Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.1 KB, 22 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Mở đầu
Đặc điểm kinh tế thế giới hiện nay là các quốc gia đang cố gắng xây dựng
mô hình kinh tế có sự kết hợp kế hoạch và thị trờng mà trong đó cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần lầ cốt lõi . ở nớc ta sau một thời gian duy trì kinh tế tập trung
cao độ đã thấy sự không phù hợp của nó . Từ sau đại hội VI (1986) Đảng ta đã
mở ra con đờng XHCN của đất nớc bằng việc chuyển từ nền kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của
nhà nớc.
Sau khi có chính sách đổi mới chúng ta đã đạt đợc những thành tựu bớc
đầu có ý nghĩa rất lớn. Nhng hiện chúng ta đang đứng trớc những khó khăn
thách thức lớn, cái cũ và cái mới đan xen nhau, triệt tiêu lẫn nhau. Bổn phận của
chúng ta là phải làm sao cho cái mới cái tiến bộ thay thế cái cũ nhng không có
nghĩa là phủ định hoàn toàn cái cũ . Nhận thức đợc điều này em đã chọn đề tài
Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận độngtheo cơ chế thị tr-
ờng, có sự quản lý của Nhà nớc theo định hớng XHCN là giải pháp cơ bản
để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nớc ta hiện nay làm đề tài cho
tiểu luận của mình để qua việc tìm tài liệu nghiên cứu đề tài nâng cao hiểu biết
của mình về kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trờng, giúp ích cho em trong quá trình
học tập tại Trờng Học viên ngân hàng và hiểu biết thêm về hiện trạng của đất n-
ớc để sau khi ra trờng có thể qóp một phần công sức của mình xây dựng đất nớc
giàu đẹp.
Em xin chân thành cảm ơn!
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nội dung
I. Cơ sở lý luận của việc phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
trong thời kỳ qúa độ ở nớc ta.
Bất cứ nền kinh tế nào cũng bắt đầu dới dạng mầm mống, tiền đề trong
nền kinh tế cũ , dần dần phát triển và chiến thắng kinh tế cũ thi mới trở thành
nền kinh tế mới . Dới chế độ công xã nguyên thủy trong điều kiện những công


cụ lao động quá thô sơ lúc bấy giờ, một cá nhân không thể sống và lao động
độc lập đợc, bởi vậy họ buộc phải liên kết lao động tập thể để chống lại sự uy
hiếp của thiên nhiên, của thú dữ và những cộng đồng ngời khác. Ngời nguyên
thuỷ không có quan niệm t hữu, tất cả các t liệu sản xuất, t liệu sinh hoạt đều
thuộc sở hữu của công cộng, của thị tộc và bộ lạc. Đây là nền sản xuất tự cung
tự cấp. Trong xã hội nô lệ và phong kiến, nền kinh tế cũng cha phải là nền kinh
tế hàng hóa. Khi đó kinh tế hàng hóa mới chỉ xuất hiện với t cách là mầm
mống, là tiền đề, và nó vẫn bị nền kinh tế tự nhiên chi phối. Chỉ đến khi xã hội
t bản ra đời thì kinh tế hàng hóa mới giữ vai trò chi phối đời sống kinh tế xã hội
và khi đó mới thực sự là nền kinh tế hàng hóa.
1. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa
Trớc hết ta có khái niệm của sản xuất hàng hóa: Là sản xuất ra sản phẩm
để trao đổi để bán trên thị trờng, sản phẩm ở đây không phải sản xuất ra để thoả
mãn nhu cầu nội bộ của ngời sản xuất mà sản xuất ra để trao đổi. Ví dụ nh ở
sản xuất tự cung tự cấp thì ngời nông dân vừa phải tạo công cụ lao động nh
quốc, xẻng ... vừa trồng lúa còn trong nền sản xuất hàng hóa thì ngời nông dân
chỉ phải trồng lúa còn ngời thợ rèn sản xuất ra quốc, xẻng để đổi lấy lúa gạo của
ngời nông dân.
