Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

Hình phạt tử hình trong BLHSVN lý luận và thực tiễn trên địa bàn tỉnh gia lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (988.54 KB, 48 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
------------------

NIÊN LUẬN
HÌNH PHẠT TỬ HÌNH TRONG BỘ LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM - LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TẠI
ĐỊA BÀN TỈNH GIA LAI TỪ NĂM 2011 – 2014

Họ và tên sinh viên: NGUYỄN THỊ NHI

Huế, 03/2016
1


ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
------------------

NIÊN LUẬN
KHÓA 37
HÌNH PHẠT TỬ HÌNH TRONG BỘ LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM - LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TẠI
ĐỊA BÀN TỈNH GIA LAI TỪ NĂM 2011 – 2014

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
TH.S TRẦN VĂN HẢI

SINH VIÊN THỰC HIỆN
NGUYỄN THỊ NHI
MSSV: 13A5011257


LỚP: LUẬT K37E

Huế, 03/2016

2


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài niên luận này, trước tiên tôi xin chân thành cảm ơn
quý thầy, cô giáo trường Đại học Luật - Đại học Huế đã dìu dắt tôi trong
suốt thời gian vừa qua. Đặc biệt, tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến thầy
giáo Trần Văn Hải đã quan tâm, hướng dẫn, chỉ bảo nhiệt tình, giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình làm bài niên luận này.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới các cô chú, anh chị trong Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Gia Lai đã hết lòng giúp đỡ tôi thu thập tài liệu phục vụ
cho bài niên luận.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên và giúp đỡ tôi
hoàn thành bài niên luận này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc tìm tòi, nghiên cứu, tuy nhiên
vấn đề thời gian, phạm vi nghiêm cứu, khó khăn trong quá trình thu thập,
phân tích, xử lý số liệu cũng như còn hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm nên
còn nhiều thiếu sót và mang màu sắc cá nhân. Do đó, rất mong nhận được ý
kiến đóng góp của quý thầy cô, bạn bè, những người quan tâm đến đề tài này
để kịp thời bổ sung, nghiên cứu trong thời gian tới để bài niên niên luận được
hoàn thiện hơn.

3


MỤC LỤC


4


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS: Bộ luật hình sự
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
SL: Sắc lệnh

5


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tội phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực có tính nguy hiểm cao cho
xã hội, mang tính lịch sử và bản chất giai cấp sâu sắc. Đấu tranh phòng chống
tội phạm, ổn định trật tự xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân là nhiệm vụ quan trọng và cơ bản nhất của mọi nhà nước trong bất cứ xã
hội nào. Một trong những công cụ hữu hiệu nhất mà Nhà nước thực hiện
nhiệm vụ đó là hình phạt. C.Mác đã từng viết: “Hình phạt chẳng qua là thủ
đoạn tự vệ của xã hội với những hành vi vi phạm những điều kiện tồn tại xã
hội đó”. Tội phạm xảy ra trong xã hội rất khác nhau về tính chất và mức độ
nguy hiểm xã hội của hành vi, do đó đòi hỏi nhà làm luật phải quy định nhiều
loại hình phạt khác nhau phù hợp với từng hoàn cảnh phạm tội. Trong đó,
hình phạt tử hình được xem là hình phạt nghiêm khắc nhất.
Hình phạt tử hình được quy định khá sớm trong pháp luật Việt Nam,
theo thời gian cùng với sự phát triển của xã hội, các nhà làm luật đã dần hoàn
thiện chế tài phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Tuy nhiên, việc áp dụng pháp
luật vào thực tiễn lại là vấn đề khó khăn và còn nhiều bất cập, chính vì vậy
hiệu quả áp dụng chưa thật tương xứng với vị trí và vai trò của hình phạt tử

hình trong hệ thống hình phạt. Theo BLHS năm 1999 chưa được sửa đổi bổ
sung thì trong tổng số 267 Điều có 30 Điều quy định hình phạt tử hình, chính
sách hình sự về hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên, phụ nữ có
thai vẫn tiếp tục được kế thừa. Sau 12 năm thực hiện BLHS 1999, Luật sửa
đổi bổ sung năm 2009 được ban hành có hiệu lực từ ngày 1/1/2010 đã có
những bước tiến quan trọng về việc quy định hình phạt. Theo đó, số tội có
khung cao nhất là tử hình đã giảm xuống, bỏ hình phạt tử hình ở 8 Điều (gồm:
Điều 111;139;152;180;197;221;289;334), còn 22 Điều. Việc bỏ đi một số tội
có hình phạt tử hình là hoàn toàn phù hợp, thể hiện tính nhân đạo của nhà
nước cho họ một con đường hoàn lương. Mặt khác việc vẫn còn tiếp tục duy

