên
“Đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng”. Đặt trong nỗi truân chuyên của cuộc đời
Nguyễn Trãi, mới thấy quí cái giây phút ngắn ngủi hiếm hoi này, mới thấy cái tư thế
ung dung thưởng ngoạn kia là sự hưởng thụ chân chính. Sau tư thế ấy, thấy cả cái
khơng khí n bình của cả một làng quê, đất nước vừa qua cơn binh lửa.
Con người này có ánh mắt tinh tế, say mê. Người ngắm cảnh có đơi mắt rất
sành : 3 loại cây, 3 dáng vẻ, không trùng lặp. Tả cây, mà lộ ra khuôn mặt của mùa hè.
Cây hoè : tán xanh xum xuê, toả rộng - sức sống vươn cao. Thạch lựu : sắc đỏ - rực rỡ
của tố chất khoẻ mạnh. Sen hồng : đậm hương - tâm hồn nồng hậu, thanh cao. Ba loại
cây, ba dáng vẻ, ba màu sắc nữa (xanh, đỏ, hồng) đều có hồn. Ngơn ngữ của thơ thay
cho chất liệu màu của họa là lời nói sống động của đời thường. Chữ “đùn đùn” khiến
ta cảm nhận được sự sống đang nảy nở mạnh mẽ, trông thấy được bằng mắt thường.
Chữ “phun” cịn lạ hơn. Khơng tả hoa đỏ, mà cảm nhận cây lựu đang phun, đang tuôn
ra sắc đỏ. Sen hồng cố đậm hương. Con ve kia cũng gắng hết sức trong những tiếng
kêu cuối cùng. Chợ ở làng chài đang náo nhiệt nên vọng xa lao xao... Chỉ là Bức tranh
phong cảnh ư ? Không phải ! Đấy là Bức tranh đời. Ở đó tạo vật và con người đều
dang sống hết sức mình, sống rất nhiệt tâm, băng mình trong trường tranh đấu sống.
Ta bất ngờ nhận ra điều kì lạ. Con người hoạ sĩ trong thi nhân Nguyễn Trãi thế
kỉ XV ở Việt Nam có gì rất gần gũi đại danh hoạ Hà Lan thế kỉ XIX, Vanh-xăng-Vangốc. Không phải ở những sắc màu được sử dụng, mà ở cách diễn tả nó. Van-gốc vẽ
đồng lúa ta cứ ngỡ cánh đồng bốc cháy. Hàng cây bên đường cũng quằn quại vệt lửa.
Van-gốc đốt cháy mình trong tranh. Nguyễn Trãi đốt cháy mình trong thơ. Chữ “đùn
đùn”, “phun”, "tiễn", "lao xao", "dắng dỏi" là lửa sống rừng rực trong lịng Ức Trai
mặc cho do thời thế ơng đang phải lui về quy ẩn "Rồi, hóng mát thuở ngày trường".
Trong bức tranh này, thính giác nhậy bén đã giúp Nguyễn Trãi “vẽ” cảnh bằng
nhạc. Xa xa, chợ cá không rõ hình, song âm thanh “lao sao” chở hồn đến cho người
đọc cái rộn ràng nhộn nhịp, náo nhiệt của cuộc sống thanh bình. Nếu “lao sao” là khúc
hồ tấu của đời sống dân sinh, thì “dắng dỏi cầm ve” tấu lên âm thanh của cây đàn độc
huyền, ngân lên thiết tha cuối chiều, vấn vương nét quí tộc, lầu cao đơn độc. Hai
phong điệu dân dã và q tộc hồ hợp, bởi chất keo dính của đời thường, đậm đà hơi
thở sống.
Cho nên vẽ bức tranh này đâu chỉ là chuyện của giác quan chuyên nghiệp họa
sĩ hay thi sĩ mà là năng lực, phẩm chất của tâm hồn - tâm hồn tinh tế, đằm thắm của
một con người hết mực yêu đời, say mê cuộc sống.
Bức tranh Cảnh ngày hè có một lời bình - một suy ngẫm đứng riêng, độc lập.
Dễ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương
Mạch thơ từ hướng ngoại sang hướng nội. Từ miêu tả sang biểu cảm, khách thể
sang chủ thể. Nguyễn Trãi đã trực tiếp bộc lộ nỗi lịng mình trong hai câu thơ kết. Ấy
là một giấc mơ, và cả một học thuyết nhân sinh ấp ủ bật ra thành lời.