Việc ngời nông dân từ việc vừa phải sản xuất công cụ lao động, vừa phải
trồng lúa đến chỉ phải trồng lúa và trao đổi lấy công cụ quốc xẻng của ngời thợ
rèn chính là phân công lao động xã hội đó là sự chuyen môn hóa ngời sản xuất
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thành những ngành nghề khác nhau, mỗi ngời chỉ sản xuất một thứ hoặc một vài
thứ sản phẩm, song nhu cầu của họ lại bao hàm nhiều thứ khác nhau. Để thỏa
mãn nhu cầu họ cần có sự trao đổi sản phẩm với nhau. Nhng nếu chỉ có phân
công lao động thôi thì cha đủ để có sản xuất hàng hóa, đây mới chỉ là điều kiện
cần của sản xuất hàng hóa. Nếu chỉ có phân công lao động và tất cả t liệu sản
xuất đều là của chung nh vậy mỗi ngời sản xuất cung cấp sản phẩm cho xã hội
và xã hội cung cấp sản phẩm cho cá nhân tiêu dùng bởi vậy ở đây không có sự

mua bán, trao đổi hàng hóa với nhau nên chỉ có phân công lao động xã hội thì
cha đủ để có đợc nền sản xuất hàng hóa.
Ngoài điều kiện phân công lao động xã hội thì cần phải xuất hiện chế độ
t hữu hoặc các hình thức sở hữu khác nhau của t liệu sản xuất và sản phẩm thì
mới có đợc sản xuất hàng hóa, đây là điều kiện đủ để có đợc sản xuất hàng hóa.
Ta đặt vấn đề ngợc lại, nếu chỉ có điều kiện các hình thức sở hữu khác nhau về
t liệu sản xuất và sản phẩm thì có thể có đợc sản xuất hàng hóa hay không? Câu
trả lời là không vì nếu chỉ có sản xuất hàng hóa điều kiện sở hữu t nhân về t liệu
sản xuất mà không có sự phân công lao động xã hội thì cha thể có sản xuất
hàng hóa, ngời nông dân vừa dệt vải, vừa tự rèn lấy công cụ và trồng lúa. Tức là
sản xuất tự cấp tự túc hoàn toàn thì sản xuất đó không phải là nền sản xuất hàng
hóa.
Nh vậy, phân công lao động xã hội là cơ sở để có đợc sản xuất hàng hóa
còn chế độ t hữu làm cho việc trao đổi sản phẩm mang hình thức trao đổi hàng
hóa. Thiếu một trong hai điều kiện đó thì không thể có sản xuất hàng hóa.
2. Lý luận của Mac - Lênin về sự phát triển của sản xuất hàng hóa và
kinh tế hàng hóa.
Phát triển sản xuất hàng hóa là sự phát triển của lực lợng sản xuất xã hội
cũng là sản phẩm xã hội ngày càng phong phú, ở chế độ công xã nguyên thuỷ,
lực lợng sản xuất phát triển còn thể hiện ở phân công lao động xã hội thay thế
cho phân công tự nhiên. Một số bộ lạc do điều kiện thiên nhiên thuận lợi cho
vịec trồng trọt ngũ cốc, chuyên đi sâu vào sản xuất nông nghiệp, một số bộ lạc
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khác do điều kiện thiên nhiên thuận lợi cho việc chăn nuôi với số lợng lớn nên
đã tách ra khỏi các bộ lạc nông nghiệp và lấy chăn nuôi làm ngành lao động
chủ yếu, điều này đã lam tăng năng suất lao động, con ngời có thể sản xuất đợc
nhiều t liệu sinh hoạt hơn số t liệu sinh hoạt cần thiết cho bản thân họ, do đó
suất hiện sản phẩm thặng d và và sự trao đổi sản phẩm suất hiện một cách ngẫu
nhiên, sau đó trao đổi sản phẩm trở thành thờng xuyên dần dẫn đến trao đổi

hàng hóa, lúc bấy giờ bộ lạc chăn nuôi sản xuất thịt, sữa, da thú nhiều hơn và
những bộ lạc trồng trọt nông ngiệp cũng sản xuất ra nhiều lơng thực thực phẩm
hơn do vậy việc trao đổi trở nên đều đặn thờng xuyên và sản phẩm trở thành
hàng hóa.
Lực lợng sản xuất phát triển thêm một bớc khi công cụ lao động bằng
đồng và sắt suất hiện, khi các nghề dệt và thủ công khác đã phát triển và ngày
càng đợc chuyên môn hóa, tình trạng kết hợp nghề nông với nghề thủ công trở
nên khó khăn và thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp. Nền sản xuất xã hội đ-
ợc chia thành hai ngành chính nông nghiệp và thủ công nghiệp giờ đây sản xuất
hàng hóa suất hiện không những trong nội bộ bộ lạc, giữa các bộ lạc với nhau
mà cả các nớc với nhau từ đấy việc sản xuất để trao đổi và việc trao đổi đã trở
thành một điều kiện tất yếu , sống còn của xã hội.