6


trì hình phạt tử hình ở những tội khác nhằm trừng phạt thích đáng, răn đe
những tội phạm khác.
Trong khi đó, Hội nghị thế giới bãi bỏ án tử hình lần 5 khai mạc tại
Madrid, Tây Ban Nha. Quy tụ 1500 đại biểu từ 90 nước, sự kiện do Hiệp hội
cùng nhau bãi bỏ án tử hình (ECPM) tổ chức thống kê có trên 105 nước đã
bãi bỏ hình phạt tử hình, điển hình như các nước: Tây Ban Nha, Nauy, Thụy
Sỹ, Pháp... do đó có nhiều quan điểm cho rằng nên bỏ hình phạt tử hình, một
số khác vẫn giữ nguyên quan điểm hình phạt tử hình là biện pháp răn đe hữu
hiệu nhất nên cần phải được duy trì. Hai quan điểm trái chiều nhau này luôn
đưa ra được những lý lẽ sắc bén để bảo vệ cho quan điểm của mình và khẳng
định nó đúng đắn, điều quan trọng là có cả những nhà nghiên cứu danh tiếng
cũng bất đồng quan điểm khi bàn luận về vấn đề hình phạt tử hình trong giai
đoạn hiện nay.
Tùy vào tình hình kinh tế - xã hội của từng đơn vị hành chính mà việc áp
dụng hình phạt tử hình có diễn biến khác nhau, cơ chế áp dụng cũng như hiệu
quả khác nhau. Trong đó, Tây Nguyên được xem là vùng có nền kinh tế đang

phát triển mạnh ở một số lĩnh vực nông nghiệp, nhưng mặt trái của sự phát
triển đó làm gia tăng tình hình tội phạm ở nhiều địa bàn làm ảnh hưởng không
nhỏ tới đời sống xã hội tại địa phương nói riêng và cả nước nói chung.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “ Hình phạt tử hình trong Bộ luật Hình
sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn tại địa bàn tỉnh Gia Lai từ năm 2011 2014 “ là cần thiết, không những về mặt lý luận, mà còn để làm rõ vấn đề
thực tiễn áp dụng và giúp việc nghiên cứu tập trung.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu


Mục đích nghiên cứu:
- Làm sáng tỏ nguyên nhân, điều kiện hình thành, cơ sở khoa học, cơ sở
thực tiễn, xu hướng của việc áp dụng hình phạt tử hình.
- Tìm hiểu quy định pháp luật về hình phạt tử hình của nhà nước ta trong
từng giai đoạn cụ thể.

7


- Đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật
cũng như khắc phục hạn chế của thực tiễn áp dụng.



Nhiệm vụ nghiên cứu
Về mặt lý luận
- Phân tích khái niệm, bản chất, đặc điểm, mục đích và ý nghĩa của hình
phạt tử hình.
- Phân tích làm rõ lịch sử lập pháp về hình phạt tử hình trong pháp luật
hình sự Việt Nam.
- Nghiên cứu, làm rõ quy định của pháp luật hiện hành tại Việt Nam.

- Đưa ra quan điểm về việc xóa bỏ hay tiếp tục duy trì hình phạt tử hình
trong hệ thống hình phạt của pháp luật hình sự Việt Nam.



Về mặt thực tiễn
- Phân tích thực tiễn áp dụng hình phạt tử hình trên địa bàn tỉnh Gia Lai.
- Đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện chế định hình phạt tử hình trong
luật hình sự Việt Nam và khắc phục khó khăn khi áp dụng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu



Đối tượng nghiên cứu
Về lý luận: quy định của pháp luật hình sự về hình phạt tử hình.
Về thực tiễn: thực tiễn áp dụng pháp luật về hình phạt tử hình trên địa
bàn tỉnh Gia Lai.



