Tải bản đầy đủ (.docx) (81 trang)

Đánh giá kết quả thực hiện phương án quy hoạch sử dụng đất năm 2010 – 2015 quận Hà Đông thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (684.97 KB, 81 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan :
Những nội dung trong đồ án này là do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn
của thầy giáo TS. Dương Đăng Khôi
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong đồ án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất
kỳ công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong đồ án đều đã được
chỉ rõ nguồn gốc.
Sinh viên:

Phùng Đức Tuân


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo Ts.Dương Đăng Khôi đã
tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong thời gian thực hiện đề tài, cũng như
trong quá trình hoàn chỉnh bài đồ án tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Quản lý đất đai
trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội. Trân trọng cảm ơn các cán
bộ, hội đồng nhân dân Quận Hà Đông, Phòng Tài Nguyên và Môi trường
Quận Hà Đông, thành phố Hà Nội, nơi tôi tiến hành điều tra đã tận tình giúp
đỡ tôi để tôi hoàn thành công việc. Trân trọng cảm ơn bạn bè – thầy cô đã
khích lệ tôi để tôi thực hiện đề tài.
Trân trọng cảm ơn người thân trong gia đình, bố mẹ và các chị tôi đã
luôn tạo điều kiện về mọi mặt và động viên tôi trong cuộc sống, học tập, thực
hiện và hoàn chỉnh đồ án tốt nghiệp này.
Sinh viên

Phùng Đức Tuân




MỤC LỤC


CHƯƠNG I. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Sự cần thiết
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt,
là nguồn nội lực, nguồn vốn to lớn của đất nước, là thành phần quan trọng
hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố dân cư, xây dựng các cơ sở
kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định: “ Đất
đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng
trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là
tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống
nhất quản lý”. Và “Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực
quan trọng phát triển đất nước, được quản lý theo pháp luật”.
Luật Đất đai năm 2013 tại chương II, Điều 22 quy định: Quản lý quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất là một trong những nội dung quản lý Nhà nước
về đất đai. Điều 40, 44 đã quy định nguyên tắc căn cứ, nội dung lập và thẩm
định kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện.
Theo quy định tại Điều 63 Luật Đất đai năm 2013, căn cứ để giao đất,
cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất để thực hiện
các dự án, công trình vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã
hội vì lợi ích quốc gia, công cộng là kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp
huyện đã được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt.
Luật Đất đai còn quy định trong nội dung kế hoạch sử dụng đất phải
đồng thời xác định vị trí, diện tích đất thu hồi trong vùng phụ cận đối với dự
án hạ tầng kỹ thuật, xây dựng, chỉnh trang khu đô thị, khu dân cư nông thông


4


để đấu giá quyền sử dụng đất thực hiện dự án nhà ở, thương mại, dịch vụ, sản
xuất, kinh doanh.
Nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng đất cho các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của thành phố trong năm 2010 – 2015 đồng thời khai thác có hiệu quả
tiểm năng đất đai và lợi thế của thành phố, sử dụng đất tiết kiệm, bền vững.
Trong thời gian qua, công tác quy lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, được triển khai
rộng khắp trên phạm vi cả nước và đã đạt được một số kết quả nhất định. Quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất là một nội dung quan trọng trong công tác quản
lý nhà nước về đất đai. Quy hoạch sử dụng đất có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
không chỉ cho trước mắt mà cả lâu dài, việc thực hiện đúng phương án quy
hoạch đóng vai trò quyết định tính khả thi và hiệu quả của phương án quy
hoạch sử dụng đất. Thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai phải phù
hợp với yêu cầu thực tế phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương. Việc sử
dụng đất phải triệt để tiết kiệm, tránh lãng phí quỹ đất, phân bổ hợp lý quỹ đất
cho nhu cầu sử dụng khác nhau của nền kinh tế, đặc biệt ưu tiên đất đai phi
nông nghiệp và đất phát triển hạ tầng.
Tuy nhiên, quá trình triển khai lập và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất còn nhiều hạn chế bất cập. Việc tổ chức thực hiện phương
án quy hoạch sử dụng đất được phê duyệt còn thiếu đồng bộ, thiếu cơ chế
kiểm tra, giám sát dẫn đến tình trạng “quy hoạch treo”. Nhiều phương án quy
hoạch chưa dự báo được hết tốc độ phát triển kinh tế xã hội của địa phương
trong kỳ quy hoạch, việc bố trí quỹ đất cho các thành phần kinh tế không sát
với với nhu cầu thực tế, dẫn đến qúa trình thực hiện phải điều chỉnh bổ sung
nhiều lần; đặc biệt ở những địa phương có điều kiện thuận lợi về giao thông,
gần các trung tâm kinh tế lớn, tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra
nhanh. (công nghiệp, dịch vụ phát triển).


5


Quận Hà Đông được thành phố Hà Nội chọn là địa bàn phát triển các
khu công nghiệp, dịch vụ tập trung của thành phố, với tính chất như vậy nên
cơ cấu đất đai của quận trong những năm qua có nhiều biến động. Diện tích
đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp để nhường đất cho phát triển công
nghiệp, dịch vụ, nhiều hộ nông dân không còn đất để canh tác. Với mục tiêu
giúp địa phương nhìn nhận đánh giá kết quả thực hiện phương án quy hoạch
sử dụng đất giai đoạn 2010- 2015, phân tích, đánh giá những kết quả đã đạt
được và những tồn tại bất cập trong quá trình thực hiện phương án quy hoạch
sử dụng đất đến năm 2015; đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao tính khả thi
của phương án quy hoạch sử dụng đất; khắc phục những nội dung sử dụng đất
bất hợp lý, đề xuất, kiến nghị điều chỉnh những nội dung của phương án quy
hoạch sử dụng đất không theo kịp những biến động trong phát triển kinh tế –
xã hội của địa phương. Tôi chọn đề tài nghiên cứu là: Đánh giá kết quả thực
hiện phương án quy hoạch sử dụng đất năm 2010 – 2015 quận Hà Đông
thành phố Hà Nội.
1.2. Căn cứ pháp lý
- Luật Đất đai năm 2013;
- Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính
phú quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai;
- Thông tư số 29/2014/TT-BTNMT ngày 02 tháng 6 năm 2014 của Bộ
Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết việc lập, điều chỉnh quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất.
- Công văn số 1244/TCQLĐĐ-CQHĐĐ ngày 22 tháng 9 năm 2014 của
Tổng cục Quản lý đất đai - Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc hướng dẫn
điều chỉnh quy hoạch , kế hoạch sử dụng đất các cấp và lập kế hoạch sử dụng
đất hàng năm cấp huyện.