Sản xuất nhỏ có hai trình độ sản xuất: Sản xuất nhỏ ở trạnh thái tự cấp, tự
túc và sản xuất nhỏ ở trạng thái sản xuất hàng hóa giản đơn. Bớc đi tất yếu và tự
phát của sản xuất tự cấp tự túc là tiến lên sản xuất hàng hóa giản đơn (sản xuất
hàng hóa nhỏ) dựa ttrên chế độ t hữu nhỏ về t liệu sản xuất và lao động cá nhân
của ngời sản xuất.
Nền sản xuất hàng hóa nhỏ của nông dân và thợ thủ công đã có bứơc phát
triển mới. Những ngời thợ cả giàu có bắt đầu mở rông quy mô , thuê thêm nhân
công và kéo dài ngày lao động , dần dần họ trở thành nhà t bản bóc lột ngời lao
động làm thuê. Sản xuất hàng hóa nhỏ phát triển thành qui mô lớn và chỉ khi đó
sản xuất hàng hóa mới trở thành kinh tế hàng hóa (sản xuất hàng hóa giản đơn
vẫn cha phải là kinh tế hàng hóa ).
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
3.Ưu thế của sản xuất hàng hóa
Lịch sử phát triển sản xuất của xã hội là từ sản xuất tự cấp, tự túc tiến lên
sản xuất hàng hóa (hay từ kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hóa). So với nền sản
xuất tự cấp tự túc thì sản xuất hàng hóa có những u thế hơn hẳn về nhiều mặt.
Thứ nhất, nền sản xuất tự cấp tự túc là nền sản xuất khép kín làm cho nền

sản xuất bị hạn chế không phát triển mặt khác sản xuất hàng hóa là sản xuất ra
sản phẩm để bán nên nhu cầu là rất lớn và không ngừng tăng lên bởi vậy nó là
động lực để thúc đẩy sản xuất phát triển .
Thứ hai , sản xuất tự cấp tự túc là sản xuất trong một môi trờng không có
cạnh tranh, sản xuất với qui mô nhỏ, nhu cầu chủ yếu dựa vào nguồn lực tự
nhiên nên không có động lực mạnh cho việc đổi mới kỹ thuật và phát triển sản
xuất hơn nữa, những nguồn lực tự nhiên thì bị sử dụng một cách rất lãng phí.
Còn môi trờng hoạt động của sản xuất hàng hóa là một môi trờng cạnh tranh
gay gắt, qui mô sản xuất lớn, nguồn lực tự nhiên ngày càng khan hiếm, điều này
buộc những ngời sản xuất phải cải tiến kỹ thuật, linh độnh trong việc sử dụng
tài nguyên thiên nhiên, trái với sản xuất tự cấp tự túc, đây là động lực mạnh mẽ
cho sự phát triển của xã hội.
Thứ ba, đối với sản xuất tự cấp tự túc do sản xuất phát triển thấp, sản phẩm
ít và nhu cầu thấp nên ở mỗi vùng và các vùng với nhau, đời sống vật chất, văn
hóa, tinh thần rất nghèo nàn và thấp kém, không có sự giao lu trao đổi văn hóa
giữa các vùng. Nhng sản xuất hàng hóa khắc phục đợc tình trạng này, do sản
xuất hàng hóa phát triển với vai trò động lực của nhu cầu, giao lu văn hóa, kinh
tế đợc phát triển nên đời sống vật chất cũng nh đời sống tinh thần của nhân dân
đều đợc nâng cao ngày càng phong phú và đa dạng, tạo điều kiện cho phát triển
độc lập, tự do bình đẳng của mỗi cá nhân.
Thứ t , nền sản xuất tự cấp tự túc khép kín đã cản trở sự phát triển của phân
công lao động xã hội, trái lại do sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở phân công
lao động xã hội, thúc đẩy sự chuyên môn hóa các ngành sản xuất, làm cho các
ngành sản xuất ngày càng đợc chuyên môn hóa và phát triển mạnh mẽ, trình độ
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
kỹ thuật ngày càng đợc nâng cao, trên thế giới hiện nay khoa học ky thuật phát
triển vô cùng nhanh chónh nhất là trong lĩnh vực công nghệ thông tin, điện tử...
4.Sự tồn tại khách quan của kinh tế hàng hóa tronh thời kỳ quá độ.