Phạm vi nghiên cứu
Vấn đề này được nghiên cứu trên cơ sở những quy định của BLHS1999
sửa đổi, bổ sung năm 2009 và có sự so sánh đối chiếu với BLHS năm 1985
cũng như pháp luật hình sự về hình phạt tử hình ở các thời đại trước đó. Với
phạm vi cho phép cuả bài niên luận tôi cũng lồng ghép một số vấn đề trong
BLHS 2015 được thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015, có hiệu lực thi hành
từ ngày 01 tháng 7 năm 2016.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành niên luận tôi sử dụng một số phương pháp cơ bản




sau:
Phương pháp luận là quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
8





Phương pháp thống kê, tổng hợp
Phương pháp so sánh, chứng minh
Ngoài ra còn sử dụng phương pháp khác.
5. Kết cấu của niên luận
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, bảng viết tắt,
niên luận gồm 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật hình sự về
hình phạt tử hình.
Chương 2: Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
hình phạt tử hình tại địa bàn tỉnh Gia Lai.

9


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ HÌNH PHẠT TỬ HÌNH
1.1. Lý luận chung về hình phạt tử hình theo pháp luật hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của hình phạt tử hình
1.1.1.1. Khái niệm về hình phạt tử hình

Tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất do Nhà nước áp dụng đối với
người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng để loại trừ vĩnh viễn người đó ra khỏi đời
sống xã hội. Quan niệm thế nào là đặc biệt nghiệm trọng và khi nào thì cần áp
dụng hình phạt tử hình ở các nước là không giống nhau. Trong tiếng Anh hình
phạt được gọi là “death penalty” - hình phạt chết người, hoặc gọi là “capital
punishment” - là một hình phạt mà khi áp dụng, người bị áp dụng sẽ bị mất
đầu. Trong tiếng Pháp hình phạt này có tên “peine de mort”, tất cả đều có nghĩa
là chết. Theo từ điển tiếng Việt thì tử hình là: “ phạm tội chết, tòa tuyên án tử
hình cho kẻ sát nhân”. Còn theo từ điển luật học thì tử hình là: “hình phạt đặc
biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng”.
Trong luật hình sự các nước theo hệ thống pháp luật Ănglo-sắcxông,
hình phạt tử hình được định nghĩa là tước đi mạng sống của người phạm tội,
được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Tội phạm
nghiêm trọng ở đây nhằm ám chỉ những tội như phản bội tổ quốc, khủng bố,
giết người... đây là những tội gây nguy hại lớn cho xã hội, cho không riêng gì
một nước mà còn có ảnh hưởng mạnh mẽ đến toàn cầu mà không có một hình
phạt nào khác có thể thay thế cho tương xứng với mức độ nguy hiểm của nó.
Tại Điều 35 BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định: “tử
hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm
trọng”. Trước hết, luật khẳng định tử hình là hình phạt đặc biệt. Vậy tính đặc
biệt của hình phạt được thể hiện như thế nào? Ta có thể nhận thấy rằng trong
số rất nhiều hình phạt bao gồm: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ,
trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
10


hành nghề hoặc làm công việc nhất định... thì tử hình là loại hình phạt có nội
dung cưỡng chế nghiêm khắc nhất. Tính nghiêm khắc của hình phạt này thể
hiện ở việc tước bỏ quyền được sống của người phạm tội nhằm loại trừ họ ra
khỏi đời sống xã hội vì xét thấy người phạm tội không còn khả năng cải tạo,

giáo dục và vì việc cần thiết của việc phòng ngừa chung. Điều khác cơ bản
giữa hình phạt tử hình với các loại hình phạt cụ thể khác là người bị áp dụng
bị tước đoạt mọi quyền cơ bản nhất, kể cả quyền sống trong khi những hình
phạt cụ thể khác người phạm tội chỉ bị tước đoạt một số quyền trong một
khoảng thời gian nhất định. Do đó, hình phạt tử hình chỉ được áp dụng khi
thật cần thiết và là sự lựa chọn cuối cùng khi Tòa án xét thấy không thể áp
dụng hình phạt khác được quy định trong chế tài vì tính chất của tội phạm.
Tóm lại, tử hình là hình phạt đặc biệt, có nội dung cưỡng chế nghiêm
khắc nhất trong hệ thống hình phạt vì đã tước bỏ quyền sống của người bị kết
án, tử hình chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
1.1.1.2. Đặc điểm của hình phạt tử hình
Là một loại hình phạt trong hệ thống các hình phạt nên hình phạt tử hình
cũng như những loại hình phạt khác có những đặc điểm chung như: là biện
pháp cưỡng chế của nhà nước; được quy định trong pháp luật hình sự; được
tòa án áp dụng theo một trình tự tố tụng chặt chẽ, công bằng đối với người bị
kết án.Tuy nhiên, cũng có một số đặc điểm riêng:
Thứ nhất, tử hình là một hình phạt đặc biệt, hình phạt nghiêm khắc nhất
trong hệ thống hình phạt.
Người bị kết án tử hình sẽ bị tước đi quyền thiêng liêng nhất, đó chính là
quyền được sống. Xét một cách chính xác hay đơn giản thì cũng không có
một hình phạt nào khác nghiêm khắc hơn hình phạt tử hình, sự tàn khốc và
triệt tiêu mọi thứ quyền của con người làm cho hình phạt tử hình là loại hình
phạt rất ít khi được áp dụng. Nó chỉ được sử dụng trong trường hợp thật cần
thiết, và luôn luôn là sự lựa chọn cuối cùng khi xét thấy người bị kết án không
còn có khả năng cải tạo nữa.