6


- Kế hoạch số 80/KH-UBND ngày 30/03/2015 của Ủy ban nhân dân
thành phố Hà nội về việc tổ chức thực hiện điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất.
1.3. Cơ sở thông tin, tư liệu và bản đồ.
- Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2015 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm
(2010-2015) của quận Hà Đông, thành phố Hà Nội đã được xét duyệt.
- Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội quận Hà Đông giai đoạn
2010 – 2015.
- Định hướng điều chỉnh quy hoạch xây dựng chung xây dựng quận Hà
Đông đến năm 2015.
-Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm
2015.
2. Mục tiêu nghiên cứu.
- Đánh giá kết quả thực hiện phương án quy hoạch sử dụng đất năm
2010 – 2015 quận Hà Đông thành phố Hà Nội; tìm ra những yếu tố tích cực,
những hạn chế bất cập trong quá trình tổ chức thực hiện phương án quy
hoạch.
- Đề xuất các giải pháp nhằm tổ chức thực hiện có hiệu quả phương án
quy hoạch sử dụng đất. Đảm bảo hài hòa giữa các mục tiêu ngắn hạn và dài
hạn, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của quận.
3. Yêu cầu
- Thu thập và xử lý số liệu – Số liệu thu được phải khách quan, trung
thực và xác thực.
- Từ kết quả nghiên cứu phải đưa ra được nguyên nhân của tồn tại. Khó
khăn từ đó đưa ra những giải pháp khắc phục cho phù hợp với tình hình thực
tế ở địa phương.


7


CHƯƠNG II : NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở khoa học, lý luận của quy hoạch sử dụng đất
2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của quy hoạch sử dụng đất
2.1.1.1. Khái niệm về quy hoạch sử dụng đất
Đất đai là một vùng lãnh thổ nhất định (vùng đất, khoanh đất, vạt đất,
mảnh đất, miếng đất . . .) có vị trí, hình thể, diện tích với những tính chất tự
nhiên hoặc mới tạo thành (đặc tính, thổ nhưỡng, điều kiện địa hình, điạ chất,
thuỷ văn, chế độ nước, nhiệt độ, ánh sáng, thảm thực vật, các tính chất lý hoá
tính . . .) tạo ra điều kiện nhất định cho việc sử dụng theo các mục đích khác
nhau. Như vậy, để sử dụng đất cần phải làm quy hoạch – đây là quá trình
nghiên cứu, lao động sáng tạo nhằm phân định ý nghĩa, mục đích của từng
phần lãnh thổ và đề xuất một trật tự sử dụng đất nhất định.
Về bản chất: Đất đai là đối tượng của mối quan hệ sản xuất trong lĩnh
vực sử dụng đất (gọi là mối quan hệ đất đai) và tổ chức sử dụng đất như “tư
liệu sản xuất đặc biệt” gắn chặt với phát triển kinh tế - xã hội [16]. Như vậy,
Quy hoạch sử dụng đất sẽ là một hiện tượng kinh tế - xã hội thể hiện đồng
thời ba tính chất: kinh tế, kỹ thuật và pháp chế. Trong đó cần hiểu:
- Tính kinh tế: Thể hiện ở hiệu quả sử dụng đất đai.
- Tính kỹ thuật: Bao gồm các tác nghiệp chuyên môn kỹ thuật như điều
tra, khảo sát, xây dựng bản đồ, khoanh định, xử lý số liệu . . .
- Tính pháp chế: Xác nhận tính pháp lý về mục đích và quyền sử dụng
đất theo quy hoạch nhằm đảm bảo sử dụng đất đai đúng pháp luật.
Từ đó, có thể đưa ra khái niệm: quy hoạch sử dụng đất là hệ thống các
biện pháp của Nhà nước về quản lý và tổ chức sử dụng đất đầy đủ, hợp lý,
hiệu quả, khoa học thông qua việc phân bổ đất đai cho các mục đích sử dụng
và định hướng tổ chức sử dụng đất cho các cấp lãnh thổ, các ngành, tổ chức


8


và người sử dụng đất nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội, thực hiện
đường lối kinh tế của Nhà nước trên cơ sở dự báo theo quan điểm sinh thái
bền vững
Theo FAO: “Quy hoạch sử dụng đất là quá trình đánh giá tiềm năng đất
và nước một cách có hệ thống phục vụ việc sử dụng đất và kinh tế - xã hội
nhằm lựa chọn ra phương án sử dụng đất tốt nhất. Mục tiêu của quy hoạch sử
dụng đất là lựa chọn và đưa ra phương án đã lựa chọn vào thực tiễn để đáp
ứng nhu cầu của con người một cách tốt nhất nhưng vẫn bảo vệ được nguồn
tài nguyên cho tương lai. Yêu cầu cấp thiết phải làm quy hoạch là do nhu cầu
của con người và điều kiện thực tế sử dụng đất thay đổi nên phải nâng cao kỹ
năng sử dụng đất”.
Phương án quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai đã được cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền quyết định, xét duyệt là căn cứ để bố trí sử dụng đất,
giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất đặc biệt là
chuyển diện tích trồng lúa có hiệu quả cao sang các mục đích phi nông
nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản hoặc trồng cây lâu năm. Như vậy, mục đích của
quy hoạch sử dụng đất nhằm tạo ra những điều kiện về tổ chức lãnh thổ, thúc
đẩy các đơn vị sản xuất thực hiện đạt và vượt mức kế hoạch Nhà nước giao.
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đóng vai trò quan trọng, là cơ sở để
Nhà nước thống nhất quản lý đất đai hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả. Nó
được xây dựng trên định hướng phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát
triển đô thị, yêu cầu bảo vệ môi trường, tôn tạo di tích lịch sử văn hoá, danh
lam thắng cảnh; Hiện trạng quỹ đất và nhu cầu sử dụng; Định mức sử dụng
đất, tiến bộ khoa học kỹ thuật; Kết quả thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất kỳ trước. Những năm gần đây, quy hoạch đã góp phần không nhỏ
tạo ra kết quả đáng khích lệ, giúp khai thác, sử dụng đúng mục đích, tiết kiệm