Ta thấy rằng, từ khi chủ nghĩa xã hội ra đời và phát triển nh một hệ thống

thế giới cho đến trớc thập kỷ 80, vấn đề có hay không tồn tại của nền sản xuất
hàng hóa trong chủ nghĩa xã hội luôn là đề tài tranh luận trong giới nghiên cứu
lý luận Mac xít. Nhìn chung, về phơng diện lý luận, quan điểm chính thống chi
phối trong suốt mấy thập kỷ qua là quan niệm: kinh tế xã hội chủ nghĩa là nền
kinh tế phát triển theo quy luật cân đối và có kế hoạch cùng với các quy luật
kinh tế đặc thù khác của chủ nghĩa xã hội, Nhà nớc có vai trò chủ yếu trong quá
trình tái sản xuất và phân phối sản phẩm mà không cần đến các quan hệ trao đổi
hàng hóa trên thị trờng. Kinh tế hàng hóa bị coi nhẹ, đợc coi là đặc trng riêng
của chủ nghĩa t bản cần phải đợc hạn chế và đi tới xoá bỏ. Nhng trên thực tế
chính điều đó là nguyên nhân chủ yếu làm trì trệ , kìm hãm đa một số nền kinh
tế của các quốc gia xã hội chủ nghĩa đến khủng hoảng và tan vỡ. Từ những thực
tế trên ta thấy quan điểm cho rằng sản xuất hàng hóa là đặc trng riêng của chủ
nghĩa t bản là hoàn toàn sai lầm. Mặt khác theo C.Mac sản xuất hàng hóa ra
đời trên cơ sở phân công lao động xã hội và chế độ t hữu về t liệu sản xuất bởi
vậy sản xuất hàng hóa tồn tại trong thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan vì:
Thứ nhất, khi mà phân công lao động xã hội phát triển kéo theo chuyên
môn hóa sản xuất ngày càng sâu sắc, từ đó sẽ nảy sinh thêm những mối liên hệ
kinh tế, những sự trao đổi hoạt động lao động trong xã hội.
Thứ hai, đặc điểm kinh tế của thời kỳ quá độ đó là nền kinh tế nhiều thành
phần với nhiều hình thức sở hữu khác nhau về t liệu sản xuất, nhiều chủ thể
kinh tế khác nhau. Những chủ thể kinh tế này tách biệt, độc lập với nhau nhng
họ đều nằm trong một hệ thống phân công lao động xã hội, do đó sản xuất và
đời sống của họ vẫn có sự phụ thuộc lẫn nhau và quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có
thể thực hiện bằng con đờng trao đổi hàng hóa tức là phải có sản xuất hàng hóa.
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thứ ba, quan hệ hàng hóa tiền tệ là hình thức cần thiết thuận lợi để đảm
bảo sự công bằng trong quan hệ giữa kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, vì
hai đơn vị này tuy cùng là sở hữu công cộng về t liệu sản xuất nhng nó vẫn có
sự tách biệt nhất định và có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, cạnh tranh hay

hiệp tác với nhau, nó còn có sự khác nhau về trình độ kỹ thuật, trình độ quản lý,
về hiệu qủa sản xuất kinh doanh dẫn đến có sự khác biệt nhau về lợi ích kinh tế,
chúng ta không thể dùng phơng pháp bình quân, cào bằng ở đây đợc.
Thứ t, sản xuất hàng hóa và quan hệ hàng hóa tiền tệ còn chính là điều
kiện cần thiết và tất yếu trong quan hệ kinh tế đối ngoại giữa các nớc trên thế
giới bởi vì mỗi nớc vẫn là những quốc gia riêng biệt, là những chủ sở hữu khác
nhau về sản phẩm hàng hóa.
Từ những lý do trên đây ta nhận thấy trong thời kỳ quá độ sản xuất hàng
hóa tồn tại là một tất yếu và cần thiết không thể cỡng lại và không thể dùng
mệnh lậnh để ngăn cấm, xóa bỏ sản xuất hàng hóa.
II.Tính tất yếu khách quan phải phát triển kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần ở Việt Nam.
1. Do yêu cầu của phát triển lực lợng sản xuất.
Lực lợng sản xuất phát triển tỷ lệ thuận với tiến trình tập trung và xã hội
hóa quan hệ sở hữu mà đỉnh cao của nó là sở hữu toàn dân. Sự hình thành của
các tập đoàn kinh tế, các công ty cổ phần, công ty đa quốc gia và xuyên quốc
gia chính là những biểu hiện của quá trình xã hội hóa quan hệ sở hữu ở một
trình độ nhất định. Khi mà lực lợng sản xuất đang ở mức thấp thì tơng ứng với
nó là sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu nhỏ và phân tán.