11


Thứ hai, tử hình là hình phạt tước bỏ hoàn toàn khả năng tái phạm đồng

thời không thể khắc phục được hậu quả của người phạm tội.
Do tính chất loại bỏ vĩnh viễn người bị phạm tội ra khỏi đời sống xã hội,
trong đó bao gồm cả việc loại bỏ hoàn toàn khả năng tiếp tục phạm tội. Chính
vì vậy, khi bị kết án tử hình, người phạm tội cũng đồng thời bị tước đi tất cả
cơ hội ăn năn, hối cải, hoàn lương. Mọi khả năng khác cũng kéo theo đó mà
không thể tiếp tục tiếp diễn. Bởi, có quyền sống có thể có tất cả mọi quyền
nhưng mất đi quyền sống thì con người mất đi mọi quyền trong xã hội.
Thứ ba, hình phạt tử hình là hình phạt có tính chất không thay đổi và
không hàm chứa nội dung cải tạo người phạm tội.
Khi áp dụng hình phạt tử hình thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền đều
dựa vào quy định của pháp luật để lý luận rằng xét thấy người bị kết án không
còn khả năng cải tạo cần phải loại trừ vĩnh viễn ra khỏi đời sống xã hội. Dó đó,
hình phạt tử hình mang tính răn đe xã hội mạnh mẽ nhưng lại không hàm chứa
nội dung cải tạo đối với người bị kết án, họ không còn cơ hội nữa. Bởi khi bị
kết án tử họ không còn cơ hội sống nữa để cải tạo bản thân. Xuất phát từ điểm
này chúng ta có thể thấy luôn có tính chất không thay đổi. Đây là một đặc tính
rất cơ bản của hình phạt tử hình. Có thể lý giải điều này như sau: giả sử đối với
người phạm tội đang bị kết án tù thì trong quá trình chấp hành hình phạt tù nếu
phát hiện oan sai thì có thể được trả tự do còn riêng đối với hình phạt tử hình
thì, khi bản án tử đã được áp dụng thì dù có phát hiện được oan sai thì cũng
không thể thay đổi được tính chất...không thể làm cho họ sống lại được.
Thứ tư, hạn chế tối đa khả năng áp dụng hình phạt tử hình.
BLHS sửa đổi không những quy định rõ ràng khi nào được áp dụng hình
phạt tử hình trong khái niệm cũng như trong từng tội danh chứa đựng khung
hình phạt tử hình mà còn quy định những trường hợp không áp dụng hình
phạt tử hình. Theo đó pháp luật nghiêm cấm áp dụng hình phạt này đối với
người chưa thành niên phạm tội, phụ nữ có thai hoặc phụ nữ nuôi con dưới 36
tháng tuổi, trong trường hợp này hình phạt tử hình chuyển thành hình phạt
chung thân (Điều 35).
12