Giấc mơ, đó là giấc mơ Nghiêu Thuấn. Giấc mơ ngàn đời của những con người
Phương Đông sống trong thời trung đại. Mong sao có một bậc vua hiền để được yên
ổn ấm no hạnh phúc. Trước hơn bốn trăm năm, thời Tiền Lê, Pháp Thuận đã phát biểu
"Vận nước như mây cuốn / Trời Nam mở thái bình / Vơ vi trên điện các / Xứ xứ dứt
đao binh". Vận nước có rối ren thế nào cũng mong hai chữ thái bình, nhà vua đừng
làm điều gì nhiễu nhương thì khắp nơi đều hết nạn binh đao. Sau mấy mươi năm, vị
vua hiền minh Lê Thánh Tơng cố sức mình cũng chỉ để thỏa lòng mong muốn :
Nhà nam nhà bắc đều có mặt
Lừng lẫy cùng ca khúc thái bình.
Bây giờ đây, ưu tư thế cuộc, nhìn đời - từ cỏ cây, vạn vật đến sinh linh vui sống
như thế, Nguyễn Trãi lại khắc khoải khát vọng muôn năm này. Mong trị quốc, bình
thiên hạ sao cho dân giàu nước mạnh là giấc mơ của một bậc đại nhân.
Nếu giấc mơ kia là của bậc đại nhân, thì cái lõi tư tưởng của giấc mơ là của bậc
đại trí. Đó là tư tưởng “thân dân” (dĩ dân vi bản) từng được vạch rõ trong Bình Ngơ
Đại Cáo - "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân".
Đó là tư tưởng lớn. Với Nguyễn Trãi, tư tưởng ấy từng sôi sục trong hành
động, khắc khoải trong tâm tưởng, rát bỏng trong thi ca. Cả bài thơ 8 chữ, đến tận
dòng cuối cùng, chữ “dân” mới bật ra, song chính là cái nền tư tưởng, tình cảm của tác
giả, cái hồn của bài thơ. Là sợi chỉ dỏ xâu chuỗi cả 8 câu thơ lại.
Cảnh ngày hè (Gương báu răn mình số 43) khơng định giáo huấn chung. Trước
đời sống đang dâng trào, yên lành thế, Nguyễn Trãi tự răn mình, phải làm sao cho
cuộc sống này trở thành mãi mãi và chỉ khắc khoải một nỗi "tiên ưu" ấy mà thôi.
Cảm nhận bài thơ Nhàn
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) sống gần trọn một thế kỉ đầy biến động của
chế độ phong kiến Việt Nam: Lê – Mạc xưng hùng, Trịnh – Nguyễn phân tranh.
Trong những chấn động làm rạn nứt những quan hệ nền tảng của chế độ phong kiến,
ông vừa vạch trần những thế lực đen tối làm đảo lộn cuộc sống nhân dân , vừa bảo vệ
trung thành cho những giá trị đạo lí tốt đẹp qua những bài thơ giàu chất triết lí về nhân
tình thế thái, bằng thái độ thâm trầm của bậc đại nho. Nhàn là bài thơ Nôm nổi tiếng
của nhà thơ nêu lên quan niệm sống của một bậc ẩn sĩ thanh cao, vượt ra cái tầm
thường xấu xa của cuộc sống bon chen vì danh lợi.
Nhà thơ đã nhiều lần đứng trên lập trường đạo đức nho giáo để bộc lộ quan
niệm sống của mình. Những suy ngẫm ấy gắn kết với quan niệm đạo lí của nhân dân,
thể hiện một nhân sinh quan lành mạnh giữa thế cuộc đảo điên. Nhàn là cách xử thế
quen thuộc của nhà nho trước thực tại, lánh đời thốt tục, tìm vui trong thiên nhiên
cây cỏ, giữ mình trong sạch. Hành trình hưởng nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm nằm
trong qui luật ấy, tìm về với nhân dân, đối lập với bọn người tầm thường bằng cách
nói ngụ ý vừa ngông ngạo, vừa thâm thúy.
