Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

tính định hướng trong tư tưởng chỉ đạo của đảng và giải pháp tăng cường tính định hướng đối với hoạt động văn hóa văn nghệ tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.28 KB, 13 trang )

A.PHẦN MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài.
Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế-xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Văn học,
nghệ thuật là bộ phận trọng yếu của nền văn hoá dân tộc, thể hiện khát vọng
của nhân dân về chân-thiện-mỹ.
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, đồng thời là mục tiêu của sự
phát triển. mọi sự phát triển đều do con người quyết định mà văn hóa thể hiện
trình độ vun trồng ngày càng cao, càng toàn diện con người và xã hội, làm
cho con người và xã hội ngày càng phát triển, tiến bộ. Con người tồn tại,
không chỉ cần những sản phẩm vật chất mà còn có nhu cầu hưởng thụ sản
phẩm văn hóa tinh thần, con người và xã hội loài người càng phát triển thì
nhu cầu văn hóa tinh thần đòi hỏi ngày càng cao.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn hiện nay đang là một xu
thế tất yếu khách quan đòi hỏi chúng ta phải chủ động, tích cực và sang tạo.
Hội nhập quốc tế đã mở ra những cánh cửa rộng lớn đưa nước ta hòa nhập
cùng với quốc gia phát triển trên thế giới. Tuy nhiên nó cũng đặt ra những
thách thức, những khó khan cho chúng ta trong quá trình hội nhập.Việc du
nhập lối sống phương tây bị chà trộn cùng với lề nếp phông tục của dân tộc.
Sự thâm nhập của văn hóa độc hại, của sự lai căng văn hóa, của lối sống thực
dụng và những tiêu cực khác của kinh tế thị trường…, đã và đang ảnh hưởng,
làm băng hoại những giá trị văn hóa truyền thống, ảnh hưởng tới sự phát triển
bền vững của đất nước…
Công tác văn hóa văn nghệ phải được nâng cao chất lượng. Văn hoá là
nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã
hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Văn học, nghệ thuật là
bộ phận trọng yếu của nền văn hoá dân tộc, thể hiện khát vọng của nhân dân
về chân-thiện-mỹ. Mỗi hoạt động văn hóa văn nghệ phải tính đến hiệu quả xã
1



hội, tác động tốt đến tư tưởng tâm lý tình cảm, nâng cao trình độ giác ngộ xã
hội chủ nghĩa và trình độ thẩm mỹ của nhân dân. Quan tâm đáp ứng nhu cầu,
thị hiếu lành mạnh của các tầng lớp xã hội và các lứa tuổi.
Nhận thức rõ được vai trò vô cùng to lớn trong công tác định hướng,
lãnh đạo, kiểm tra, quản lý các hoạt động văn hóa văn nghệ ; Đảng và Nhà
nước những năm qua đã lien tục tiến hành các biện pháp cũng như đề ra nhiều
chủ trương nhằm đảm bảo tính định hướng của đảng đối với hoạt động văn
hóa văn nghệ. Công tác định hướng hoạt động văn hóa văn nghệ trong cả
nước nói chung và tại tỉnh Thái Bình nói riêng những năm qua bước đầu đã
đạt được một số kết quả đáng kể. Cùng với những thành tựu phát triển về kinh
tế thì hoạt động văn hóa văn nghệ đã góp phần to lớn cho việc thúc đẩy quá
trình phát triển đất nước trong thồi kỳ hội nhập.

2


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN
HÓA VĂN NGHỆ.
1.1.Một số khái niệm.
Khái niệm Văn hóa : Văn hóa là bao gồm tất cả những sản phẩm của
con người, và như vậy, văn hóa bao gồm cả hai khía cạnh: khía cạnh phi vật
chất của xã hội như ngôn ngữ, tư tưởng, giá trị và các khía cạnh vật chất như
nhà cửa, quần áo, các phương tiện, v.v... Cả hai khía cạnh cần thiết để làm ra
sản phẩm và đó là một phần của văn hóa. Khía niệm văn hóa là một khái niệm
rộng. Đến nay, rất nhiều khái niệm nói về văn hóa:
+Trong từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, do NXB Đà Nẵng
và Trung tâm Từ điển học xuất bản năm 2004 thì đưa ra một loạt quan niệm
về văn hóa:
-Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do