9


và có hiệu quả, phát huy tiềm năng, nguồn lực về đất, mở rộng diện tích đất
canh tác, nâng cao chất lượng, đảm bảo an toàn lương thực.
Như vậy, về thực chất quy hoạch sử dụng đất là quá trình hình thành các
quyết định nhằm tạo điều kiện đưa đất đai vào sử dụng bền vững để mang lại
lợi ích cao nhất, thực hiện đồng thời hai chức năng: Điều chỉnh các mối quan
hệ đất đai và tổ chức sử dụng đất như tư liệu sản xuất đặc biệt với mục đích
nâng cao hiệu quả sản xuất của xã hội, kết hợp với bảo vệ đất và môi trường.
Căn cứ vào đặc điểm, điều kiện tự nhiên, phương hướng, nhiệm vụ và
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi vùng lãnh thổ, quy hoạch sử dụng
đất được tiến hành nhằm định hướng cho các cấp, các ngành trên địa bàn lập
quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất chi tiết của mình; xác lập sự ổn định về
mặt pháp lý cho công tác quản lý Nhà nước về đất đai; làm cơ sở tiến hành
cấp đất và đầu tư phát triển sản xuất, đảm bảo an ninh lương thực, phục vụ
các nhu cầu dân sinh, văn hoá – xã hội.
Mặt khác, quy hoạch sử dụng đất còn là biện pháp hữu hiệu của Nhà
nước nhằm tổ chức lại việc sử dụng đất theo đúng mục đích, hạn chế sự
chồng chéo gây lãng phí đất đai, tránh tình trạng chuyển mục đích tuỳ tiện,
làm giảm sút nghiêm trọng quỹ đất nông nghiệp, lâm nghiệp (đặc biệt là diện
tích trồng lúa và đất lâm nghiệp có rừng); Ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực,
tranh chấp, lấn chiếm huỷ hoại đất, phá vỡ cân bằng sinh thái, gây ô nhiễm
môi trường dẫn đến những tổn thất hoặc kìm hãm sản xuất, phát triển kinh tế xã hội và hậu quả khó lường về tình hình bất ổn chính trị, an ninh quốc phòng
ở từng địa phương, đặc biệt là trong giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường.
2.1.1.2. Đặc điểm của quy hoạch sử dụng đất
Quy hoạch sử dụng đất thuộc loại quy hoạch có tính lịch sử - xã hội, tính
khống chế vĩ mô, tính chỉ đạo, tính tổng hợp trung và dài hạn, là bộ phận hợp


10


thành quan trọng của của hệ thống kế hoạch phát triển xã hội và kinh tế quốc
dân. Các đặc điểm của quy hoạch sử dụng đất:
* Tính lịch sử - xã hội: Lịch sử phát triển của xã hội chính là lịch sử
phát triển của quy hoạch sử dụng đất. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có
một phương thức sản xuất xã hội thể hiện theo hai mặt: lực lượng sản xuất
(mối quan hệ giữa người với sức hoặc vật tự nhiên trong quá trình sản xuất)
và quan hệ sản xuất (quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất).
Trong quy hoạch sử dụng đất luôn nảy sinh mối quan hệ giữa người với đất
đai – là sức tự nhiên (như điều tra, đo đạc, khoanh định, thiết kế . . .) cũng
như quan hệ giữa người với người (xác nhận bằng văn bằng về sở hữu và
quyền sử dụng đất giữa người với chủ sử dụng đất – GCN QSDĐ). Quy
hoạch sử dụng đất thể hiện đồng thời là yếu tố thúc đẩy phát triển lực lượng
sản xuất, vừa là yếu tố thúc đẩy mối quan hệ sản xuất, vì vậy nó luôn là một
bộ phận của phương thức sản xuất xã hội.
* Tính tổng hợp: Tính tổng hợp của quy hoạch sử dụng đất thể hiện ở
hai mặt: Đối tượng của quy hoạch là khai thác, sử dụng, cải tạo, bảo vệ tài
nguyên đất đai cho nhu cầu toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Quy hoạch sử dụng
đất đề cập đến nhiều lĩnh vực về khoa học, kinh tế và xã hội như khoa học tự
nhiên, khoa học xã hội, dân số và đất đai, sản xuất nông, công nghiệp, môi
trường sinh thái . . Với đặc điểm này, quy hoạch lãnh trách nhiệm tổng hợp
toàn bộ nhu cầu sử dụng đất; Điều hoà các mâu thuẫn về đất đai của các
ngành, lĩnh vực; xác định và điều phối phương hướng, phương thức phân bổ
sử dụng đất phù hợp với mục tiêu kinh tế - xã hội, bảo đảm cho nền kinh tế
quốc dân luôn phát triển bền vững, đạt tốc độ cao và ổn định.
* Tính dài hạn: Thể hiện ở việc xác định nhu cầu sử dụng đất để phát
triển kinh tế - xã hội lâu dài. Căn cứ vào các dự báo xu thế biến động dài hạn
của những yếu tố kinh tế xã hội quan trọng (sự thay đổi về nhân khẩu, tiến bộ


11


khoa học kỹ thuật, đô thị hoá công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp . . .),
từ đó xác định quy hoạch trung và dài hạn về sử dụng đất đai, đề ra các
phương hướng, chính sách và biện pháp có tính chiến lược, tạo căn cứ khoa
học cho việc xây dựng kế hoạch sử dụng đất hàng năm, 5 năm và lâu hơn nữa.
Quy hoạch dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu đất để phát triển lâu dài kinh tế - xã
hội. Cơ cấu và phương thức sử dụng đất được điều chỉnh từng bước trong thời
gian dài (cùng với phát triển dài hạn kinh tế - xã hội) cho đến khi đạt được
mục tiêu dự kiến. Thời hạn (xác định phương hướng, chính sách và sử dụng
đất để phát triển kinh tế và hoạt động xã hội) của quy hoạch sử dụng đất
thường từ trên 10 năm đến 20 năm hoặc lâu hơn.
* Tính chiến lược và chỉ đạo vĩ mô: Với đặc tính trung và dài hạn, quy
hoạch sử dụng đất đai chỉ dự kiến được các xu thế thay đổi phương hướng,
mục tiêu, cơ cấu và phân bố sử dụng đất (mang tính đại thể, không dự kiến
được các hình thức và nội dung cụ thể, chi tiết của sự thay đổi). Vì vậy, quy
hoạch sử dụng đất là quy hoạch mang tính chiến lược, các chỉ tiêu của quy
hoạch mang tính chỉ đạo vĩ mô, tính phương hướng và khái lược về sử dụng
đất của các ngành như:
- Phương hướng, mục tiêu và trọng điểm chiến lược của việc sử dụng
đất trong vùng;
- Cân đối nhu cầu sử dụng đất của các ngành;
- Điều chỉnh cơ cấu sử dụng đất và phân bổ đất đai trong vùng;
- Phân định ranh giới và các hình thức quản lý việc sử dụng đất đai trong
vùng;
- Đề xuất các biện pháp, các chính sách lớn để đạt được mục tiêu của
phương hướng sử dụng đất. Do khoảng thời gian dự báo là tương đối dài, chịu
ảnh hưởng của nhiều nhân tố kinh tế - xã hội khó xác định, nên chỉ tiêu quy

hoạch càng khái lược hoá, quy hoạch sẽ càng ổn định.

