Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Kinh tế thị trường và đường lối phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần của đảng cộng sản việt nam từ năm 1986 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (569.26 KB, 34 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
Bộ môn: Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam



BÀI THẢO LUẬN
Đề tài:
Kinh tế thị trường và đường lối phát triển kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần của Đảng Cộng sản Việt Nam
(1976 đến nay)

Lớp học phần:
Nhóm thảo luận:
Giảng viên:

1310RLCP0111
01
Võ Bá Chi


Hà Nội, 2013

2


Mục lục
Lời nói đầu............................................................................................................................................4

3



Lời nói đầu

4


I/ Một số lý luận về kinh tế thị trường
Lịch sử nhân loại đã chứng kiến rất nhiều các mô hình kinh tế khác nhau. Mỗi mô
hình đó là sản phẩm của quá trình của trình độ nhận thức nhất định trong những điều kiện
lịch sử cụ thể. Song hiện nay, mô hình kinh tế thị trường là một mô hình kinh tế phổ biến và
có hiệu quả nhất trong các mô hình phát triển kinh tế của hầu hết tất cả các quốc gia trên thế
giới. Mô hình này không chỉ được áp dụng ở các nước tư bản chủ nghĩa, mà còn được áp
dụng ở các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Nó được vận dụng ở các nước phát
triển và cả những nước đang phát triển. Việt Nam cũng mới sử dụng mô hình kinh tế này
được khoảng hơn 15 năm nay. Và có các thành tựu mà chúng ta đã đạt được cũng như
những khó khăn, những vấn đề gặp phải cần được giải quyết trong quá trình chuyển đổi sang
mô hình kinh tế mới.
Vậy kinh tế thị trường là gì???
Để giải thích được khái niệm này ta cần đi từ nền kinh tế hàng hóa.

1, Sự ra đời của sản xuất hàng hố.
Q trình chuyển từ sản xuất tự cung tự cấp lên sản xuất hàng hoá sản xuất tự cung tự
cấp là kiểu tổ chức kinh tế đầu tiên mà loài người sử dụng để giải quyết vấn đề để sản xuất
cái gì,sản xuất như thế nào,sản xuất cho ai. Sản xuất tự cung tự cấp là kiểu tổ chức sản xuất
mà trong đó sản phẩm của người lao động làm ra được dùng để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng
của nội bộ từng hộ gia đình,từng cơng xã hay từng cá nhân riêng lẻ.Sản xuất tự cung tự cấp
còn được gọi là sản xuất tự cấp tự túc hoặc kinh tế tự nhiên.
Đây là kiểu tổ chức sản xuất khép kín nên nó thường gắn với sự bảo thủ, trì trệ, nhu
cầu thấp, kĩ thuật thô sơ lạc hậu. Nền kinh tế tự nhiên tồn tại ở các giai đoạn phát triển thấp
của xã hội (công xã nguyên thủy, nô lệ, phong kiến).
* Sản xuất hàng hoá.

Sản xuất hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm được sản xuất ra
để bán trên thị trường. Trong kiểu tổ chức kinh tế này, toàn bộ quá trình sản xuất phân phốitrao đổi-tiêu dùng; sản xuất ra cái gì, như thế nào và cho ai đều thơng qua việc mua bán,
thông qua hệ thống thị trường và do thị trường quyết định. Cơ sở kinh tế - xã hội của sự ra
đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa là phân cơng lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế

5


giữa người sản xuất này và người sản xuất khác do quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản
xuất quy định.
- Phân công lao động xã hội là việc phân chia người sản xuất vào các ngành nghề khác nhau
của xã hội.Hoặc nói cách khác đó là chuyên mơn hóa sản xuất.
Do phân cơng lao động ,xã hội nên mỗi người chỉ sản xuất một hay một vài sản phẩm
nhất định.Song nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của mọi người đều cần có nhiều loại sản
phẩm.Vì vậy họ địi hỏi phải có mối liên hệ trao đổi sản phẩm cho nhau,phụ thuộc vào nhau.
Trong lịch sử đã diễn ra 3 cuộc phân công lớn:
+ Ngành chăn nuôi tách khỏi ngành trồng trọt.
+ Ngành thủ công tách ra khỏi ngành nông nghiệp.
+ Dẫn tới xuất hiện ngành thương nghiệp.
- Điều kiện thứ hai của sản xuất hàng hóa là sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản
xuất do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất quy định.
Dựa vào điều kiện này mà người chủ tư liệu sản xuất có quyền quyết định việc sửu
dụng tư liệu sản xuất và những sản phẩm do họ sản xuất ra.Như vậy quan hệ sở hữu khác
nhau về tư liệu sản xuất đã chia rẻ người sản xuất,làm ra họ tách biệt nhau về mặt kinh
tế.Trong điều kiện đó người sản xuất này muốn sử dụng sản phẩm của người sản xuất khác
thì phải trao đổi sản phẩm lao động cho nhau.Sản phẩm lao động trở thành hàng hóa.
Khi sản phẩm lao động trở thành hàng hóa thì người sản xuất trở thành người sản
xuất hàng hóa,lao động của người sản xuất hàng hóa vừa có tính chất xã hội, vừa có tính
chất tư nhân,cá biệt.Tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hóa thê hiện tư nhân cá
biệt.Tính chất xã hộ của lao động sản xuất hàng hóa thể hiện ở chỗ phân công lao động xã

hội nên sản phẩm lao động của người này trở nên cần thiết cho người khác cần cho xã
hội.Cịn tính chất tư nhân cá bueeth thể hiện ở chỗ sản xuất ra cái gì,bằng cơng cụ nào,phân
phối cho ai là công việc cá nhân của chủ sở hữu về tư liệu sản xuất do họ định đoạt.Tính
chất xã hội của lao động sản xuất hàng hóa chỉ được thừa nhận khi họ tìm được người mua
trên thị trường và bán được hàng hóa do họ sản xuất ra.
Vì vậy, lao động của người sản xuất hàng hóa bao hàm sự thống nhất giữa hai mặt đối
lập là tính chất xã hội và tính chất cá nhân, cá biệt của lao động. Mâu thuẫn giữa tính chất xã
hội và tính chất tư nhân,cá biệt của lao động sản xuất hàng hóa. Đối với mỗi hàng hóa mâu
6


thuẫn đó được giải quyết trên thị trường. Đồng thời nó được tái tạo thường xuyên với tư
cách là mâu thuẫn của nền kinh tế hàng hóa nói chung. Chính mâu thuẫn này là cơ sở của
khủng hoảng kinh tế sản xuất thừa. Sản xuất hàng hóa ra đời và phát triển là một quá trình
lịch sử lâu dài. Đầu tiên là sản xuất hàng hóa giản đơn dựa trên kỹ thuật thủ công và lạc hậu.
Nhưng khi lực lượng sản xuất phát triển cao hơn, sản xuất hàng hóa giản đơn chuyển thành
sản xuất hàng hóa quy mơ lớn. Quá trình chuyển biến này diễn ra trong thời kỳ quá độ từ xã
hội phong kiến sang xã hội tư bản.
2, Nền kinh tế thị trường và kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam
- Nền kinh tế thị trường chính là hình thức phát triển cao của sản xuất hàng hóa. Nó xuất
hiện khi nền kinh tế hàng hóa phát triển đạt đến mức :
+ Các phạm trù, quy luật của sản xuất hàng hóa hoàn thiện
+ Quan hệ kinh tế được thương mại hóa, tiền tệ hóa
- Nền kinh tế thị trường ra đời gắn liền với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và là hình
thức sản xuất kinh doanh, nó không quyết định bản chất xã hội mà chịu ảnh hưởng của xã
hội. Nó mang những đặc điểm sau:
Tính tự chủ: các chủ thể kinh tế có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, lỗ lãi tự
chịu.
Giá cả: hình thành tự phát trên thị trường, không do Nhà Nước áp đặt, tuy nhiên vẫn
chịu sự điều tiết của nhà nước.