con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. -văn hóa là một hệ thống hữu cơ
các giá trị vật chất và tinh thần do con người sng1 tạo và tích lũy qua quá
trình hoạt động thực tiễn,trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự
nhiên xã hội.
-Văn hóa là những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu
đời sống tinh thần (nói tổng quát);
-Văn hóa là tri thức, kiến thức khoa học (nói khái quát);
-Văn hóa là trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh;
-Văn hóa còn là cum từ để chỉ một nền văn hóa của một thời kỳ lịch sử
cổ xưa, được xác định trên cơ sở một tổng thể những di vật có những đặc
điểm giống nhau, ví dụ Văn hóa Hòa Bình, Văn hóa Đông Sơn
+Trong cuốn Xã hội học Văn hóa của Đoàn Văn Chúc, Viện Văn hóa
và NXB Văn hóa - Thông tin, xuất bản năm 1997, tác giả cho rằng: Văn hóa –
vô sở bất tại: Văn hóa - không nơi nào không có! Điều này cho thấy tất cả

3


những sáng tạo của con người trên nền của thế giới tự nhiên là văn hóa; nơi
nào có con người nơi đó có văn hóa.
+Trong cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, PGS.TSKH Trần Ngọc
Thêm cho rằng: Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần
do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự
tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.
+Theo tổ chức giáo dục và khoa học của Liên Hiệp Quốc UNESCO:
Văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc kia.


Tóm lại, Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát
triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại

tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội.
Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã
hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và
tương tác xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người
và của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và
hành động của con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do
con người tạo ra.
Khái niệm văn nghệ : Được hiểu theo một nghĩa chung nhất là nghề về
cái đẹp. Trong đó khái niệm nghệ thuật có thể bao hàm được hầu hết khái
niệm trên.
Nghệ thuật là một mảng đa dạng chứa các hoạt động con người và các
sản phẩm tạo nên từ các hoạt động đó. Nghệ thuật được đặc tính hóa trong
thuật ngữ của sự bắt chước, nhấn mạnh, sự trao đổi cảm xúc và các giá trị
khác. Theo như Hegel thì có 7 môn nghệ thuật chính đó là : sân khấu, điện
ảnh, điêu khắc, hội họa,văn học, âm nhạc,kiến trúc.
1.2. Vai trò tính định hướng của đảng trong hoạt động văn hóa văn
nghệ.
Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng công tác xây dựng, bổ sung hoàn
thiện đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật về lĩnh vực văn hóa, văn
4


học, nghệ thuật, cố gắng tạo điều kiện để anh chị em văn nghệ sĩ phát huy hết
tài năng; định hướng đúng đắn cho văn học nghệ thuật phát triển phù hợp với
con đường đi lên của dân tộc; đề ra chính sách đầu tư, bảo đảm tự do sáng tác
đi đôi với nêu cao trách nhiệm công dân, trách nhiệm xã hội của văn nghệ sĩ,
các nhà văn hóa; đồng thời chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần, tạo môi
trường, điều kiện thuận lợi cho văn nghệ sĩ làm việc; chú ý bồi dưỡng, đào tạo
lớp văn nghệ sĩ trẻ...
Tuy nhiên công tác định hướng của Đảng vẫn chỉ là những yếu tố

khách quan. Với văn học nghệ thuật thì không gì có thể thay thế được tài năng
và tâm hồn chủ thể những người trực tiếp sáng tạo, tức là các văn nghệ sĩ.
Văn nghệ sĩ là những người có năng khiếu đặc biệt, lại có khả năng thu nhận
tri thức, tiếp cận thực tiễn cuộc sống, trau dồi bản lĩnh chính trị và nghề
nghiệp, là người sáng tạo ra tác phẩm. Sự nghiệp sáng tạo văn học nghệ thuật
đòi hỏi phải có những người có tài năng, có tâm hồn, có nhân cách, bản lĩnh,
đặc biệt là có chỗ đứng và cách nhìn đúng đắn, khách quan, khoa học.
Việc định hướng trong công tác chỉ đạo của đảng tạo điều kiện cho văn
hóa văn nghệ phát triển theo đúng quy luật khách quan. Hơn thế nữa, chúng ta
vẫn giữ gìn được bản sắc đậm đà văn hóa dân tộc đa dạng mà nhiều màu sắc.
Đưa nền văn hóa của chúng ta vươn xa hơn trong tầm quốc tế.
Tính định hướng của đảng góp phần ngăn chặn được các thế lực thù
địch đang ngày ngày muốn chống phá cách mạng nước ta thông qua các loại
hình văn hóa văn nghệ. Điều đó đã tạo cho nên văn hóa chúng ta có nững
bước tiến chuẩn mực hơn nữa trong quá trinhhf hội nhập kinh tế quốc tế.