12


* Tính chính sách: Quy hoạch sử dụng đất thể hiện rất mạnh đặc tính
chính trị và chính sách xã hội. Khi xây dựng phương án phải quán triệt các
chính sách và quy định có liên quan đến đất đai của Đảng và Nhà nước, đảm
bảo thể hiện cụ thể trên mặt bằng đất đai các mục tiêu phát triển kinh tế quốc
dân, phát triển ổn định kế hoạch kinh tế - xã hội; Tuân thủ các quy định, chỉ
tiêu khống chế về dân số và môi trường sinh thái.
* Tính khả biến: Dưới sự tác động của nhiều nhân tố khó dự đoán
trước, theo nhiều phương diện khác nhau, quy hoạch sử dụng đất chỉ là một
trong những giải pháp biến đổi hiện trạng sử dụng đất sang trạng thái mới
thích hợp cho việc phát triển kinh tế trong thời kỳ nhất định. Khi xã hội phát
triển, khoa học kỹ thuật ngày càng tiến bộ, chính sách và tình hình kinh tế
thay đổi, các dự kiến của quy hoạch sử dụng đất không còn phù hợp. Việc
chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện quy hoạch và điều chỉnh biện pháp thực hiện là
cần thiết. Điều này thể hiện tính khả biến của quy hoạch. Quy hoạch sử dụng
đất luôn là quy hoạch động, một quá trình lặp lại theo chiều xoắn ốc “quy
hoạch - thực hiện - quy hoạch lại hoặc chỉnh lý - tiếp tục thực hiện . . .” với
chất lượng, mức độ hoàn thiện và tính phù hợp ngày càng cao
2.1.2. Những nguyên tắc của quy hoạch sử dụng đất.
Với những áp lực và thực trạng sử dụng đất đai hiện nay cho thấy nguồn
tài nguyên đất đai ngày càng khan hiếm và có giới hạn, dân số thế giới gia
tăng. Do đó, đòi hỏi phải có sự đối chiếu hợp lý giữa các kiểu sử dụng đất đai
và loại đất đai để đạt được khả năng tối đa về sản xuất ổn định và an toàn
lương thực, đồng thời cũng bảo vệ được hệ sinh thái cây trồng và môi trường
sống. Quy hoạch sử dụng đất đai là nền tảng cho quá trình này, thông qua quy
hoạch sử dụng đất, Nhà nước thực hiện chức năng phân phối và tái phân phối

quỹ đất nhằm đáp ứng nhu cầu về sử dụng đất cho các ngành, các đơn vị, cá
nhân sử dụng đất và điều chỉnh các mối quan hệ đất đai. Như vậy quy hoạch

13


sử dụng đất thực hiện đồng thời hai chức năng: điều chỉnh mối quan hệ đất
đai và tổ chức sử dụng đất như một tư liệu sản xuất đặc biệt được xây dựng
dựa trên những nguyên tắc sau:
Một là, Chấp hành quyền sở hữu Nhà nước về đất đai
Nguyên tắc này là cơ sở của mọi hoạt động và biện pháp liên quan tới
quyền sử dụng đất, là nguyên tắc quan trọng nhất trong hoạt động quy hoạch
sử dụng đất. Nó không chỉ mang tính ý nghĩa kinh tế, mà còn là một vấn đề
chính trị quan trọng, bởi vì tài nguyên đất đã được quốc hữu hoá là đối tượng
sở hữu Nhà nước, đồng thời là căn cứ quan trọng để phát triển sức sản xuất,
để củng cố và hoàn thiện phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là
nông nghiệp.
Luật pháp nhà nước tuyệt đối nghiêm cấm việc sử dụng đất không đúng
mục đích, bảo vệ quyền bất khả xâm phạm quyền sử dụng đất và tính ổn định
của mỗi đơn vị sử dụng đất, đó là cơ sở quan trọng nhất để phát triển sản xuất.
Theo quy định tại điều 5 của Luật đất đai năm 2003: đất đai thuộc sở hữu toàn
dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu. Quyền quản lý tập trung thống nhất
của Nhà nước được thể hiện theo luật pháp và thể hiện ở nhiều mặt như đại
diện chủ quyền quốc gia về lãnh thổ; quyền giao đất sử dụng ổn định lâu dài
cho các tổ chức, hộ gia đình cá nhân; quyền cho các tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước thuê đất; quyền quyết định mục đích sử dụng đất; quyền xác định
khung giá đất; quyền giám sát, xử lý các vi phạm pháp luật về đất đai. Để
thực hiện quyền quản lý tập trung, thống nhất của mình, Nhà nước phải nắm
và sử dụng tốt các công cụ quản lý cơ bản về quy hoạch sử dụng đất, công cụ
tài chính, pháp luật và các chính sách kinh tế khác.

Quy hoạch sử dụng đất còn có vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa
các hành vi xâm phạm sự toàn vẹn lãnh thổ của các đơn vị sử dụng đất. Khi
quy hoạch sử dụng đất, người ta đã thiết lập nên đường ranh giới giữa các đơn