Cạnh tranh: các chủ thể kinh tế cạnh tranh tự do từ đó tạo động lực sinh tồn phải
thắng đối thủ, từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Sự điều tiết của Nhà Nước: xét về bản chất, ra đời kinh tế thị trường không liên quan
đến Nhà Nước. Nhưng trong nền kinh tế thị trường hiện đại không thể thiếu sự tồn tại của
Nhà Nước vì các vấn đề như cơ sở hạ tầng công cộng hay môi trường, an ninh….đều do nhà
nước quản lý.
- Tác dụng của việc phát triển kinh tế thị trường:
+ Kích thích, thúc đẩy kinh tế kỹ thuật phát triển.
+ Khai thác triệt để mọi nguồn lực kinh tế.
+ Mở ra không gian không hạn chế cho cả sản xuất và tiêu dùng.
* Nguyên nhân phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
7


Chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là sự tiếp thu có chọn lọc
những thành tựu của văn minh nhân loại.
Sự phát triển của kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất,
do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất xã hội hoá cao, đồng thời chọn lọc được những người
sản xuất kinh doanh giỏi, hình thành đội ngũ cán bộ quản lí có trình độ, lao động lành nghề
đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.
Thực tiễn những năm đổi mới đã chứng minh, việc chuyển sang nền kinh tế thị
trường nhiều thành phần là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước và thu hút vốn, kỹ thuật,
công nghệ của nước ngoài, giải phóng năng lực sản xuất, góp phần quyết định vào việc đảm
bảo tăng trưởng kinh tế với nhịp độ tương đối cao trong thời gian qua.
* Các thành phần kinh tế thị trường ở Việt Nam
Thứ nhất, thành phần kinh tế Nhà nước (TPKTNN) là những đơn vị tổ chức trực tiếp
sản xuất kinh doanh hoặc phục vụ sản xuất,kinh doanh mà toàn bộ nguồn lực thuộc sở hữu
Nhà nước,hoặc phần của toàn nhà nước chiếm tỷ lệ khống chế. Kinh tế Nhà nước (KTNN)
bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước các tài sản thuộc sở hữu nhà nước, các ngành kinh tế

thuộc sở hữu nhà nước.Các doanh nghiệp nhà nước là bộ phận quan trọng cơ bản nhất của
kinh tế Nhà nước. Các doanh nghiệp này trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội.
Chẳng hạn nhà máy thủy điện Hịa Bình,cơng ty gang thép Thái Ngun..vv..
Thứ hai, thành phần kinh tế hợp tác là sự liên kết tự nguyện của chủ thể kinh tế với
các hình thức đa dạng linh hoạt, phù hợp với nhu cầu, khả năng và lợi ích của các bên tham
gia ,có thể dẫn tới hoặc khơng dẫn tới pháp nhân.Hình thức tồn tại của kinh tế hợp tác
là:Hợp tác xã nông nghiệp ,hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp hợp tác xã mua bán,hợp tác xã
tín dụng,các họp tác xã được hình thành với các quy mơ và góc độ khác nhau tùy vào sự
phát triển của lực lượng sản xuất.Ở đây người lao động được tự do trong việc tham gia và rút
lui khỏi hợp tác xã.
Thứ ba, thành phần kinh tế tư bản Nhà nước (TPKTTBNN) là sản phẩm của sự

can

thiệp của Nhà nước vào hoạt động của các tổ chức ,đơn vị kinh tế tư bản trong và ngoài
nước. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước bao gồm tất cả các hình thức hợp tác,liên doanh
sản xuất kinh doanh giữa kinh tế Nhà nước và kinh tế tư bản trong và ngoài nước nhằm sử
8


dụng,khai thác phát huy thế mạnh của mỗi bên tham gia,đặt dưới sự kiểm soát giúp đỡ của
Nhà nước. Thành phần kinh tế tư bản nhà nước có vai trị quan trọng trong việc huy động
vốn, kỹ thuật công nghệ, kinh nghiệm tổ chức quản lý của các Nhà nước tư bản. Lenin chỉ rõ
“trong một nước tiểu nông…phải đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản Nhà nước, tiến lên CNXH”
Thứ tư, thành phần kinh tế cá thể (TPKTCT): là thành phần kinh tế hoạt động sản
xuất kinh doanh dựa vào kinh nghiệm của bản thân là chính. Kinh tế cá thể, tiểu chủ của
nông dân thợ thủ công, những người buôn bán, dịch vụ cá thể. Sở hữu của thành phần kinh
tế này là sở hữu tư nhân,sản xuất kinh doanh phân tán, manh mún, trình độ kỹ thuật cơng
nghệ thủ cơng, mục đích của kinh doanh chủ yếu ni sống mình, cịn tiểu chủ, bản thân vừa
lao động trực tiếp vừa thuê một số công nhân. Thế mạnh của TPKTCT là phát huy nhanh, có

hiệu quả, tiền vốn, sức lao động, tay nghề, sản phẩm truyền thống.
Thành phần kinh tế thứ năm và cũng là thành phần kinh tế cuối cùng. Thành
phần kinh tế tư bản tư nhân (TPKTTBTN): là các đơn vị kinh tế mà vốn do một hoặc một số
nhà tư bản trong và ngoài nước đầu tư để sản xuất kinh doanh dịch vụ. Kinh tế tư bản tư
nhân tổ chức dưới hình thức doanh nghiệp,tư nhân,doanh nghiệp cổ phần,công ty trách
nhiệm hữu hạn…
=> Mỗi thành phần kinh tế đồng thời vừa tồn tại độc lập tương đối vừa tác động lẫn
nhau,vừa hợp tác cạnh tranh với nhau,vừa thống nhất,vừa mâu thuẫn trong một chỉnh thể
kinh tế xã hội.Không nên hiểu mỗi thành phần kinh tế như những bộ phận tách rời những lực
lượng tự trị và theo đó cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là sự hợp nhất cơ học của các thành
phần đó.