5


CHƯƠNG 2: TÍNH ĐỊNH HƯỚNG TRONG TƯ TƯỞNG CHỈ
ĐẠO CỦA ĐẢNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG TÍNH ĐỊNH
HƯỚNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA VĂN NGHỆ.
2.1.Thực trạng văn hóa văn nghệ nước ta trong thời kỳ đổi mới ,
hội nhập.
70 năm đã đi qua, dân tộc ta, Đảng ta đã trải qua những chặng đường
gian khổ, hào hùng, làm nên những thắng lợi vẻ vang. Bối cảnh tình hình và
điều kiện cụ thể đã có nhiều đổi thay nhưng những nội dung cốt lõi của Đề
cương Văn hóa Việt Nam vẫn còn nguyên giá trị. Trong bối cảnh xã hội Việt
Nam lúc đó, “văn hóa nửa phong kiến, nửa tư sản và hoàn toàn có tính cách
thuộc địa” đang thống trị, sự ra đời của Đề cương về văn hóa Việt Nam là

ngọn đuốc soi đường và định hướng tư tưởng, nhận thức, phương châm hoạt
động văn hóa cho toàn Đảng, toàn dân trong cuộc đấu tranh giành độc lập tự
do cho Tổ quốc, tiến lên xây dựng chế độ mới, nền văn hóa mới. Đề cương
Văn hóa năm 1943 đã cổ vũ, lôi cuốn đông đảo những người yêu nước, những
người hoạt động văn hóa yêu nước vào Hội Văn hóa cứu quốc, thành viên của
Mặt trận Việt Minh. Đảng ta khẳng định: “Những phương pháp cải cách văn
hóa đề ra bấy giờ chỉ là dọn đường cho cuộc cách mạng triệt để mai sau”, tức
là chuẩn bị cho “cách mạng chính trị thành công”.
Trong công cuộc hội nhập và phát triển đất nước, hoạt động văn hóa
văn nghệ cũng như công tác định hướng của đảng hướng vào mục tiêu này đã
đạt đc những thành tích đáng kể:
-

Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) ra đời đáp ứng đúng yêu cầu phát triển
của đất nước và nguyện vọng của nhân dân, đã nhanh chóng đi vào cuộc sống,
được xã hội nhiệt tình hưởng ứng thực hiện, gắn kết chặt chẽ hơn văn hóa với
các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn
định chính trị và tạo nên những thành tựu về kinh tế, xã hội, an ninh, quốc
phòng, đối ngoại... của đất nước.

6


-

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, đánh giá: Hoạt động văn hoá, văn nghệ,
thông tin, thể dục, thể thao ngày càng được mở rộng, từng bước đáp ứng nhu
cầu hưởng thụ văn hoá ngày càng cao của nhân dân. Phong trào “Toàn dân

-


đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” từng bước đi vào chiều sâu.
Các di sản văn hóa được UNESCO công nhận, các loại hình nghệ thuật truyền
thống đang dần được khôi phục và bảo tồn. Các chương trình nghệ thuật biểu
diễn trong nước đang hướng ra thế giới.
Tuy nhiên bên cạnh những hạn chế nước ta gặp phải những khó khan
nhất định :

-

So với yêu cầu của thời kỳ đổi mới, trước những biến đổi ngày càng phong
phú trong đời sống xã hội những năm gần đây, những thành tựu và tiến bộ đạt
được trong lĩnh vực văn hóa còn chưa tương xứng và chưa vững chắc, chưa

-

đủ để tác động có hiệu quả đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội
Sự phát triển của văn hóa chưa đồng bộ và tương xứng với tăng trưởng kinh

-

tế, thiếu gắn bó với nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng
Việc xây dựng thể chế văn hóa, các văn bản quy phạm pháp luật, các chính
sách trên lĩnh vực văn hóa, đặc biệt là chính sách về quan hệ giữa kinh tế và