14


vị sử dụng đất, giữa sản xuất nông nghiệp với khu dân cư, giữa các chủ sử
dụng đất với nhau, tức là đã xác định phạm vi quyền lợi của mỗi chủ sử dụng
đất. Nhà nước cho phép các chủ sử dụng đất có các quyền về sử dụng đất,
quyền sử dụng đất của các chủ sử dụng được xác nhận bằng các văn bản pháp
luật và được luật pháp Nhà nước bảo hộ. Mọi thay đổi trong cơ cấu đơn vị sử
dụng đất phải được phản ánh kịp thời trong các tài liệu thích hợp.
Hai là, sử dụng đất tiết kiệm, bảo vệ đất và bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên.
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, là điều kiện tồn tại cơ bản, gắn liền
với hoạt động của con người, của các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội của
Nhà nước, có vai trò quan trọng với con người. Đất đai có một đặc điểm rất
quan trọng là nếu được sử dụng đúng mục đích và hợp lý thì chất lượng ngày
càng tốt lên. Tính chất đặc biệt này của đất đòi hỏi chúng ta phải hết sức chú ý
trong việc sử dụng đất. Trong điều kiện diện tích đất đai có hạn, trong khi dân
số không ngừng tăng nhanh, gây áp lực lớn đối với việc sử dụng đất đai. Điều
này đòi hỏi việc sử dụng đất phải tiết kiệm và hiệu quả. Sử dụng đất tiết kiệm
nghĩa là phải bố trí hài hoà giữa nhu cầu sử dụng đất của các ngành, hạn chế
tối đa việc chuyển đất canh tác có hiệu quả cao sang sử dụng và các mục đích
phi nông nghiệp, đảm bảo an toàn lương thực quốc gia, thoả mãn nhu cầu
nông sản cho toàn xã hội và nguyên liệu cho công nghiệp, đồng thời cân đối
quỹ đất thích hợp với nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nâng
cao chất lượng đất và mở rộng diện tích.
Một trong những vấn đề bảo vệ đất quan trọng nhất là ngăn ngừa và dập

tắt các quá trình xói mòn do gió và nước gây nên. Đặc biệt đối với nước ta với
đặc điểm địa hình đồi núi chiếm tới 3/4 lãnh thổ, lại nằm ở vùng nhiệt đới,
mưa nhiều và tập trung, nhiệt độ không khí cao, các quá trình khoáng hoá
diễn ra mạnh trong đất nên dễ bị rửa trôi, xói mòn, nghèo chất hữu cơ và chất

15


dinh dưỡng dẫn đến suy thoái; quan trọng hơn nữa trong thời gian qua do nạn
chặt phá, đốt rừng diễn ra bừa bãi, sử dụng đất không bền vững làm cho nhiều
vùng đất bị thoái hoá ngày càng nghiêm trọng, nhiều nơi mất khả năng sản
xuất và xu hướng hoang mạc hoá ngày càng tăng. Những điều này có tác hại
rất lớn đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp, nếu chúng ta không có biện
pháp chống xói mòn một cách có hệ thống thì hậu quả ngày càng lớn. Xói
mòn sẽ làm mất đi lớp đất mặt mầu mỡ nhất. Khi tổ chức các biện pháp chống
xói mòn cần tính đến các đặc điểm địa hình, thổ nhưỡng, thuỷ văn của từng
vùng. Tổ hợp các biện pháp chống xói mòn sẽ được giải quyết trong một đồ
án quy hoạch có luận chứng khoa học.
Nhưng trong lĩnh vực bảo vệ đất, quy hoạch sử dụng đất không chỉ làm
nhiệm vụ chống xói mòn, mà còn phải chống các quá trình ô nhiễm đất, bảo
vệ các yếu tố của môi trường thiên nhiên.
Ô nhiễm môi trường là vấn đề đáng quan tâm của toàn xã hội. Đất có thể
bị ô nhiễm bởi chất thải công nghiệp, chất thải sinh hoạt, nước thải ra từ các
nhà máy và nước thải sinh hoạt từ các đô thị lớn, ô nhiễm bởi các chất phóng
xạ, bởi việc sử dụng quá mức các hoá chất bảo vệ thực vật độc hại và lạm
dụng phân hoá học. Trong các phương án quy hoạch sử dụng đất cần dự kiến
các biện pháp chống ô nhiễm một cách có hiệu quả.
Để tránh lãng phí, khi cấp đất cho các nhu cầu phi nông nghiệp, trong
các phương án quy hoạch sử dụng đất phải bố trí hợp lý các công trình nhà ở
và phục vụ sản xuất theo tinh thần tiết kiệm đất.

Ba là, tổ chức phân bổ quỹ đất cho các ngành đáp ứng mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội.
Khi phân bổ quỹ đất cho các ngành, cần bảo đảm nguyên tắc tổ chức sử
dụng tài nguyên đất vì lợi ích của nền kinh tế quốc dân nói chung và từng
ngành nói riêng, trong đó ưu tiên cho ngành nông nghiệp.

16


Sự phát triển của các ngành nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận
tải, xây dựng, thuỷ điện, dầu khí . . . đều đòi hỏi phải có đất. Việc bố trí các xí
nghiệp công nghiệp, các tuyến giao thông vận tải, các khu khai thác khoáng
sản và công trình xây dựng lớn thường được dự kiến trước trong kế hoạch
phát triển kinh tế quốc dân dài hạn, với tiêu chí: những khoanh đất giao cho
các nhu cầu phi nông nghiệp nên lấy từ đất chưa sử dụng hoặc đất sử dụng
kém hiệu quả trong nông nghiệp.
Khi giao đất cho các nhu cầu phi nông nghiệp, hầu như bao giờ cũng làm
thay đổi cơ cấu sử dụng đất của đơn vị bị mất đất. Do đó, khi xây dựng dự án
giao đất cần lưu ý để hoạt động sản xuất của các cơ sở đó không bị hoặc ít bị
ảnh hưởng nhất. Trong trường hợp, nếu việc giao đất cho nhu cầu phi nông
nghiệp làm cho cơ cấu sử dụng đất bị thay đổi nhiều, tổ chức lãnh thổ bên
trong bị đảo lộn thì phải quy hoạch lại toàn bộ hoặc một phần hoặc từng bộ
phận cho đơn vị sử dụng đất đó.
Khi đánh giá về mặt kinh tế những hậu quả do việc giao đất gây ra. Chủ
sử dụng đất bị mất đất có quyền đòi hỏi chủ được giao đất phải bồi thường
toàn bộ những khoản thiệt hại do việc thu hồi đất và giao đất gây ra và cả
những chi phí để quy hoạch lại. Việc bồi thường những khoản chi phí trên cho
chủ bị mất đất là nghĩa vụ và trách nhiệm của chủ được giao đất.
Bốn là, quy hoạch sử dụng đất phải tạo ra những điều kiện tổ chức lãnh
thổ hợp lý.

Quy hoạch sử dụng đất được tiến hành theo kế hoạch chung của Nhà
nước, của ngành và của từng đơn vị sử dụng đất cụ thể. Trên cơ sở đó có thể
áp dụng các hình thức quản lý kinh tế tiên tiến, ứng dụng các công nghệ mới,
các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, hiệu quả sử
dụng đất và sử dụng lao động.