II/ Quan điểm về kinh tế thị trường và đường lối phát triển kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần của Đảng
1, Quan điểm phát triển kinh tế thị trường của Đảng trước Đại hội toàn quốc lần thứ
VI (tháng 12 năm 1986)
1.1, Quan điểm của Đại hội Đảng lần thứ IV về kinh tế thị trường (tháng 12 năm 19761982)
- Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Việt Nam thống nhất 2 miền. Ngày 16 tháng 5 năm 1975, Bí
thư thứ Nhất Đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn đã trực tiếp vào miền Nam nắm tình hình,
9


gồm cả tình hình kinh tế. Ơng thừa nhận những yếu tố tích cực của kinh tế tư nhân và của thị
trường tự do ở miền Nam. Tại cuộc họp trù bị của Hội nghị lần thứ 24 Ban chấp hành Trung
ương Đảng Lao động Việt Nam khóa III, ơng đã phát biểu: “Ở miền Bắc trước đây phải hợp
tác hóa ngay lập tức. Nhưng miền Nam bây giờ khơng thể làm như vậy ... Phải có tư sản,
phải cho nó phát triển phần nào đã ... Bộ Chính trị sau khi nghiên cứu thấy rằng cần phải
để mấy thành phần kinh tế là quy luật cần thiết trong giai đoạn bước đầu này ... Xưa nay ở
miền Bắc chúng ta có một số sai lầm, là vì chúng ta đã đi sai quy luật. Nếu chúng ta đi sai
quy luật mà đưa vào miền Nam thì càng sai lắm.” . Tuy nhiên, đa số Ban chấp hành Trung

ương Đảng lúc ấy muốn áp dụng mơ hình kinh tế của miền Bắc cho miền Nam. Vì thế, Hội
nghị cuối cùng quyết nghị: xóa bỏ tư sản mại bản, cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với tư
sản dân tộc, thí điểm xây dựng hợp tác xã, cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thủ công
nghiệp và thương nghiệp nhỏ.
- Nội dung chính của đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội là:
Thứ nhất, thực hiện sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, làm chủ tập thể.
Thứ ba, áp dụng chế độ kế hoạch hóa tập trung. Đây là mơ hình chung ở các nước xã
hội chủ nghĩa. Ở Việt Nam nó được thực hiện theo một cơng thức do Lê Duẩn sáng tạo, đó
là: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm chủ.
Thứ tư, công nghiệp nặng được lựa chọn làm ngành động lực chính của tăng trưởng
và phát triển kinh tế.
Thứ năm, Nhà nước độc quyền về kinh tế đối ngoại.
=> Do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trước hết là những nguyên nhân về tổ
chức và quản lý kinh tế, vào những năm cuối thập niên 70 thế kỷ XX, đất nước dần dần lâm
vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Trong hoàn cảnh ấy, vấn đề sống cịn
là đưa đất nước thốt ra khỏi khủng hoảng. Muốn vậy, phải thay đổi mạnh mẽ cách nghĩ và
cách làm, tìm tịi và thử nghiệm cách làm ăn mới cho những vấn đề đặt ra.
- Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (8-1979), với chủ trương bằng mọi cách “làm cho sản xuất
bung ra”, là bước đột phá đầu tiên của q trình tìm tịi và thử nghiệm đó. Hội nghị chủ
trương: ổn định nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, phần dôi ra được bán cho Nhà nước hoặc
trao đổi tự do; khuyến khích mọi người tận dụng ao hồ, ruộng đất hoang hoá; đẩy mạnh
10


chăn ni gia súc dưới mọi hình thức; sửa lại thuế lương thực và giá lương thực để khuyến
khích sản xuất; sửa lại chế độ phân phối theo định suất, định lượng,...
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 nhanh chóng được nhân dân cả nước đón nhận và
biến thành hành động cụ thể trong thực tiễn nền kinh tế. Chỉ một thời gian ngắn, trong cả
nước xuất hiện rất nhiều điển hình về cách làm ăn mới. Long An từ giữa năm 1980 đã thí

điểm mơ hình “mua cao, bán cao”, “bù giá vào lương” thay cho cơ chế “mua cung, bán
cấp”. Hải Phịng, Vĩnh Phú, Nghệ Tĩnh thí điểm hình thức khốn.
Từ thực tế các thí điểm đó, ngày 13-1-1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị
100-CT/TW về cải tiến cơng tác khốn, mở rộng khốn sản phẩm đến nhóm và người
lao động trong hợp tác xã nơng nghiệp. Làm thử TRẢ LƯƠNG sản phẩm trong xí nghiệp
quốc doanh theo Quyết định số 25/CP ngày 21/1/81 về một số chủ trương và biện pháp
nhằm phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của
các xí nghiệp quốc doanh với nguyên tắc cơ bản :
A) Trên cơ sở bảo đảm sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước, mở rộng
quyền chủ động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp theo nguyên tắc lấy kế hoạch làm chính,
đồng thời sử dung đúng đắn các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, quan hệ thị trường, tạo ra
những điều kiện linh hoạt, cơ động cần thiết cho xí nghiệp đẩy mạnh được sản xuất và kinh
doanh có lãi.
B) Tăng cường quyền tự chủ tài chính của xí nghiệ…trên cơ sở đó giải quyết đúng
đắn 3 lợi ích: Nhà nước, tập thể xí nghiệp và cá nhân người lao động, trước tiên là khuyến
khích người lao động tăng năng suất, tăng sản lượng, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống,
đồng thời bảo đảm nguồn thu của Nhà nước.)


Như vậy, ý tưởng về kinh tế thị trường đã được đưa ra ở Đại hội IV nhưng khơng được

chấp nhận. Sau đó, dưới áp lực của tình hình kinh tế khách quan, nhằm thốt khỏi tình trạng
khủng hoảng kinh tế- xã hội, và những kết quả tích cực của việc áp dụng kinh tế thị trường
vào giải quyết những khó khăn của nền kinh tế; Đảng ta đã có nhiều bước cải tiến nền kinh
tế theo định hướng thị trường, tuy nhiên còn chưa mạnh tay, chưa toàn diện và triệt để.
Nghị quyết Trung ương 6, Chỉ thị 100 của Ban Bí thư và các Quyết định 25/CP và 26/CP
của Chính phủ cho thấy những ý tưởng ban đầu của đổi mới, tuy còn sơ khai, chưa cơ bản và