Thế giới ngày nay do phát triển lực lợng sản xuất của khoa học, công nghệ
mà giàu có rất nhanh nhng đi liền với nó là bất công xã hội ngày càng nhiều, sự
giàu có phát triển không làm cho bất công xã hội giảm đi mà ngày càng phát
triển, để giải quyết mâu thuẫn này không có cách nào khác là khi tăng trởng
kinh tế phải đi đôi với giải quyết công bằng xã hội, nhng giải quyết công bằng
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
xã hội ở đây không có nghĩa là cào bằng, sự siêng năng, tích cực và biếng nhác,
làm ăn có hiệu quả đều đợc hởng nh nhau, làm nh vậy sẽ làm triệt tiêu động lực
phấn đấu của con ngời, ở đây cần phải dùng quan hệ hàng hóa tiền tệ để phân
chia quyền lợi, chỉ có làm nh vậy mới giảm bớt đợc bất công của xã hội. Hơn

nữa trình độ phát triển lực lợng sản xuất ở nớc ta còn ở mức rất thấp, sự phân
công lao động xã hội gắn với sự tồn tại nhiều chủ thể sở hữu khác nhau nh các
thực thể kinh tế độc lập, do vậy việc trao đổi sản phẩm không thể thực hiện
bằng cách nào khác là thực hiện trao đổi hàng hóa thông qua tiền tệ.
Trong thời kỳ quá độ của nớc ta hiện nay muốn phát triển lực lợng sản
xuất thì phải nâng cao xã hội hóa và chuyên môn hóa lao động mà điều này chỉ
có thể diễn ra thuận lợi trong nền kinh tế thị trờng.
Ngày nay, trên thế giới, do sự phát triển của lực lợng sản xuất của khoa
học công nghệ, đang có xu hớng quốc tế hóa đời sống nhân loại, xu hóng này
mở ra cả chiều rộng và chiều nghịch, cả mặt tích cực và tiêu cực tác động đến
con ngời, đến các quốc gia. Xu thế này đòi hỏi sự giao lu hợp tác, hiểu biết lẫn
nhau giữa các vùng và các quốc gia. Do vậy cần phải phát triển sản xuất hàng
hóa ở nớc ta để việc giao lu, hợp tác với các nớc khác trên thế giới đợc dễ dàng,
tiện lợi.
Mặt khác, sản xuất hàng hóa phát triển kéo theo lực lợng sản xuất phát
triển làm sản phẩm xã hội ngày càng phong phú đáp ứng đợc nhu cầu ngày càng
tăng của con ngời.
2.Do tồn tại nhiều thành phần kinh tế.
Việc đổi mới quản lý kinh tế sử dụng đúng đắn mối quan hệ hàng hóa tiền
tệ, quản lý bằng phơng pháp kinh tế là chủ yếu đã đợc đặt nền tảng t tởng bởi
nghị quyết đại hội VI (năm 1986) có tính quyết định cho việc lựa chọn chuyển
hoạt động của nớc ta sang cơ chế thị trờng nhằm nhanh chóng đa nớc ta thoát
khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Từ những quan điểm đó chính phủ đã chủ tr-
ơng chuyển việc mua bán t liệu sản xuất, vật phẩm tiêu dùng ... từ cơ chế hành
chính quan liêu bao cấp sang việc mua bán thông qua thị trờng .
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần tơng ứng với nhiều hình thức sở hữu
khác nhau về t liệu sản xuất là cơ sở kinh tế gắn liền với nó là sự tồn tai và phát
triển kinh tế hàng hóa. Đối với nền kinh tế nớc ta với lực lợng sản xuất cha đồng

đều chúng ta đã nhận định đợc rằng chỉ có phát triển kinh tế nhiều thành phần
mới có khả năng khắc phục đợc tình trạng không đồng đêù đó của lực lợng sản
xuất.