17


Quy hoạch sử dụng đất phải nhằm mục đích tạo ra những điều kiện về tổ
chức lãnh thổ thúc đẩy các đơn vị sản xuất thực hiện đạt và vượt mức kế
hoạch Nhà nước giao. Khi quy hoạch sử dụng đất, người ta dự kiến phương
hướng sử dụng đất trong một thời gian dài.
Quy hoạch sử dụng đất phải có sự kết hợp hài hoà nhu cầu sử dụng đất
của các ngành, tổ chức lãnh thổ hợp lý mới giúp cho việc phát triển các ngành
cân đối theo chỉ tiêu và nhu cầu sử dụng đất đã định.
Năm là, phải phù hợp với điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội của vùng
lãnh thổ. Mỗi vùng, mỗi đơn vị sử dụng đất đều có những điểm khác biệt về
điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội nên phương án quy hoạch xây dựng phù
hợp cho từng vùng cũng khác nhau. Nếu không thì không thể tổ chức sử dụng
hợp lý đất đai.
Điều kiện tự nhiên là các yếu tố về khí hậu, điều kiện đất đai (địa hình,
thổ nhưỡng), khí hậu, ánh sáng, nguồn nước và các điều kiện khác đây là các
yếu tố cơ bản để xác định công dụng của đất đai, có ảnh hưởng trực tiếp, cụ
thể và sâu sắc nhất đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, trong thực
tiễn việc sử dụng đất cần tuân thủ quy luật tự nhiên, tận dụng các lợi thế nhằm
đạt hiệu ích cao nhất về kinh tế, xã hội và môi trường.[2]
Trong số các điều kiện kinh tế - xã hội phải kể đến các yếu tố như chế độ
xã hội, dân số, lao động, chính sách đất đai, sức sản xuất và trình độ phát triển
của kinh tế hàng hoá, cơ cấu kinh tế và phân bổ sản xuất, các điều kiện về

công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, giao thông vận tải . . . Căn cứ vào
yêu cầu của thị trường và xã hội, xác định mục đích sử dụng đất, kết hợp chặt
chẽ yêu cầu sử dụng đất với ưu thế tài nguyên thiên nhiên đất đai để đạt tới cơ
cấu tổng thể hợp lý nhất, với diện tích đất đai có hạn sẽ mang lại hiệu quả
kinh tế, hiệu quả xã hội ngày càng cao và sử dụng đất đai được bền vững.

18


2.1.3. Một số lý luận về sử dụng đất hợp lý
2.1.3.1. Đất đai và chức năng của đất đai
Định nghĩa đất đai theo Brinkman và Smyth (1976), về mặt địa lý mà nói
đất đai “là một vùng đất chuyên biệt trên bề mặt của trái đất có những đặc
tính mang tính ổn định, hay có chu kỳ dự đoán được trong khu vực sinh khí
quyển theo chiều thẳng từ trên xuống dưới, trong đó bao gồm: không khí, đất
và lớp địa chất, nước, quần thể thực vật và động vật và kết quả của những
hoạt động bởi con người trong việc sử dụng đất đai ở quá khứ, hiện tại và
trong tương lai”.
Đến năm 1993, trong Hội nghị quốc tế về môi trường ở Rio de janerio,
Brazinl, (1993), đất đai về mặt thuật ngữ khoa học được hiểu theo nghĩa rộng
được xác định đất đai là: “diện tích cụ thể của bề mặt trái đất, bao gồm tất cả
các cấu thành của môi trường sinh thái ngay trên và dưới bề mặt đó, bao gồm:
khí hậu bề mặt, thổ nhưỡng, dạng địa hình, mặt nước (hồ, sông, suối, đầm
lầy), các lớp trầm tích sát bề mặt, cùng với nước ngầm và khoáng sản trong
lòng đất, tập đoàn thực vật và động vật, trạng thái định cư của con người,
những kết quả của con người trong quá khứ và hiện tại để lại (san nền, hồ
chứa nước, hay hệ thống thoát nước, đường xá, nhà cửa . . .)
Như vậy, đất đai có thể gồm: Khí hậu, Đất, Nước, Địa hình/địa chất,
Thực vật, Động vật, Vị trí, Diện tích, Kết quả hoạt động của con người.
Theo định nghĩa về đất đai của Luật đất đai năm (2003) [8] thì: “Đất là

tài sản quốc gia, là tư liệu sản xuất chủ yếu, là đối tượng lao động đồng thời
cũng là sản phẩm lao động. Đất còn là vật mang của hệ sinh thái tự nhiên và
hệ sinh thái canh tác, đất là mặt bằng để phát triển nền kinh tế quốc dân.”
Theo FAO (1995), các chức năng của đất đai đối với hoạt động sản xuất
và tồn tại của xã hội loài người được thể hiện qua các mặt như sau: sản xuất,
môi trường sống, điều chỉnh khí hậu, cân bằng sinh thái, tồn trữ và cung cấp

19


nguồn nước, dự trữ (nguyên liệu, khoáng sản trong lòng đất); không gian sự
sống, bảo tồn, lịch sử; vật mang sự sống; phân vị lãnh thổ. Như vậy, có thể
khái quát. Đất đai là điều kiện chung nhất đối với mọi ngành sản xuất và hoạt
động của con người, vừa là đối tượng lao động (cho môi trường để tác động
như: xây dựng nhà xưởng, bố trí máy móc, làm đất . . .), vừa là phương tiện
lao động (cho công nhân nơi đứng, dùng để gieo trồng, nuôi gia súc . . .). Như
vậy, đất không phải là đối tượng của từng cá thể mà chúng ta đang sử dụng
coi là của mình, không chỉ thuộc về chúng ta. Đất là điều kiện vật chất cần
thiết để tồn tại và tái sản xuất các thế hệ tiếp nhau của loài người. Vì vậy
trong sử dụng đất cần làm cho đất tốt hơn cho các thế hệ mai sau (Tổng cục
Địa chính 1996).
Nhu cầu tăng trưởng kinh tế xã hội phát triển mạnh, cùng với sự bùng nổ
dân số đã làm cho mối quan hệ giữa con người và đất ngày càng căng thẳng,
những sai lầm liên tục của con người trong quá trình sử dụng đất (có ý thức
hoặc vô ý thức) dẫn đến huỷ hoại môi trường đất, một số chức năng nào đó
của đất bị yếu đi. Vấn đề sử dụng đất đai ngày càng trở nên quan trọng và
mang tính toàn cầu. Với sự phát triển không ngừng của sức sản xuất, chức
năng của đất đai cần được nâng cao theo hướng đa dạng nhiều tầng nấc, để
truyền lại cho các thế hệ mai sau.
Các chức năng của đất đai đối với hoạt động sản xuất và sinh tồn của xã

hội loài người theo Lê Quang Trí, được thể hiện ở các mặt sau:
- Chức năng sản xuất: Đất đai là nền tảng cho hệ thống hỗ trợ sự sống,
thông qua việc sản xuất sinh khối để cung cấp lương thực, thực phẩm chăn
nuôi, sợi, dầu, gỗ và các vật liệu sinh vật sống khác cho con người sử dụng,
một cách trực tiếp hay thông qua các vật nuôi như nuôi trồng thuỷ sản và
đánh bắt thuỷ sản vùng ven biển.