11



tồn diện, nhưng đó là bước đầu có ý nghĩa, đặt những cơ sở đầu tiên cho quá trình đổi mới
sau này.
Tuy nhiên, việc thực hiện hai nghị quyết trên của Đảng có “những lệch lạc cần uốn
nắn” đã gây ra nhiều xáo trộn nghiêm trọng trong nền kinh tế, nên tại ĐH V quan điểm của
Đảng đã có nhiều thay đổi.
1.2, Quan điểm của Đại hội Đảng lần thứ V về kinh tế thị trường
- Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ V của Đảng (3-1982) đánh giá một cách khách quan
thành tựu và hạn chế trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, đã chỉ ra nguyên nhân chủ quan gây
nên sự sa sút của nền kinh tế là những khuyết điểm, sai lầm về lãnh đạo và quản lý. Để góp
phần khắc phục tư tưởng nóng vội, Đại hội đưa ra khái niệm về “chặng đường trước mắt”
của thời kỳ quá độ và Đại hội cũng khẳng định sự tồn tại năm thành phần kinh tế trong một
thời gian nhất định ở miền Nam.
- Ngay từ những năm đầu của kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1981-1985), nhiều Nghị quyết và
Quyết định quan trọng của Đảng và Chính phủ được ban hành nhằm từng bước sửa đổi cơ
chế quản lý đối với kinh tế nông nghiệp, cơng nghiệp, kinh tế tư nhân và xóa bỏ quan liêu
bao cấp. Trước đó, từ Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ V (1982), bước đầu có cách nhìn mới
về nền kinh tế nhiều thành phần, thừa nhận miền Bắc tồn tại 3 thành phần kinh tế là
quốc doanh, tập thể và cá thể; miền Nam tồn tại 5 thành phần kinh tế là quốc doanh,
tập thể, công tư hợp doanh, tư bản tư nhân và cá thể. Đó là bước khởi đầu thay đổi cơ
cấu các chủ thể sản xuất kinh doanh, tạo tiền đề cơ bản cho sự phát triển kinh tế thị trường.
- Tuy nhiên sau đó, Hội nghị Trung ương 5 khoá V (12-1983) lại cho rằng sự chậm chạp
trong cải tạo xã hội chủ nghĩa là một trong những ngun nhân của tình trạng khó khăn về
kinh tế, xã hội, từ đó, chủ trương để ổn định tình hình, phải đẩy mạnh hơn nữa cải tạo xã hội
chủ nghĩa; Nhà nước phải nắm hàng, nắm tiền, xoá bỏ thị trường tự do về lương thực và các
nông hải sản quan trọng, thống nhất quản lý giá...
- Hội nghị Trung ương 8 khoá V (6-1985) là bước đột phá với chủ trương dứt khoát xoá bỏ
cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, thực hiện cơ chế một giá; xoá bỏ chế độ cung cấp hiện
vật theo giá thấp, chuyển mọi hoạt động sản xuất kinh doanh sang cơ chế hạch toán kinh
doanh xã hội chủ nghĩa... Tháng 9-1985, cuộc tổng điều chỉnh giá - lương - tiền được bắt

đầu bằng việc đổi tiền, xoá bỏ hoàn toàn chế độ tem phiếu.
12


Nhưng do tư tưởng nóng vội, cuộc tổng điều chỉnh này đã dẫn tới tình trạng giá cả thị
trường có nhiều diễn biến phức tạp; lạm phát bị đẩy lên tốc độ phi mã. Đầu năm 1986, lại
phải lùi một bước, quay trở lại thực hiện chính sách hai giá...
- Hội nghị Bộ Chính trị khố V (8-1986) đưa ra kết luận về một số vấn đề thuộc quan điểm
kinh tế. Trong đó có 2 nội dung như sau:
1- Về cải tạo xã hội chủ nghĩa và củng cố quan hệ sản xuất mới, phải xác định cơ cấu kinh
tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta;
2- Về cơ chế quản lý kinh tế, lấy kế hoạch làm trung tâm, đồng thời phải sử dụng đúng quan
hệ hàng hoá tiền tệ, dứt khoát xoá bỏ cơ chế tập trung, bao cấp; chính sách giá phải vận
dụng quy luật giá trị, tiến tới thực hiện cơ chế một giá.
- Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 10 khố V (6/1986) đã đánh giá tình hình sau
cuộc điều chỉnh giá-lương-tiền (9/1985) và khẳng định chính thức đổi mới cơ chế quản lý,
xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
=> Kết luận: Nhìn chung, giai đoạn 76-85, ý tưởng về phát triển kinh tế thị trường đã nhen
nhúm và ngày càng lan rộng trong tổ chức Đảng. Quan điểm của BCH TW Đảng khóa V về
kinh tế thị trường có sự thay đổi lớn so với khóa IV, trong đó đáng kể nhất là: thừa nhận
kinh tế thị trường ở Việt Nam, nhận thức về sự cấp thiết và tất yếu của chuyển đổi cơ chế
kinh tế, quyết tâm xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung quan lieu bao cấp, và mạnh tay trong việc
thực hiện… Tuy nhiên, vì nhiều lý do, nên trong quá trình thực hiện các Nghị quyết và chỉ
thị này có nhiều sai sót, lệch lạc so với tư tưởng ban đầu, nên đến cuối 1986, nước ta diễn ra
một cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng, đây cũng chính là nhân tố mạnh mẽ nhất để châm
ngòi và đẩy quá trình đổi mới diễn ra nhanh hơn tại Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng.
2. Đường lối phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường của
Đảng sau Đại hội toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 năm 1986)
Đại hội VI của Đảng đánh dấu một bước ngoặt rất cơ bản và có ý nghĩa quyết định
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, với việc đề ra đường lối đổi mới toàn

diện đất nước - từ đổi mới tư duy đến đổi mới tổ chức, cán bộ và phong cách lãnh đạo của
Đảng; từ đổi mới kinh tế đến đổi mới hệ thống chính trị và các lĩnh vực khác của đời sống xã
hội. Đại hội khẳng định: Đối với nước ta, đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách
mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn.
13


- Trong đánh giá tình hình, Đại hội đề ra phương châm “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá
đúng sự thật, nói rõ sự thật”; từ đó khơng chỉ khẳng định những thành tựu đạt được mà còn
thẳng thắn vạch ra sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế, trong phân phối lưu thông, trong cải
tạo xã hội chủ nghĩa và cả trong cơ chế quản lý nền kinh tế. Đại hội kết luận rằng: “Những
sai lầm nói trên là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai
lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”. Và “Những sai lầm đó bắt nguồn từ những
khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ Đảng. Đây là nguyên
nhân của mọi nguyên nhân...”.
- Sau Đại hội VI, Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị tiếp tục bổ sung, phát triển, cụ
thể hoá đường lối đổi mới của Đảng, làm cho Nghị quyết Đại hội VI đi vào cuộc sống. Sự
khẳng định nguyên tắc của đổi mới đã góp phần ngăn chặn có hiệu quả khuynh hướng đổi
mới cực đoan, muốn phát triển kinh tế với bất kỳ giá nào, không cần quan tâm đến định
hướng chính trị của sự phát triển đó.
2.1, Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội VI đến Đại hội VIII
Đây là giai đoạn hình thành và phát triển tư duy của Đảng về kinh tế thị trường. So với
thời kỳ trước đổi mới, nhận thức về kinh tế thị trường có sự thay đổi căn bản và sâu sắc:


Một là, kinh tế thị trường khơng phải là cái riêng có của Chủ nghĩa tư bản mà là thành

tựu phát triển chung của nhân loại.
Tại Đại hội VI (tháng 12/1986) Đảng ta đã thừa nhận “ Trong nhận thức cũng như
trong hành động chúng ta thực sự chưa thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta

còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và tận dụng đúng quy luật về
sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất”
Đại hội xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của
chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những
tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh CNH XHCN trong chặng đường tiếp theo.
Đại hội xác định mục tiêu cụ thể về KTXH cho những năm còn lại của chặng đường
đầu tiên là sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy; bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế trong đó
đặc biệt chú trọng 3 chương trình kinh tế lớn là: lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu; xây dựng và hoàn thiện một bước QHSX mới phù hợp với tính chất và trình
14


độ phát triển của LLSX; tạo ra chuyển biến tốt về mặt xã hội, việc làm, chống tiêu cực, mở
rộng dân chủ, giữ vững kỷ cương phép nước; bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng - an
ninh.
Đại hội nêu ra 5 phương hướng cơ bản của chính sách kinh tế xã hội và đề ra hệ
thống giải pháp để thực hiện mục tiêu như: Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh cơ cấu đầu
tư; xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất XHCN; sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành
phần kinh tế (coi kinh tế có nhiều thành phần là đặc trưng của thời kỳ quá độ); đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế, dứt khốt xóa bỏ cơchế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp, chuyển
sang cơ chế kế hoạch hóa theo phương hướng hạch toán kinh doanh XHCN; phát huy động
lực của khoa học kỹ thuật; mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại.