-

văn hóa còn chậm, chưa đổi mới, thiếu đồng bộ
Tình trạng nghèo nàn, thiếu thốn, lạc hậu về đời sống văn hóa - tinh thần ở
nhiều vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân

tộc thiểu số và vùng căn cứ cách mạng trước đây vẫn chưa được khắc phục có
hiệu quả. Khoảng cách chênh lệch về hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền,
khu vực, tầng lớp xã hội tiếp tục mở rộng.
2.2. Tính định hướng trong tư tưởng chỉ đạo của đảng và giải pháp
tang cường tính định hướng.
2.2.1. Tính định hướng trong tư tưởng chỉ đạo của đảng
Công tác chỉ đạo lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động văn hóa văn
nghệ bao gồm các nội dung sau :
- Vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là cốt lõi tư tưởng trong văn
hoá, văn nghệ nước ta. Sự nghiệp văn hoá, văn nghệ là bộ phận khăng khít
7


của sự nghiệp đổi mới. Thấm nhuần và thực hiện quan điểm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh: "Văn hoá, nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em văn nghệ sĩ
là chiến sĩ trên mặt trận ấy".
- Bảo đảm dân chủ, tự do cho mọi sự sáng tạo và hoạt động văn hoá,
vun đắp các tài năng, đồng thời đề cao trách nhiệm của văn nghệ sĩ trước
công chúng, dân tộc và thời đại.
- Phát triển văn hoá dân tộc đi liền với mở rộng giao lưu văn hoá với
nước ngoài, tiếp thụ những tinh hoa của nhân loại, làm giàu đẹp thêm nền văn
hoá Việt Nam. Ngăn chặn và đấu tranh chống sự xâm nhập của các loại văn
hoá độc hại, bảo vệ nền văn hoá dân tộc.
- Nâng cao tính chiến đấu của các hoạt động văn hoá và văn học, nghệ
thuật, khẳng định mạnh mẽ và sâu sắc những nhân tố mới, những giá trị cao
đẹp của dân tộc ta, khắc phục những gì cản trở quá trình đi lên của đất nước.
Phê phán cái sai, lên án cái ác, cái xấu là để hướng con người tới cái đúng, cái
tốt, cái đẹp. Đấu tranh không khoan nhượng chống các luận điệu độc hại của
các thế lực thù địch.
- Văn hoá, văn nghệ là sự nghiệp của toàn xã hội. Phát triển các hoạt

động văn hoá văn nghệ của nhà nước, tập thể và cá nhân theo đường lối của
Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Khắc phục tình trạng "hành chính hoá" các
tổ chức văn hoá, nghệ thuật và xu hướng "thương mại hoá" trong lĩnh vực
này.
2.2.2 Giải pháp tang cường tính định hướng của Đảng
Để đạt những mục tiêu nêu trên, cần tập trung thực hiện những biện
pháp sau:
- Làm cho cán bộ, đảng viên quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung
ương lần thứ tư về văn hoá, văn nghệ. Mở một đợt sinh hoạt chính trị - tư
tưởng về Nghị quyết này trong giới văn hoá, văn nghệ và cán bộ tuyên huấn,
khoa giáo.
8


- Kiện toàn các cơ quan, đoàn thể làm công tác văn hoá, văn nghệ về
mặt tổ chức và cán bộ.
Thành lập đảng đoàn ở các hội văn nghệ và ban cán sự đảng ở các cơ
quan quản lý nhà nước về văn hoá, văn nghệ.
Chỉnh đốn và tăng cường các viện nghiên cứu, các khoa và các trường
thuộc bộ môn văn học và nghệ thuật, các báo, tạp chí văn nghệ và các trang
văn nghệ trên báo chí, đài phát thanh và vô tuyến truyền hình.
Nâng cao chất lượng sách giáo khoa về văn học và đội ngũ giảng viên
trong các trường văn hoá, nghệ thuật và các trường phổ thông, đại học. Có
chế độ cấp học bổng cho học sinh nghệ thuật; có chế độ ưu đãi những tài năng
sáng tạo.
Sắp xếp lại tổ chức và hoạt động ngành điện ảnh. Chỉnh đốn công tác
xuất bản, in và phát hành. Phổ biến rộng rãi những tác phẩm có giá trị về tư
tưởng và nghệ thuật; cấm sản xuất, xuất bản và phổ biến những tác phẩm,
phim ảnh, băng hình độc hại, phản động và đồi truỵ.
Bố trí đúng cán bộ, bảo đảm cán bộ chủ chốt phụ trách văn hoá, văn

nghệ có quan điểm đúng đắn, có trình độ hiểu biết, có năng lực lãnh đạo, quản
lý, có phẩm chất tốt và có khả năng đoàn kết các lực lượng sáng tạo, nhiệt tâm
vì sự nghiệp chung.
- Đầu tư có trọng điểm và tài trợ cho các hoạt động văn hoá, văn nghệ
phục vụ đại chúng hoặc những tác phẩm, công trình có giá trị cao nhưng
không có hoặc ít có khả năng đem lại doanh thu. Tiếp tục bổ sung và hoàn
chỉnh các chế độ lương, thù lao, mua bán tác phẩm, thuế, chính sách khuyến
khích sáng tác, v.v. bảo đảm cho văn nghệ sĩ chuyên nghiệp có thể sống bằng
nghề nghiệp chính của mình.
Thực hiện tốt quyết định của Nhà nước tặng giải thưởng quốc gia hằng
năm về văn hoá, văn nghệ.
- Thể chế hoá kịp thời những chủ trương, biện pháp nêu trong Nghị
quyết Trung ương. Có chương trình nghiên cứu và ban hành sớm các văn bản
9