Thứ năm, đây là hình phạt duy nhất mà người bị kết án có quyền gửi đơn
ân giảm lên Chủ tịch nước trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực.
Nếu được Chủ tịch nước chấp thuận thì án tử hình chuyển thành tù chung thân.
1.1.1.3. Mục đích của hình phạt tử hình
Việc áp dụng hình phạt tử hình mang tính phòng ngừa chung, có tính răn
đe cao đối với toàn xã hội nhưng lại không mang tính cải tạo, giáo dục người
bị kết án tử hình. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa trái với nguyên tắc nhân
đạo của pháp luật hình sự mà ở đây cần thấy rằng tính nhân đạo được tập
trung thể hiện một cách triệt để khía cạnh xã hội, tức là phòng ngừa và răn đe
tội phạm.
Tử hình cũng có mục đích phòng ngừa riêng là nhằm loại bỏ khả năng
tái phạm một cách triệt để từ phía người bị kết án.
1.1.1.4. Ý nghĩa của hình phạt tử hình
Hình phạt tử hình có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với xã hội, nó góp
phần đa dạng hóa các biện pháp xử lý hình sự trong hoạt động đấu tranh phòng
chống tội phạm. Thực tiễn áp dụng hình phạt trong những năm gần đây cho
thấy việc áp dụng hình phạt này không chỉ trừng trị thích đáng tội ác của người
bị kết án mà nó còn răn đe mạnh mẽ và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.
1.1.2. Khái quát lịch sử lập pháp về hình phạt tử hình trong pháp luật
hình sự Việt Nam
1.1.2.1. Quy định của pháp luật về hình phạt tử hình ở thời đại phong
kiến
Như chúng ta đã biết, xã hội loài người trải qua năm hình thái kinh tế:
công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản, xã hội chủ nghĩa.
Trong đó, hình thái kinh tế phong kiến là hình thái kéo dài và có ảnh hưởng
rất lớn đối với nhận thức cũng như pháp luật về sau. Pháp luật phong kiến
Việt Nam ra đời, ngay lập tức thể hiện quyền năng và sự thống trị cay nghiệt
của mình. Nó như một cánh tay đắc lực giúp vua chúa phong kiến trong việc

điều hành và quản lý đất nước. Nói về pháp luật thời kỳ này chúng ta phải đề
cập đến những bộ luật như: Hình Thư ở triều Lý, Quốc Triều Hình Luật (Bộ
13


luật Hồng Đức) ở triều Lê, Hoàng Việt Luật Lệ (Bộ luật Gia long) ở triều
Nguyễn. Những bộ luật thời kỳ này còn khá sơ khai và chưa có những quy
định cụ thể và rõ ràng. Tuy nhiên, nó cũng có vai trò rất quan trọng giúp trị vì
đất nước. Trong đó đóng góp và có ảnh hướng lớn nhất có lẽ là 2 Bộ luật của
triều Lê và triều Nguyễn.
Bộ luật Hồng Đức chia hình phạt thành ngũ hình gồm: xuy, trượng, đồ,
lưu và hình phạt nghiêm khắc nhất đó là tử (tội chết) được áp dụng độc lập,




chia làm ba bậc tùy theo mức độ nặng nhẹ:
Bậc thứ nhất: thắt cổ (giảo), chém (trảm)
Bậc thứ hai: chém bêu đầu (trảm khiêu)
Bậc thứ ba: lăng trì (tùng xẻo).
Theo Điều 411 Bộ luật Hồng Đức: “Những kẻ mưu làm phản, mưu làm
việc đại nghịch thì xử tội chém bêu đầu” và quy định tội thập ác không được
giảm theo chế độ bát nghị, không được chuộc bằng tiền, không được hưởng
đặc xá, đại xá...
Thập ác bao gồm:
1. Mưu phản: lật đổ cai trị của nhà vua, làm sụp đổ xã tắc.
2. Mưu đại nghịch: phá đền đài, lăng tẩm, cung điện nhà vua.
3. Mưu bạn: phản bội tổ quốc theo giặc.
4. Ác nghịch: mưu giết hoặc đánh ông bà, cha mẹ, tôn thuộc.
5. Bất đạo: vô cớ giết người, cắt tay chân người sống, chế thuốc độc, bùa

mê, tàn ác, hung đạo.
6. Đại bất kính: lấy trộm các đồ cúng trong lăng tẩm, các vật dụng của
vua, làm giả ấn vua.
7. Bất hiếu: cáo giác hoặc chửi rủa ông bà, cha mẹ hay ông bà, cha mẹ
chồng. Không phụng dưỡng cha mẹ, tự ý bỏ nhà, tự ý phân chia tài sản, cưới
xin khi có tang cha mẹ, vui chơi trong khi tang lễ, được tin cha mẹ, ông bà
chết mà không chịu tang hoặc phát tang giả dối.
8. Bất mục: mưu giết hay bán các thân thuộc (cho đến ngũ đại), đánh
hoặc cáo giác chồng hay các tôn thuộc (cho đến tam đại).
9. Bất nghĩa: dân giết quan sở tại, lính tốt giết quan chỉ huy, học trò giết
thầy dạy, vợ không để tang chồng, ăn chơi và tái giá.
10. Nổi loạn: tức là tội loạn luân (thông dâm với thân thuộc hay với các
thiếp của cha, ông).
Bộ luật Gia Long là bộ luật chính thức của Việt Nam thời kỳ đầu nhà
Nguyễn được ban hành năm 1815 gồm 22 quyển và 398 Điều. Bộ luật cũng
14