Hai là, kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã

hội.
Đại hội VII của Đảng (6-1991) trong khi khẳng định chủ trương tiếp tục xây dựng
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế quốc
dân thống nhất, đã đưa ra kết luận quan trọng rằng sản xuất hàng hóa khơng đối lập với chủ

nghĩa xã hội, nó tồn tại khách quan và cần thiết cho xây dựng xã hội chủ nghĩa. Đại hội cũng
xác định cơ chế vận hành của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta là “cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước” bằng pháp luật, kế
hoạch chính sách và các cơng cụ khác. Trong cơ chế kinh tế đó, các đơn vị kinh tế có quyền
tự chủ sản xuất, kinh doanh, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp, hợp tác và liên doanh
có hiệu quả, nhà nước quản lý nền kinh tế để định hướng dẫn dắt các thành phần kinh tế, tạo
điều kiện và môi trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, nhà nước quản lý
nền kinh tế để định hướng dẫn dắt các thành phần kinh tế, đảm bảo hài hòa giữa phát triển
kinh tế với phát triển xã hội.
Tiếp tục đường lối trên, Đại hội VIII (6-1996) đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh cơng cuộc
đổi mới tồn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.


Ba là, có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở

nước ta.
15


Kinh tế thị trường không đối lập với chủ nghĩa xã hội, nó cịn tồn tại khách quan
trong thời kỳ q độ lên CNXH. Vì vậy, có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây
dựng CNXH ở nước ta.
Là thành tựu của văn minh nhân loại, bản thân kinh tế thị trường khơng có thuộc tính
xã hội, vì vậy, kinh tế thị trường có thể sử dụng ở các chế độ xã hội khác nhau. Ở bất kỳ xã
hội nào, khi lấy thị trường làm phương tiện có tính cơ sở để phân bổ các nguồn lực kinh tế,
thì kinh tế thị trường cũng có những đặc điểm chủ yếu sau:
+ Chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, lỗ, lãi
tự chịu.
+ Giá cả cơ bản do cung cầu điều tiết, hệ thống thị trường phát triển đồng bộ và hồn

hảo.
+Nền kinh tế có tính mở cao và vận hành theo quy luật vốn có của kinh tế thị trường
như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh.
+ Có hệ thống pháp quy kiện tồn và sự quản lý vĩ mơ của Nhà nước.
Với những đặc điểm trên, kinh tế thị trường có vai trò rất lớn đối với sự phát triển
kinh tế, xã hội.
Trước đổi mới, do chưa thừa nhận trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn
tại sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường nên chúng ta đã xem kế hoạch là đặc trưng quan
trọng nhất của kinh tế xã hội chủ nghĩa, đã thực hiện phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch
là chủ yếu, cịn thị trường chỉ được coi là một cơng cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch do đó
khơng cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Vào thời kỳ đổi mới, chúng ta ngày càng nhận rõ kinh tế thị trường, nếu biết vận
dụng đúng, thì có vai trị rất lớn đối với sự phát triển kinh tế – xã hội. Có thể dùng cơ chế thị
trường làm cơ sở phân bổ các nguồn lực kinh tế, dùng tín hiệu giá cả để điều tiết chủng loại
và số lượng hàng hóa, điều hòa quan hệ cung cầu, điều tiết tỷ lệ sản xuất thông qua cơ chế
cạnh tranh, thúc đẩy cải tiến bộ, đào thải cái lạc hậu, yếu kém.
Thực tế cho thấy, chủ nghĩa tư bản không sinh ra kinh tế thị trường nhưng đã biết kế
thừa và khai thác có hiệu quả các lợi thế của kinh tế thị trường để phát triển. Thực tiễn đổi
16


mới ở nước ta cũng đã chứng minh sự cần thiết và hiệu quả của việc sử dụng kinh tế thị
trường làm phương tiện xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2.2, Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường và định hướng kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần từ Đại hội IX đến Đại hội X
Đại hội IX của Đảng (4-2001) xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là mơ hình kinh tế tổng qt của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước chuyển quan trọng từ nhận
thức kinh tế thị trường như một công cụ, một cơ chế quản lý, sang coi kinh tế thị trường như

một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội IX xác định KTTT XHCN là “ Một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy
luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự chi phối bởi các nguyên tắc và bản
chất của chủ nghĩa xã hội”. Trong nền kinh tế đó, các thế mạnh của “ thị trường” được sử
dụng cơ sở vật chất kỹ thuật – của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”, cịn tính
“định hướng xã hội chủ nghĩa” được thể hiện trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu, tổ
chức quản lý và phân phối, nhằm mục đích cuối cùng là “dân giàu, nước mạnh, tiên tiến hiện
đại trong xã hội do dân làm chủ, nhân ái, có văn hóa, có kỷ cương, xóa bỏ áp bức bất cơng,
tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc”.
Kế thừa tư duy của Đại hội IX, Đại hội X đã làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của
Định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, thể hiện ở bốn
tiêu chí là:


Về mục đích phát triển: Mục đích của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

ở nước ta nhằm thực hiện “ dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng dân chủ, văn minh, giải
phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh
xóa đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người
khác thốt khỏi nghèo và từng bước khá giả hơn”.


Về phương hướng phát triển: Phát triển các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà

nước giữ vai trị chủ đạo, kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền
tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
17





Về định hướng xã hội và phân phối: Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay

trong từng bước đi và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ và đồng
bộ với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục
tiêu phát triển con người.


Về quản lý: Phát huy vai trị làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý,

điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng là
sự thể hiện rõ rệt định hướng xã hội chủ nghĩa và cũng là sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hệ thống quản lý nhà nước về kinh tế- xã hội của ta còn yếu. Đại hội IX nhận định
về vấn đề này như sau: “Cơ chế chính sách không đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để
phát triển một số cơ chế chính sách còn thiếu, chưa nhất quán, chưa sát với cuộc sống, thiếu
tính khả thi. Nhiều cấp ngành chưa thay thế sửa đổi những quy định về quản lý nhà nước
không phù hợp, chưa bổ sung những quy chế, chính sách mới có tác dụng giải phóng mạnh
mẽ lực lượng sản xuất, khai thác nhiều hơn nữa các nguồn lực dồi dào trong các thành phần
kinh tế, các doanh nghiệp, các vùng và toàn xã hội”.