pháp quy thuộc lĩnh vực hoạt động văn hoá, nghệ thuật. Trước mắt, tập trung
xây dựng một số luật cần thiết như Luật xuất bản, Luật bảo vệ di tích văn hoá
dân tộc...
- Đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ và phát triển văn hoá, văn
nghệ dân tộc. Bằng mọi cách, đưa những giá trị văn hoá, văn nghệ dân tộc và
thế giới đến với nhân dân.
Tiếp tục mở rộng các loại hình thông tin đại chúng, hiện đại hoá các
phương tiện nghe, nhìn, tăng cường việc phát hành sách báo để chuyển tải
được tốt và nhanh các giá trị văn hoá, văn nghệ.
Khôi phục và phát triển hệ thống thư viện từ trung ương đến cơ sở. Xây
dựng thư viện quốc gia có tầm cỡ, đáp ứng được yêu cầu phát triển trí tuệ của
nhân dân, yêu cầu nghiên cứu khoa học và văn hoá, văn nghệ.
Đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hoá.
Đầu tư nâng cấp và chống xuống cấp các bảo tàng, các di tích lịch sử

và văn hoá, xây dựng những tượng đài, trước hết là những tượng đài về các
anh hùng dân tộc và danh nhân văn hoá.
- Có chính sách toàn diện bảo vệ và phát triển văn hoá các dân tộc thiểu
số trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
- Mở rộng giao lưu văn hoá với nước ngoài dưới nhiều hình thức: giới
thiệu rộng rãi những giá trị văn hoá của dân tộc ta với thế giới, đưa vào nước
ta những giá trị văn hoá của nhân dân các nước; mở rộng xuất nhập khẩu văn
hoá phẩm; khuyến khích việc trao đổi với nước ngoài và các đoàn văn hoá,
nghệ thuật... Có quy định nghiêm ngặt bảo vệ những giá trị văn hoá của dân
tộc, chống thâm nhập vào nước ta những tác phẩm xấu, độc hại.
- Xây dựng có trọng điểm cơ sở vật chất và kỹ thuật cho hoạt động văn
hoá, nghệ thuật, thông tin đại chúng, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng
sản phẩm, từng bước đuổi kịp trình độ kỹ thuật tiên tiến của thế giới

C – PHẦN KẾT LUẬN
10


Những năm qua, nhờ có sự đúng đắn trong các quan điểm chỉ đạo, định
hướng của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động văn hóa văn nghệ mà nền
văn hóa của chúng ta phát triển ngyaf càng đa dạng và phong phú. Sự đổi mới
trong các loại hình văn hóa truyền thống dân tộc, sự đa dạng trong các hoạt
động cộng đồng, sự sáng tạo không ngừng của đội ngũ văn nghệ sĩ đã làm
thúc đẩy sự phát triển nền văn hóa nói riêng và phát triển đất nước nói chung.
Đồng thời hạn chế được những luận điệu xuyên tạc của thế lực thù địch đang
tác động vào nền văn hóa dân tộc. Đưa nước ta ngày càng hòa nhập phong
phú và sâu sắc cùng sự phát triển của khu vực và thế giới.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục
đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ
viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công

cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn
bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá”. Người đã khẳng định:
“Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến và
phải coi là quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, truyền thống yêu nước và đại đoàn
kết dân tộc đóng vai trò nền tảng và là động lực để chúng ta xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Vì vậy, kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa tiêu biểu,
truyền thống lịch sử tốt đẹp của dân tộc, bổ sung vào đó những nội dung mới,
đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh là yêu cầu hàng đầu đối với việc xây dựng
nền văn hóa hiện nay.
Xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đâm đà bản sắc dân tộc là
một yêu cầu cần thiết trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và hội nhập quốc tế. Phương hướng phát triển này vừa giữ gìn và
phát huy được bản sắc và bản lĩnh văn hóa dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại để phát triển không ngừng, đạt tới trình độ tiên tiến của các
nước trong khu vực và thế giới.
11


12


MỤC LỤC

13




×