20


- Chức năng về môi trường sống: Đất đai là nền tảng của đa dạng hoá
sinh vật trong đất thông qua việc cung cấp môi trường sống cho sinh vật và
nơi dự trữ nguồn gen cho thực vật, động vật, và vi sinh vật, ở trên và bên dưới
bề mặt đất. - Chức năng điều hoà khí hậu: Đất đai và sử dụng đất đai là nguồn
và nơi chứa khí ga từ nhà kính hay hình thành một sự cân bằng năng lượng
toàn cầu giữa phản chiếu, hấp thu hay chuyển đổi năng lượng bức xạ mặt trời
và của chu kỳ thuỷ văn của toàn cầu.
- Chức năng trữ nước: Đất đai điều hoà sự tồn trữ và lưu thông của
nguồn tài nguyên nước mặt và nước ngầm, và những ảnh hưởng của chất
lượng nước. - Chức năng tồn trữ: đất đai là kho chứa các vật liệu và chất
khoáng thô cho việc sử dụng của con người.
- Chức năng kiểm soát chất thải và ô nhiếm: Đất đai có khả năng hấp
thụ, lọc, đệm và chuyển đổi những thành phần nguy hại.
- Chức năng không gian sống: Đất đai cung cấp nền tảng tự nhiên cho
việc xây dựng khu dân cư, nhà máy và các hoạt động xã hội như thể thao,
nghỉ ngơi. - Chức năng bảo tồn di tích lịch sử: Đất đai là nơi chứa đựng và
bảo vệ các chứng tích lịch sử văn hoá của loài người, và nguồn thông tin về
các điều kiện khí hậu và những sử dụng đất đai trong quá khứ.
- Chức năng nối liền không gian: Đất đai cung cấp không gian cho sự
vận chuyển của con người, đầu tư và sản xuất, và cho sự di chuyển của thực

vật, động vật giữa những vùng riêng biệt của hệ sinh thái tự nhiên.
Sự thích hợp của đất cho nhiều chức năng trên thể hiện rất khác nhau ở
mọi nơi trên thế giới. Các khu vực cảnh quan là khu vực tài nguyên thiên
nhiên, có động thái riêng của chúng. Nhưng con người lại có rất nhiều tác
động ảnh hưởng đến động thái này (kể cả không gian và thời gian). Có thể cải
thiện chất lượng của đất cho một hoặc nhiều chức năng, nói chung đất đã và
đang bị các hoạt động của con người gây thoái hoá.

21


Mức độ suy thoái đất đai có thể tiếp tục xảy ra hay cũng có thể gia tăng
thêm dưới điều kiện ảnh hưởng của con người trong việc thay đổi khí hậu
toàn cầu. Sự suy thoái đất có thể được kiểm soát, cải thiện tốt lên hay ngay cả
dự trữ cho các loại hình sử dụng khác nhau một cách rộng rãi, nếu như các
chức năng phải được chú ý, các mong ước điều lợi trước mắt ngắn hạn được
thau thế bằng các mong ước lợi nhuận lâu dài và bền vững ở các cấp từ toàn
cầu cho đến quốc gia và địa phương.
Sự suy thoái Đất đai đã và đang trầm trọng hơn ở những nơi sử dụng đất
đai không có quy hoạch, hay những lý do khác về pháp chế và tài chính làm
cho các quyết định sử dụng đất đai sai hay chỉ có quy hoạch một chiều từ
Trung ương xuống mà không có tham khảo ý kiến thực tế của địa phương đưa
đến việc khai thác quá độ nguồn tài._. nguyên. Hậu quả của các hành động
này là làm cho một số lớn người dân địa phương ngày càng gặp khó khăn
trong cuộc sống và đồng thời cũng phá huỷ dần hệ sinh thái có giá trị. Như
thế, những phương pháp hạn hẹp cần phải được thay thế bằng một kỹ thuật
mới trong quy hoạch và quản lý nguồn tài nguyên đất đai, đó là tổng hợp hay
tổng thể và đặt người sử dụng đất đai là trung tâm. Điều này sẽ bảo đảm chất
lượng lâu dài của đất đai cho con người sử dụng, hạn chế hay có những giải
pháp cho các mẫu chuẩn về mặt xã hội liên quan đến sử dụng đất đai và bảo

vệ hệ sinh thái có các giá trị đa dạng sinh học cao.
2.1.3.2. Những lợi ích khác nhau về sử dụng đất
Đất đai là điều kiện chung nhất (khoảng không gian lãnh thổ cần thiết)
đối với mọi quá trình sản xuất trong các ngành kinh tế quốc dân và hoạt động
của con người. Điều này có nghĩa - thiếu khoảnh đất (vị trí, hình thể, quy mô,
diện tích và yêu cầu về chất lượng nhất định) thì không một ngành nào, một xí
nghiệp nào có thể bắt đầu công việc và hoạt động được. Nói khác đi – không