III/ Thực trạng thực hiện đường lối phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
của Đảng qua từng thời kỳ
Cùng với sự phát triển của lịch sử dân tộc, kinh tế Việt Nam có sự chyển biến mạnh
mẽ từ sau q trình đổi mới, được bắt nguồn từ sự thay đổi căn bản và sâu sắc tư duy, nhận
thức của Đảng về kinh tế thị trường.
1. Giai đoạn 1976-1986
Thời kì trước đổi mới, trong giai đoạn từ 1976-1986, Đảng chỉ thừa nhận 2 thành
phần kinh tế là Kinh tế nhà nước và tập thể; thành phần kinh tế tư nhân bị cấm hoàn toàn cả ở
hai miền Nam Bắc.

Như vậy, trước năm 1986, Đảng ta khơng thừa nhận và chủ ý xóa bỏ nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần. Tuy nhiên, việc Đảng và nhà nước không thừa nhận kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần là đi sai với hồn cảnh đất nước và tình hình kinh tế nước ta lúc đó. Sau khi
18


đất nước được giải phóng, miền Bắc tiếp tục thực hiện kinh tế chỉ huy giống như thời chiến
(điểm này đã là khơng cịn phù hợp nữa), miền Nam đang duy trì nền kinh tế nhiều thành
phần ( do trước đây bị Mỹ bảo hộ). Sự chủ quan nóng vội của Đảng trong việc gộp hai cơ chế
kinh tế đối nghịch hoàn toàn giữa 2 miền, và nhận thức sai lầm về “kinh tế thị trường” đã
khiến cho nền kinh tế Việt Nam lâm vào thời kỳ khủng hoảng trầm trọng. Tăng trường GDP
ở mức rất thấp ( cả về tương đối lẫn tuyệt đối) : năm 1977 tăng 2,8%, năm 1978 tăng 2,3%,
năm 1979 giảm 2%, năm 1980 giảm 1,4%, bình quân 1977-1980 chỉ tăng 0,4%/năm, thấp xa
so với tốc độ tăng trưởng dân số, làm cho thu nhập quốc dân bình quân đầu người bị sụt giảm
14%. Lam phát tiềm ẩn kéo dài từ những năm cuối của thập niên 70 cho đến khi đạt đỉnh
điểm vào năm 1986 (trước khi ĐH VI diễn ra) là 774%.
Kết quả này do nhiều nguyên nhân trong đó có cả do khuyết điểm, sai lầm của các cơ
quan Đảng và Nhà nước ta từ trung ương đến cơ sở về lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã
hội dẫn tới chủ quan, nóng vội, đề ra những nhiệm vụ và chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước quá
cao so với khả năng, những chủ trương sản xuất, xây dựng, phân phối, lưu thông thiếu căn cứ
xác đáng, dẫn đến lãng phí lớn về sức người, sức của; ... rất bảo thủ, trì trệ trong việc chấp
hành đường lối của Đảng và nhiều nghị quyết của Trung ương, trong việc đánh giá và vận
dụng những khả năng về nhiều mặt của đất nước.... kéo dài cơ chế quản lý quan liêu bao cấp
với cách kế hoạch hóa gị bó, cứng nhắc, không đề cao trách nhiệm và mở rộng quyền chủ
động cho cơ sở, địa phương và ngành, và cũng khơng tập trung thích đáng những vấn đề mà
Trung ương cần và phải quản lý... duy trì quá lâu một số chính sách kinh tế khơng cịn thích
hợp, cản trở sản xuất và khơng phát huy nhiệt tình cách mạng và sức lao động sáng tạo của
những người lao động... chưa nhạy bén trước những chuyển biến của tình hình, thiếu những
biện pháp có hiệu quả.
Năm 1982, Đại hội V của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thừa nhận kinh tế Việt Nam

trong thời kỳ 1976-1980 là: kết quả sản xuất không tương xứng với sức lao động và vốn đầu
tư bỏ ra, những mất cân đối lớn của nền kinh tế vẫn trầm trọng, thu nhập quốc dân chưa bảo
đảm được tiêu dùng của xã hội trong khi dân số tăng nhanh; thị trường, vật giá, tài chính, tiền
tệ không ổn định, đời sống của nhân dân lao động cịn nhiều khó khăn. Vì thế, từ năm 1982,
Đảng này quyết định Việt Nam sẽ tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp và coi nông
nghiệp là mặt trận hàng đầu, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, và kết hợp nông nghiệp, công
19


nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý, tăng
cường phân cấp cho địa phương trong công tác sản xuất và quản lý sản xuất. Kinh tế quốc
doanh vẫn tiếp tục giữ vai trị chủ đạo, kinh tế gia đình được khuyến khích. Thị trường khơng
có tổ chức bị quản lý chặt chẽ.
Tính chung tốc độ phát triển 5 năm, năm 1981 tăng 2,3%, năm 1982 tăng 8,8%, năm
1983 tăng 7,2%, năm 1984 tăng 8,3%, năm 1985 tăng 5,7%, bình quân 1981-1985 tăng 6,4%/
năm.
Tuy nhiên, thời kỳ 1981-1985 kinh tế Việt Nam đã không thực hiện được mục tiêu đã
đề ra trong nghị quyết đại hội V là cơ bản ổn định tình hình kinh tế-xã hội, ổn định đời sống
nhân dân. Sai lầm về tổng điều chỉnh giá - lương - tiền cuối năm 1985 đã đưa nền kinh tế đất
nước đến những khó khăn mới. Nền kinh tế-xã hội lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Siêu lạm
phát xuất hiện và kéo dài.
2. Giai đoạn 1986-2005
2.1, Kết quả thực hiện giai đoạn 1986-1990
Từ sau đại hội VI, Nhà nước ta đã tiến hành một loạt những cải cách về kinh tế để
chuyển đổi sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Trong đó, nhà nước cơng nhận các
thành phần kinh tế: Quốc doanh, tập thể, và tư nhân; mỗi thành phần kinh tế có vai trị khác
nhau trong nền kinh tế:
- Kinh tế quốc doanh hiện đang nắm những bộ phận then chốt, có vị trí chi phối nền kinh tế,
có tác dụng điều tiết thị trường và giá cả ở một mức độ nhất định. Gần một phần ba các xí
nghiệp cơng nghiệp quốc doanh vươn lên trong kinh doanh và thích ứng được với cơ chế mới.

Đã xuất hiện nhiều nơng trường, lâm trường làm ăn có hiệu quả.
- Về kinh tế tập thể, chuyển biến rõ nét nhất là trong nông nghiệp. Thực hiện rộng rãi cơ chế
khốn, hộ gia đình xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ, được giao quyền sử dụng ruộng đất, bước
đầu giải phóng sức sản xuất, khai thác tiềm năng lao động và vốn của nhân dân, đẩy mạnh áp
dụng các biện pháp kỹ thuật, mở mang ngành nghề. Một số hộ nông dân bỏ vốn lớn vào các
ngành sản xuất và chế biến nông, lâm, hải sản, vận tải và phát triển tiểu
thủ công nghiệp ở nông thôn. Thực tiễn khẳng định Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị là đúng
đắn, phù hợp với điều kiện kinh tế nước ta và nguyện vọng của nông dân.