Cuộc sống nhàn tản hiện lên với bao điều thú vị :
Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dù ai vui thú nào
Ngay trước mắt người đọc sẽ hiện lên một Nguyễn Bỉnh Khiêm thật dân dã
trong cái bận rộn giống như một lão nơng thực thụ. Nhưng đó là cả một cách chọn lựa
thú hưởng nhàn cao quí của nhà nho tìm về cuộc sống “ngư, tiều, canh, mục” như một
cách đối lập dứt khoát với các loại vui thú khác, nhằm khẳng định ý nghĩa thanh cao
tuyệt đối từ cuộc sống đậm chất dân quê này! Dáng vẻ thơ thẩn được phác hoạ trong
câu thơ thật độc đáo, mang lại vẻ ung dung bình thản của nhà thơ trong cuộc sống
nhàn tản thật sự. Thực ra, sự hiện diện của mai, cuốc,cần câu chỉ là một cách tô điểm
cho cái thơ thẩn khác đời của nhà thơ mà thôi. Những vật dụng lao động quen thuộc
của người bình dân trở thành hiện thân của cuộc sống không vướng bận lo toan tục
lụy. Đàng sau những liệt kê của nhà thơ, ta nhận ra những suy nghĩ của ông không
tách rời quan điểm thân dân của một con người chọn cuộc đời ẩn sĩ làm lẽ sống của
riêng mình. Trạng Trình đã nhìn thấy từ cuộc sống của nhân dân chứa đựng những vẻ
đẹp cao cả, một triết lí nhân sinh vững bền.
Đó cũng là cơ sở giúp nhà thơ khẳng định một thái độ sống khác người đầy bản
lĩnh:
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khơn người kiếm chốn lao xao
Hai câu thực là một cách phân biệt rõ ràng giữa nhà thơ với những ai , những
vui thú nào về ranh giới nhận thức cũng như chỗ đứng giữa cuộc đời. Phép đối cực
chuẩn đã tạo thành hai đối cực : một bên là nhà thơ xưng Ta một cách ngạo nghễ, một
bên là Người ; một bên là dại của Ta, một bên là khôn của người ; một nơi vắng vẻ với
một chốn lao xao. Đằng sau những đối cực ấy là những ngụ ý tạo thành phản đề khẳng
định cho thái độ sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bản thân nhà thơ nhiều lần đã định
nghĩa dại – khơn bằng cách nói ngược này. Bởi vì người đời lấy lẽ dại – khơn để tính
tốn, tranh giành thiệt hơn, cho nên thực chất dại – khơn là thói thực dụng ích kỷ làm
tầm thường con người, cuốn con người vào dục vọng thấp hèn. Mượn cách nói ấy, nhà
thơ chứng tỏ được một chỗ đứng cao hơn và đối lập với bọn người mờ mắt vì bụi phù
hoa giữa chốn lao xao . Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng chủ động trong việc tìm nơi vắng
vẻ – khơng vướng bụi trần. Nhưng khơng giống lối nói ngược của Khuất Nguyên thuở
xưa « Người đời tỉnh cả, một mình ta say » đầy u uất, Trạng Trình đã cười cợt vào
thói đời bằng cái nhếch mơi lặng lẽ mà sâu cay, phê phán vào cả một xã hội chạy theo
danh lợi, bằng tư thế của một bậc chính nhân qn tử khơng bận tâm những trị khơn dại . Cũng vì thế, nhà thơ mới cảm nhận được tất cả vẻ đẹp của cuộc sống nhàn tản :
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Khác hẳn với lối hưởng thụ vật chất đắm mình trong bả vinh hoa, Nguyễn Bỉnh
Khiêm đã thụ hưởng những ưu đãi của một thiên nhiên hào phóng bằng một tấm lịng
hồ hợp với tự nhiên. Tận hưởng lộc từ thiên nhiên bốn mùa Xuân – Hạ – Thu –
Đơng, nhà thơ cũng được hấp thụ tinh khí đất trời để gột rửa bao lo toan vướng bận
riêng tư . Cuộc sống ấy mang dấu ấn lánh đời thoát tục, tiêu biểu cho quan niệm « độc
thiện kỳ thân » của các nhà nho . đồng thời có nét gần gũi với triết lí « vơ vi » của đạo
Lão, « thốt tục » của đạo Phật. Nhưng gạt sang một bên những triết lí siêu hình, ta
nhận ra con người nghệ sĩ đích thực của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hoà hợp với tự nhiên
một cách sang trọng bằng tất cả cái hồn nhiên trong sạch của lịng mình . Khơng
những thế, những hình ảnh măng trúc, giá, hồ sen còn mang ý nghĩa biểu tượng gắn
kết với phẩm chất thanh cao của người quân tử, sống không hổ thẹn với lịng mình.