22


có đất sẽ không có sản xuất cũng như không có sự tồn tại của chính con
người.
- Lợi ích của việc sử dụng đất trong các ngành phi nông nghiệp: Trong
các ngành phi nông nghiệp, đất đai giữ vai trò thụ động với chức năng là cơ
sở không gian và vị trí để hoàn thiện quá trình lao động, là kho tàng dự trữ
trong lòng đất (các ngành khai thác khoáng sản). Quá trình sản xuất và sản
phẩm được tạo ra không phụ thuộc vào đặc điểm, độ phì nhiêu của đất, chất
lượng thảm thực vật và tính chất tự nhiên sẵn có trong đất.
- Lợi ích của việc sử dụng đất trong ngành nông nghiệp – lâm nghiệp:
Đất giữ vai trò tích cực trong quá trình sản xuất, là điều kiện vật chất, cơ sở
không gian, đồng thời là đối tượng lao động (luôn chịu sự tác động trong quá
trình sản xuất) và là công cụ hay phương tiện hoạt động (sử dụng đất để trồng
trọt, chăn nuôi . . . ). Quá trình sản xuất nông – lâm nghiệp luôn liên quan chặt
chẽ với độ phì nhiêu và quá trình sinh học tự nhiên trong đất.
Lợi ích của việc sử dụng đất rất đa dạng, song có thể chia thành ba nhóm
lợi ích cơ bản sau:
+ Sử dụng đất làm tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt để thoả mãn nhu
cầu sinh tồn và phát triển của con người;
+ Dùng đất làm cơ sở sản xuất và môi trường hoạt động;

+ Cung cấp không gian môi trường cảnh quan mỹ học cho việc hưởng
thụ tinh thần.
2.1.3.3. Sử dụng đất và các mục tiêu kinh tế - xã hội, môi trường
Những năm gần đây, sự bùng nổ dân số cùng với sự phát triển như vũ
bão của khoa học công nghệ đã kéo theo nhu cầu của con người ngày càng
cao. Để đáp ứng nhu cầu trên, con người đã áp dụng những thành tựu, tiến bộ
khoa học và sử dụng đất nhằm khai thác triệt để, nâng cao hiệu quả sử dụng
đất, nhằm đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm và các điều kiện tồn tại và

23


phát triển của loài người. Điều này đòi hỏi việc sử dụng đất phải đảm bảo như
một thể thống nhất tạo ra điều kiện để giảm thiểu những xung đột, tạo hiệu
quả sử dụng cao và liên kết được sự phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi
trường. Sử dụng đất hợp lý, bền vững là hài hoà các mục tiêu kinh tế - xã hội,
môi trường.
Trong quá trình sử dụng đất trước hết bao giờ cũng gắn với mục tiên
kinh tế, những mục tiêu kinh tế trong sử dụng đất giữa chủ sử dụng thực tế và
cộng đồng lớn hơn có lúc trùng nhau và có lúc không trùng nhau.
Trong sản xuất nông nghiệp việc sử dụng đất của các hộ dân là nhằm
làm ra sản phẩm để bán hoặc tự tiêu dùng, họ luôn cố gắng tìm ra phương
thức canh tác, chăm sóc để nâng cao tối đa hiệu quả sản xuất: năng suất, sản
lượng và chất lượng sản phẩm cây trồng; đồng thời áp dụng khoa học kỹ thuật
tiên tiến vào các khâu chăm sóc, canh tác, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật . . .
nên hệ số sử dụng đất và năng suất cây trồng không ngừng tăng lên.
Bên cạnh những tín hiệu đáng mừng về chỉ số kinh tế, nền nông nghiệp
nước ta đang phải đối mặt với những thử thách về xã hội và môi trường. Do
diện tích rừng bị chặt phá, đốt nương làm rãy nhưng thiếu các biện pháp kiểm
soát xói mòn dẫn đến suy thoái độ phì. Đồng thời, do đầu tư phân bón, kỹ

thuật không hợp lý và khai thác nước ngầm quá mức . . . gây ra những hậu
quả xấu về môi trường, ô nhiễm đất, ảnh hưởng đến việc sử dụng đất bền
vững và gặp khó khăn trong vấn đề kiểm soát sâu bệnh, mất các nguồn gen
quý, một số động vật, thực vật quý hiếm bị tuyệt chủng.
Quá trình đô thị hoá, công nghiệp đang diễn ra mạnh mẽ đòi hỏi một quỹ
đất rất lớn để đáp ứng cho các nhu cầu này. Rất nhiều diện tích đất chuyên
trồng lúa, đất có ưu thế sản xuất nông nghiệp đã được sử dụng để xây dựng
các khu công nghiệp, khu chế xuất đã làm mất đi ngày càng nhiều đất mầu mỡ
trồng cây lương thực. Một bộ phân không nhỏ nông dân đã không còn đất để

24


canh tác, gây ra thất nghiệp và các tệ nạn xã hội gia tăng, môi trường bị ô
nhiễm do các chất thải đô thị, công nghiệp. Do vậy, quá trình sử dụng đất luôn
phải đảm bảo hài hoà ba mục tiêu kinh tế, xã hội, môi trường. Có như vậy sử
dụng đất mới đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả, và bền vững.
2.2. Tình hình quy hoạch và thực hiện quy hoạch ở nước ngoài
Quy hoạch sử dụng đất luôn có vị trí quan trọng trong thực hiện công tác
quản lý đất đai của mỗi quốc gia và được tiến hành từ nhiều năm trước đây.
Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào điều kiện của mỗi nước mà phương pháp và quan
điểm quy hoạch sử dụng đất có đặc thù khác nhau và quá trình thực hiện cũng
vậy.
Ở các quốc gia phát triển như Đức, Mỹ quy hoạch sử dụng đất luôn gắn
liền với việc giải quyết các yêu cầu về môi trường, đảm bảo sử dụng đất hiệu
quả bền vững. Vì vậy, quy hoạch sử dụng đất tại các nước này có tính khả thi
cao. Những nguyên tắc về sử dụng đất được thông qua ở thành phố NewYork
từ năm 1916 đến những năm 30 và hầu hết các Bang của nước Mỹ tuân thủ
theo nguyên tắc này. Đến những năm 70, các Bang ngày gặp phải một số vấn
đề về môi trường và sự bảo tồn các di tích lịch sử nên đòi hỏi phải có những

nguyên tắc và tầm nhìn xa hơn. Từ đòi hỏi trên, Luật đất đai mới của Mỹ đã
hình thành hệ thống quy hoạch sử dụng đất mới.
Ở Pháp, quy hoạch sử dụng đất được xây dựng theo hình thức mô hình
hoá nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao trong việc sử dụng tài nguyên, môi trường
và lao động, áp dụng bài toán quy hoạch tuyến tính có cấu trúc sản xuất hợp
lý, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Ở Campuchia, do nền kinh tế kém phát triển, có xuất phát diểm thấp,
tình hình chính trị rối loạn, nhiều nhà khoa học đã bị giết, nên trước những
năm 2000, công tác quản lý đất đai chưa được quan tâm, chưa hình thành
được hệ thống Luật đất đai và quy hoạch sử dụng đất. Đến năm 2000, Bộ quy

25


×