20


- Về kinh tế tư nhân, kết quả rõ nhất là nhiều hộ cá thể và tiểu chủ đã bỏ vốn vào sản xuất,
kinh doanh, đặc biệt là trong sản xuất ngư nghiệp, cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả, sản
xuất hàng tiêu dùng, vận tải, thương nghiệp và dịch vụ... Theo thống kê chưa đầy đủ, đến cuối
năm 1989 số xí nghiệp tư nhân có quy mơ tương đối khá trong công nghiệp là 1.284 (tăng
hơn 4 lần so với năm 1988), số hộ tiểu chủ và cá thể cũng tăng nhiều.
 Nền kinh tế được vận hành theo đúng quy luật của kinh tế thị trường, phát triển kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần bước đầu đã cải biến tích cực nền kinh tế Việt Nam ở nhiểu mặt
so với giai đoạn trước. Tuy nhiên, nhìn chung những con số tích cực chỉ đến với nền kinh tế
nước ta vào 2 năm 1989 và 1990, trong đó những thành tựu đạt được:
1.

Đẩy lùi và kiềm chế một bước lạm phát tuy không nhiều: lạm phát năm 1987, 1988

có giảm so với đỉnh điểm năm 1986 (774%), nhưng vẫn ở mức 3 con số( tỷ lệ lạm phát là
231% năm 1987 và năm 1988, lạm phát ở mức 339.8%). Đến năm 1989, lạm phát giảm
mạnh chỉ cịn 36%.
2.


Tình hình lương thực - thực phẩm có chuyển biến tốt do thực hiện đúng đắn chính

sách Khốn 10 được triển khai từ năm 1988 trên quy mơ tồn quốc khuyến khích nơng dân
sản xuất lúa gạo. Từ chỗ thiếu ăn triền miên, năm 1988 còn phải nhập gần 50 vạn tấn gạo, nay
chúng ta không những đáp ứng được nhu cầu trong nước, mà cịn có dự trữ và xuất khẩu.
Năm 1989 Việt Nam đã xuất khẩu 1,5 triệu tấn gạo.
3.

Đã mở rộng một bước kinh tế đối ngoại, kim ngạch xuất khẩu tăng khá (gấp 2,1 lần 5

năm 1981-1985, so với mục tiêu kế hoạch là 1,7 lần), nhất là xuất khẩu sang các nước không
phải xã hội chủ nghĩa; thu hẹp đáng kể tỷ lệ chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu, từ 1/2,6
năm 1985 đến năm 1990 chỉ còn 1/1,2. Từng bước phá thế bị bao vây về kinh tế, thu hút được
một số vốn đầu tư của nước ngoài. Sự cải thiện cán cân thanh toán quốc tế tuy chưa đủ để cân
bằng thu, chi ngoại tệ, song đã tạo cơ sở để giảm bớt những tác động phức tạp của tình hình
quốc tế hiện nay.
Như vậy đã có sự thay đổi căn bản tình hình kinh tế đất nước trong 2 giai đoạn 19811985 và giai đoạn 1986-1990.
Nội dung
1981-1985
Lương
thựcThiếu ăn, nhập khẩu
thực phẩm

1986-1990
Đáp ứng nhu cầu trong nước, có dự
trữ và xuất khẩu
21


Hàng hóa trên

thị trường
Kinh

tế

Dồi dào, đa dạng, lưu thơng tương
Khan hiếm

chất lượng
đối

ngoại

Mất cân đối

Lạm phát

Tăng nhanh

Cơ chế kinh tế

Bao cấp

Bộ

máy

đối thuận lợi, tiến bộ về mẫu mã và

nhà


Cồng kềnh, quan lieu
nước
Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế:

Cân bằng xuất-nhập khẩu
Kiềm chế được một bước đà lạm
phát
Hình thành nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần
Sắp xếp lại, phát huy dân chủ

1.

Hiệu quả sản xuất kinh doanh tuy có tăng nhưng nhìn chung cịn thấp

2.

Nền kinh tế mất cân đối lớn trên một số mặt quan trọng còn phụ thuộc nặng vào bên

ngồi
3.

Trong q trình chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo

cơ chế thị trường, bên cạnh những mặt tích cực, đã xuất hiện nhiều hiện tượng tiêu cực mới
mà chúng ta chưa lường hết và chưa xử lý tốt.
4.

Cơ chế quản lý mới bước đầu hình thành nhưng chưa đồng bộ, chưa được thể chế hố


hồn chỉnh về mặt luật pháp, đặc biệt là hệ thống tài chính, ngân hàng cịn lúng túng, bất cập;
đên cạnh những tiến bộ, sự quản lý và điều hành của nhà nước trên bình diện vĩ mơ cũng bộc
lộ nhiều mặt yếu kém.
2.2, Kết quả thực hiện giai đoạn 1990-2005
Nhờ đường lối đổi mới và mở cửa, cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội đã cơ bản
được khắc phục và chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tăng trưởng kinh tế cao lên, đạt đỉnh cao nhất vào năm 1995 (9,54%) và tính chung thời kỳ
1991 - 1995 đã đạt 8,2%/năm. Tốc độ tăng giá tiêu dùng đã giảm mạnh: năm 1992 còn
17,5%, năm 1993 còn 5,2%... Tỷ lệ thất nghiệp giảm nhanh. Xuất khẩu tăng với tốc độ cao...
Đầu tư trực tiếp nước ngoài gia tăng mạnh, nếu năm 1988 mới có 322 triệu USD thì năm
1996 đạt tới 8.979 triệu USD...

22


- Công cuộc cải cách kinh tế ở Việt Nam đã làm nền kinh tế thay da đổi thịt, đưa tốc độ phát
triển kinh tế bình quân từ 4,9% trong thời kì 1986-1990 lên 7,7% trong thời kì 1990-1995 và
giảm tốc độ lạm phát từ 775% (năm 1986) xuống 12,7% (1995).
- Việt Nam đang trên đà phát triển thì bắt đầu từ năm 1997, các nước trong khu vực gặp
khủng hoảng tài chính - tiền tệ. Cuộc khủng hoảng thứ ba này đã ảnh hưởng không nhỏ tới
kinh tế Việt Nam. Tăng trưởng kinh tế Việt Nam bị sút giảm: năm 1998 chỉ còn 5,76%, năm
1999 chỉ còn 4,77%. Tỷ lệ thất nghiệp 6,9%, tỷ lệ thiếu việc làm ở nơng thơn lên đến 28,9%.
Vốn đầu tư nước ngồi giảm liên tục chỉ còn 1.568 triệu USD năm 1999. Xuất khẩu năm
1999 chỉ còn tăng 1,9%. Giá USD năm 1997 tăng tới 14,2%, năm 1998 tăng 9,6%. Nhờ tiếp
tục thực hiện đường lối đổi mới, mở cửa, đặc biệt từ khi thực hiện Luật Doanh nghiệp, kinh tế
Việt Nam đã tăng trưởng liên tục, năm sau cao hơn năm trước: năm 2000 tăng 6,79%, năm
2001 tăng 6,89%, năm 2002 tăng 7,08%, năm 2003 tăng 7,34%, năm 2004 tăng 7,69%. Tỷ lệ
thất nghiệp đã giảm liên tục từ 6,9% năm 1998 xuống còn 5,6% năm 2004. Tốc độ tăng giá
đã tăng thấp hoặc giảm, tính chung từ 1999 đến 2004 chỉ tăng trên 2,7%/năm. Tốc độ tăng