Hoà hợp với thiên nhiên là một Tuyết Giang phu tử đang sống đúng với thiên lương
của mình. Quan niệm về chữ Nhàn của nhà thơ được phát triển trọn vẹn bằng sự
khẳng định :
Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú q tựa chiêm bao
Mượn điển tích một cách rất tự nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nói lên thái độ
sống dứt khốt đoạn tuyệt với cơng danh phú quý. Quan niệm ấy vốn dĩ gắn với đạo
Lão – Trang, có phần yếm thế tiêu cực, nhưng đặt trong thời đại nhà thơ đang sống lại
bộc lộ ý nghĩa tích cực. Cuộc sống của những kẻ chạy theo cơng danh phú quý vốn dĩ
ông căm ghét và lên án trong rất nhiều bài thơ về nhân tình thế thái của mình :
Ở thế mới hay người bạc ác
Giàu thì tìm đến, khó thì lui
(Thói đời)
Phú q đi với chức quyền đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là cuộc sống của
bọn người bạc ác thủ đoạn, giẫm đạp lên nhau mà sống. Bọn chúng là bầy chuột lớn
gây hại nhân dân mà ông vô cùng căm ghét và lên án trong bài thơ Tăng thử (Ghét
chuột) của mình. Bởi thế, có thể hiểu thái độ nhìn xem phú q tựa chiêm bao cũng là
cách nhà thơ chọn lựa con đường sống gần gũi, chia sẻ với nhân dân. Cuộc sống đạm
bạc mà thanh cao của người bình dân đáng quý đáng trọng vì đem lại sự thanh thản
cũng như giữ cho nhân cách không bị hoen ố vẩn đục trong xã hội chạy theo thế lực
kim tiền. Cội nguồn triết lí của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn liền với quan niệm sống lành
vững tốt đẹp của nhân dân.
Bài thơ Nhàn bao qt tồn bộ triết trí, tình cảm, trí tuệ của Nguyễn Bỉnh
Khiêm, bộc lộ trọn vẹn một nhân cách của bậc đại ẩn tìm về với thiên nhiên, với cuộc
sống của nhân dân để đối lập một cách triệt để với cả một xã hội phong kiến trên con
đường suy vi thối nát. Bài thơ là kinh nghiệm sống, bản lĩnh cứng cỏi của một con
người chân chính.
Cảm nhận bài thơ Đọc Hiểu Thanh Ký
Trong gia tài thi ca phong phú của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, bộ phận thơ
chữ Hán có vai trị khá đặc biệt. Đó là những bài mà Nguyễn Du có thể trực tiếp bộc
lộ những tâm tư, tình cảm; bày tỏ những day dứt trăn trở của mình. Trong bài thơ
"Độc Tiểu Thanh ký" những tâm sự ấy của Nguyễn Du lại có được sự tương đồng,
gần gũi với cuộc đời, số phận tài sắc mà bất hạnh của Tiểu Thanh.
Bài thơ là sự kết hợp hài hoà giữa nỗi thương người và sự thương mình, giữa
sự xót thương cho kiếp người mệnh bạc và lòng trân trọng ngợi ca những phẩm chất
cao đẹp của con người. Đó cũng là một phương diện quan trọng, sâu sắc trong chủ
nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du.
Trong thơ văn trung đại, không phải ít hình ảnh những người phụ nữ "tài hoa
bạc mệnh", là nạn nhân của cái quy luật "hồng nhan đa truân". Người cung nữ của
Nguyễn Gia Thiều đa tài là thế:
Câu cẩm tú đàn anh họ Lý
Nét đan thanh bậc chị chàng Vương"
và: "Cờ tiên, rượu thánh ai đang
Lưu Linh, Đế Thích là làng tri âm
Nhưng rồi rốt cuộc cũng chỉ bị nhốt nơi cung cấm mà nuối tiếc quá khứ, chán
nản hiện tại và lo sợ cho tương lai. Tuy nhiên, phải nói rằng chỉ đến Nguyễn Du mới
xuất hiện cả một lớp người mang trọn cái số kiếp bạc mệnh ấy: Kiều, Đạm Tiên,
người ca nữ đất Long Thành.... Số phận của họ nằm trong mạch cảm hứng chung của
Nguyễn Du và thể hiện tấm lịng nhân đạo bao la ở ơng. Bởi thế dễ hiểu vì sao cuộc
đời Tiểu Thanh - một người con gái xa về thời gian, cách về không gian lại nhận được
sự cảm thông sâu sắc như thế từ nhà thơ. Tiểu Thanh cũng đầy đủ tài hoa, nhan sắc,
nhất là tài hoa văn chương, thơ phú. Cuộc đời cuối cùng cũng vùi chôn trong nấm mồ