Hiện nay, nớc ta vẫn đang phải gánh chịu những hậu qủa nặng nề do sự sai
lầm về đờng lối, chính sách thời trớc đổi mới, hậu qủa chúnh ta phải gánh chịu
đó là nền kinh tế kèm phát triển, làm mất khả năng cạnh tranh và những tác
dụng tích cực của kinh tế hàng hóa. Nền kinh tế nhiều thành phần là nguồn lực
tổng hợp về nhiều mặt (huy động đợc mọi tiềm năng về vốn, kỹ thuật và phát
huy đợc mọi tiềm năng của con ngời Việt Nam) có khả năng đa nền kinh tế vợt
qua đựơc tình trạng thấp kém đa nền kinh tế hàng hóa phát triển ngay trong điều
kiện nguồn vốn, ngân sách của Nhà nớc còn hạn hẹp.
Một điều có ý nghĩa khá lớn mà chúng ta đã nhận định đợ đó là : do trong
nền kinh tế hàng hóa chịu sự tác dụng của sự thay đổi cơ cấu ngành theo hớng
ngành kinh tế dịch vụ phát triển nhanh chóng, bởi vậy lao động dịch vụ trong
ngành dịch vụ có khả năng thu hút nguồn lao động không nhỏ, góp phần giải
quyết đợc vấn đề công ăn việc làm ở nớc ta hiện nay. Trong điều kiện đó các
thành phần kinh tế có khả năng mở rộng, tác dụng làm cho kinh tế hàng hóa và
dịch vụ phát triển.
Vậy đối với nớc ta hiện nay, việc xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần theo định hớng xã hội chủ nghĩa là một nhu cầu khách quan, là xu
thế tất yếu hợp với thời đại.
3.Do đòi hỏi nâng cao đời sống nhân dân
Vào thời kỳ những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX này, dân tộc ta bị
sống đoạ đày dới ách thống trị của thực dân Pháp và phong kiến tay sai. Trong
ách áp bức bóc lột nhiều phong trào yêu nớc đã kế tiếp nhau diễn ra để chống
lại bọn cớp nớc và bè lũ bán nớc nhng những phong trào đó lần lợt bị thất bại do
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
không tìm đợc ra con đờng đúng đắn. Trong bối cảnh đó Hồ Chí Minh với tên
gọi Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đờng cứu nớc tại bến cảng nhà Rồng và ngời

đã tìm ra con đờng đúng đắn để giải phóng dân tộc. Ngày từ những ngày đầu
của chính quyền cách mạng mới giành đợc, ngời đã nêu bật một chân lý nớc
độc lập mà dân không đợc hởng hạnh phúc thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì và
ngời thờng căn dặn thắng đế quốc và phong kiến là tơng đối khó nhng thắng
nghèo nàn, lạc hậu mới khó khăn hơn nhiều.
Đối với nớc ta trong thời kỳ trớc đổi mới (1986) do những sai lầm trong
nhận thức về mô hình xã hội chủ nghĩa, cho rằng kinh tế hàng hóa là đặc trng
riêng của chủ nghĩa t bản, điều này đã làm cho nền kinh tế nớc ta lâm vào
khủng hoảng trầm trọng , lạm phat gia tăng một cách khủng khiếp (có thời kỳ
lên tới 600 700%) đời sống nhân dân khổ cực.
Trớc những thực trạng đó của đất nớc Đảng ta đã nhận ra sai lầm và đã đề
ra phơng hớng đổi mới đất nớc đó là vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trờng
có sự quản lý của Nhà nớc kể từ sau đại hội VI (1986). ở nông thôn nớc ta, sự
phát triển kinh tế hàng hóa và việc tăng tỷ lệ hàng hóa nông sản đã làm cho
hàng hóa bán ra của nông dân nhiều lên, thu nhập tăng lên một cách đánh kể.
Thực tiễn những năm đổi mới đã chỉ ra rằng, việc chuyển sang mô hình
kinh tế thị trờng là hoàn tòan đúng đắn. Nhờ mô hình kinh tế đó mà những năm
vừa qua, chúng ta đã bớc đầu khai thác đợc tiềm năng trong nớc đi đôi với thu
hút vốn kỹ thuật nớc ngoài, phát triển lực lợng sản xuất.
III. Những giải pháp phát triển kinh tế hàng hóa.
1.Thực trạng kinh tế hàng hóa nớc ta hiện nay.
1.1.Những thành tựu đạt đợc khi có chính sách mới.
Cho đến cuối những năm 80 về cơ bản, trong nền kinh tế nớc ta, sản xuất
nhỏ vẫn còn là phổ biến, trạng thái kinh tế tự nhiên, hiện vật tự cung tự cấp còn
chiếm u thế. Xã hội Việt Nam về cơ bản vẫn dựa trên nền tảng của văn minh
10

×