xuất khẩu cao, bình quân 2001 - 2004 đạt 16,3%/năm. Tỷ lệ nghèo giảm, đến năm 2004 chỉ
còn 7,8%; tỷ lệ nghèo chung chỉ còn 24,1%... GDP bình qn đầu người tính bằng USD theo
tỷ giá hối đối thực tế đạt khoảng 555 USD; tính theo tỷ giá sức mua tương đương đạt khoảng
2.659 USD.
- Cơ chế quản lý và phân phối có nhiều đổi mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Từ chỗ bị bao vây, cấm vận, nước ta đã phát triển quan hệ kinh tế với hầu khắp các nước, gia
nhập và có vai trị ngày càng tích cực trong nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, chủ
động từng bước hội nhập có hiệu quả với kinh tế thế giới. Nhịp độ tăng kim ngạch xuất khẩu
gần gấp ba nhịp độ tăng GDP. Thu hút được một khối lượng khá lớn vốn từ bên ngoài cùng
nhiều công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
- Thập niên 1990 và 5 năm đầu của thế kỷ XXI là thời kỳ mà Việt Nam tích cực hội nhập
kinh tế mà đỉnh cao là việc ký hiệp định gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO (năm
2006) và Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ (năm 2001). Các sách báo trong nước thời kỳ này
dùng cụm từ "đổi mới" để mô tả thời kỳ 1986-2000, thời kỳ chuyển biến thực sự về nhận thức
tư duy kinh tế, áp dụng kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Báo chí nước ngồi khen ngợi
Việt Nam, ví Việt Nam như "con hổ" kinh tế trong tương lai gần.
23


- Vai trò của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế ở giai đoạn này:
Đến năm 2000, tỷ trọng khu vực kinh tế nhà nước trong GDP vào khoảng 39%; khu vực kinh
tế tập thể 8,5%; khu vực kinh tế tư nhân 3,3%; khu vực kinh tế cá thể 32%; khu vực kinh tế
hỗn hợp 3,9% và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi 13,3%.
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp
lại một bước, thích nghi dần với cơ chế mới, hình thành những tổng công ty lớn trên nhiều
lĩnh vực then chốt. Năm 1991, các xí nghiệp quốc doanh chiếm 53,5% giá trị sản xuất công
nghiệp, hầu hết kim ngạch ngoại thương, hầu hết bán bn và 33,5% tổng mức hàng hóa bán
lẻ, hầu hết tín dụng và dịch vụ ngân hàng, 90,4% vận tải hàng hóa và 53,5% vận tải hành
khách.
Kinh tế tập thể ngày càng thu hẹp sản xuất. Cùng với sự biến động có tính bước ngoặt

của nền kinh tế chuyển sang kinh tế thị trường và sự sụp đổ của các nước Liên Xô và Đông
Âu cũ, kinh tế thị trường nước ta bị giảm sút và biến dạng. Trong cơng nghiệp số HTX
32.034(1988) chỉ cịn 9.660(1991). Tính đến năm 1991 hơn 75% số HTX giải thể, số còn lại
cầm chừng hoạt động, phù hợp với đường lối phát triển kinh tế hàng hóa thị trường, xóa bỏ sự
quan liêu bao cấp của nhà nước.
Kinh tế hộ phát huy tác dụng rất quan trọng trong nông nghiệp; kinh tế cá thể, tư
nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh. Thành phần kinh tế tư nhân có sự
đóng góp đáng kể vào phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực cho xã hội, kinh doanh, tạo
thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Theo
thống kê năm 2000 lĩnh vực phi nơng nghiệp cả nước có hơn 4,6 triệu người làm việc trong
khu vực kinh tế tư nhân. trong đó số người làm việc trong các doanh nghiệp, công ty chiếm
khoảng 18%, kinh doanh cá thể tiểu chủ chiếm khoảng 82%. So với tổng lao động tồn xã hội
thì khu vực này chiếm 12% và chiếm gần 70% lực lượng lao động xã hội trong khu vực phi
nông nghiệp.
Phát triển kinh tế tư bản Nhà nước dưới nhiều hình thức. Theo số liệu của Tổng cục
thống kê, tính đến tháng 7 năm 1992 đã có 461 dự án đầu tư đã được cấp giấy phép với tổng
số vốn đăng kí là 3.563 triệu USD, trong đó hình thức liên doanh là chủ yếu, phổ biến chiếm
342 dự án và chiếm 55% tổng số vốn đăng kí. Kinh tế tư bản Nhà nước có vai trị quan trọng
trong việc vận động tiềm năng to lớn về vốn, cơng nghệ khả năng quản lí của các nhà tư bản
24


vì lợi ích của họ cũng như lợi ích của đát nước. Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển
mạnh nhưng không phải là một thành phần kinh tế độc lập.
Điểm đặc biệt trong giai đoạn này là ngoài 5 thành phần kinh tế đã xác định trong kì
đại hội trước, Đảng đã xác định nền kinh tế đất nước có sự tham gia của thành phần kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là bước đánh dấu sự tiến bộ trong tư duy đổi mới của Đảng ta,
hướng nền kinh tế sang giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế. Và tính đến năm 2005 các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi đóng góp khoảng 15,9% GDP – đó là một tỉ lệ cao trong sự
đóng góp của các thành phần kinh tế.

2.3, Giai đoạn 2005 đến nay
- Những thành tựu:
Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng của
các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu.
Khu vực kinh tế nhà nước đang được tổ chức lại, đổi mới và chiếm 38,4% GDP, chi
phối nhiều ngành kinh tế then chốt và tập trung hơn vào những lĩnh vực chủ yếu của nền kinh
tế.
Kinh tế dân doanh phát triển khá nhanh, hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực,
chiếm 45,7% GDP, đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, nhất là giải quyết
việc làm và cải thiện đời sống nhân dân; trong đó, kinh tế hợp tác và hợp tác xã phát triển khá
đa dạng (đóng góp khoảng 6,8% GDP).
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, chiếm 15,9%
GDP, là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thương quốc tế.
- Những hạn chế:
Các thành phần kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng. Theo Bộ kế hoạch
và đầu tư, năm 2008 vốn đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước luôn chiếm tỉ trọng cao trong
tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Từ 2000-2003 luôn chiếm trên 50%. Năm 2007
tổng số vốn đầu tư tồn xã hội đạt 461,9 nghìn tỷ đồng, trong đó vốn khu vực Nhà nước
200.000 tỷ đồng; chiếm 40,7%. Trong khi đó tỉ lệ đóng góp vào GDP của các thành phần
kinh tế khu vực Nhà nước, ngồi Nhà nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài lần
lượt là 34,35%; 46,97% và 18,68%. Có thể thấy đóng góp vào GDP của khu vực kinh tế nhà
nước không tương xứng với nguồn lực (vốn đầu tư, vốn kinh doanh, tài sản cố định) mà nó sử
25


×