khi đang độ xuân xanh tuổi trẻ. Phần tinh hoa để lại cho đời cũng tiêu tan chỉ vì cái
lịng ghen tng ích kỷ, tàn ác của người vợ cả. Sự biến đổi đau thương ấy của cuộc
đời nàng như được hiện hữu trong cảnh vật :
Hồ Tây cảnh đẹp hố gị hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn
Trong nguyên văn, Nguyễn Du dùng chữ "tận" như muốn xoá sạch mọi dấu vết
của cảnh đẹp Tây Hồ, tô đậm thêm ấn tượng hoang vắng, tàn tạ của gò hoang. Sự biến
đổi tang thương của cảnh gợi mối thương tâm đến người. Cảnh đẹp Tây Hồ giờ chỉ
còn gò hoang cũng như tất cả những gì cịn lại của Tiểu Thanh tài sắc chỉ là một mảnh
giấy tàn, là phần dư cảo. Nhưng chỉ từng ấy thôi cũng đủ để nhà thơ một mình thương
cảm, xót xa mà khóc cho đời hồng nhan. Tiểu Thanh trong đời thực 300 năm trước
cũng như nàng Kiều, người ca nữ đất Long Thành đều phải hứng chịu:
Rằng: Hồng nhan tự thuở xưa
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu
(Truyện Kiều)
Tài sắc của những con người ấy thì được ngợi ca là những giá trị tinh thần cao
đẹp nhưng bản thân họ thì lại bị đày đoạ, chà đạp. Nguyễn Du với tấm lòng nhân đạo
bao la sâu sắc của mình đã thể hiện một sự đồng cảm, xót thương hết sức chân thành
với số phận Tiểu Thanh. Đây là một nét mới mẻ trong Chủ nghĩa nhân đạo Nguyễn
Du. Đối tượng mà Nguyễn Du thương cảm, quan tâm khơng chỉ là "thập loại chúng
sinh" đói nghèo đau khổ. Rất nhiều tình cảm của ơng hướng về những kẻ tài hoa.
Chính số kiếp của Tiểu Thanh tạo nên cái mối hận ngàn năm để Nguyễn Du
nhắc đến trong hai câu luận:
Mối hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang
Mối hận ấy hỏi trời không thấu, hỏi đất khơng hay, chỉ có những kẻ cùng hội
cùng thuyền là có thể cùng nhau than thở. Nguyễn Du tự nhận mình cũng mắc cái nỗi
oan kỳ lạ vì nết phong nhã tài hoa. Nói cách khác sự đồng cảm lớn lao của Nguyễn Du
dành cho Tiểu Thanh có được bởi Nguyễn Du là người đồng cảnh. Lòng thương người
khởi phát từ sự thương mình nên càng chân thực và sâu sắc. Đúng như Mộng Liên
Đường chủ nhân Nguyễn Đăng Tuyến từng nhận xét rằng: "Thúy Kiều khóc Đạm
Tiên, Tố Như tử làm truyện Thúy Kiều, việc tuy khác nhau mà lịng thì là một, người
đời sau thương người đời nay, người đời nay thương người đời xưa, hai chữ tài tình
thật là cái mối thơng luỵ của bọn tài tử khắp trong gầm trời và suốt cả xưa nay vậy".
Quả thực cái sự vơ tình, trớ trêu của tạo hoá với những kẻ tài năng đã trở thành mối
hận của muôn đời và khắp chốn.
Như vậy, tình thương của Nguyễn Du đối với Tiêủ Thanh là tình cảm của
những người tuy xa cách về hoàn cảnh nhưng lại tương đồng trong cảnh ngộ. Từ nỗi
thương mình mà xót xa cho người. Và từ sự thương cảm cho người lại tiếp tục gợi lên
bao băn khoăn, day dứt cho kiếp mình. Bởi một lẽ, Tiểu Thanh rốt cuộc cịn có được
một Nguyễn Du tri âm tri kỷ rỏ lệ xót xa. ít hay nhiều linh hồn văn chương, nhan sắc,
tài hoa "hữu thần" ấy còn có được sự an ủi. Nhưng cịn Nguyễn Du, cũng là kẻ "tài tử
đa cùng" lắm sự lận đận gian nan thì 300 năm sau biết cịn ai trong thiên hạ tưởng
nhớ, tiếc thương. Đó là cái tâm sự băn khoăn khơng thể có lời giải đáp mà chỉ nhờ qua
trường hợp Tiểu Thanh, Nguyễn Du mới có cơ hội suy ngẫm và gửi gắm.
Bài thơ có kết cấu đặc biệt: hai câu đầu là cảnh vật, sự kiện, còn 6 câu sau nặng
một khối tình. Khối tình ấy xét riêng ra thì là sự xót xa cho số kiếp Tiểu Thanh và
những băn khoăn về cuộc đời chính tác giả. Nhưng ở tầng sâu khái quát nó là nỗi
niềm của cả một lớp kẻ sĩ tài hoa, tài tử mà nhân ái bao la.