một lần nữa khẳng định hình phạt nghiêm khắc nhất đó là tử (hình phạt chết)




tại Điều 1 Bộ luật Gia Long có ba bậc:
Bậc thứ nhất: giảo (thắt cổ), trảm (chém đầu)
Bậc thứ hai: khiêu (chém bêu đầu)
Bậc thứ ba: lăng trì (tùng xẻo). Hình phạt này cũng được áp dụng đối với tội thập
ác nhưng phạm vi tương đối hẹp hơn so với Bộ luật Hồng Đức, cụ thể:
1. Mưu phản: làm nguy xã tắc
2. Mưu đại nghịch: làm nguy tông miếu, cung khuyết

3. Mưu bạn nghịch, nổi loạn theo giặc
4. Ác nghịch: đánh chết ông bà, cha mẹ
5. Bất đạo: giết người vô tội
6. Đại bất kính: dùng những đồ dành riêng cho vua, trộm và giả mạo ấn vua
7. Bất hiếu: đánh, mắng, chửi hoặc không để tang ông bà, cha mẹ
8. Bất mục: đánh, giết những người thân thuộc
9. Bất nghĩa: dân giết quân, trò giết thầy, lính giết tướng
10. Nổi loạn: thông dâm với họ hàng thân thiết, thiếp của ông, cha
1.1.2.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về hình phạt tử hình giai đoạn
1945-1975
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ra đời đã mở ra trang mới cho toàn dân tộc. Đánh dấu một chặng
đường mới với nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là bảo vệ chính quyền còn non
trẻ trước những thế lực bạo động, phản nghịch và tiếp tục cuộc kháng chiến
chống lại thế lực thực dân Pháp đưa dân tộc đi đến thắng lợi cuối cùng, tới
độc lập hoàn toàn. Từ đó đặt ra yêu cầu nhà nước ta phải xây dựng hệ thống
pháp luật đủ mạnh, đặc biệt là pháp luật hình sự để chấn át các thế lực phản
động trong và ngoài nước. Đến giai đoạn 1954-1975 pháp luật hình sự gắn
liền với nhiệm vụ bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, trật tự xã hội mới, bảo vệ
chế độ kinh tế XHCN, trừng trị bọn phản cách mạng, đặc biệt là bọn gián điệp
tay sai mỹ ngụy, phá hoại sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước của dân
tộc ta.
Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà nước đã ban hành Hiến
pháp năm 1946 ghi nhận chế độ XHCN, các nguyên tắc pháp lý của nền dân
chủ nhân dân... trên cơ sở đó một loạt các văn bản hình sự ra đời như: SL số
27 SL ngày 28/02/1946 quy định trừng trị hành vi bắt cóc, tống tiền và ám

15



sát; SL số 223 SL ngày 17/11/1946 về trừng trị việc hối lộ; SL số 61 SL ngày
5/7/1947 cấm xuất khẩu cảng tư bản...
Ngoài ra, giai đoạn này nhà nước ta cũng ban hành nhiều văn bản pháp
luật quy định về hình phạt đối với các loại tội phá hoại tiền tệ, phá hoại giá trị
bạc Việt Nam như: SL số 150 SL ngày 20/12/1995 hay SL số 01 SL ngày
19/04/1957 cấm mọi hành vi đầu cơ kinh tế. Đặc biệt, giai đoạn này Ủy ban
thường vụ nước ta còn ban hành 4 pháp lệnh quan trọng: Pháp lệnh ngày
30/07/1967 trừng trị tội phản cách mạng; Pháp lệnh ngày 21/10/1970 trừng trị
các tội phạm xâm phạm tài sản XHCN; Pháp lệnh ngày 21/01/1970 trừng trị
các tội phạm xâm phạm tài sản riêng của công dân; Pháp lệnh ngày
06/09/1972 quy định về việc bảo vệ rừng
Đồng thời nhà nước cũng cho phép áp dụng một số quy định của pháp
luật phong kiến như một số hình phạt trong BLHS Bắc kỳ, BLHS Trung kỳ,
BLHS Nam kỳ. Theo SL số 47 SL ngày 10/10/1945 “giữ tạm thì các luật lệ ở
bắc, nam, trung bộ cho đến khi ban hành những bộ luật duy nhất cho toàn
quốc”. Điều 12 SL cũng quy định chỉ cho phép giữ lại “những điều kkoản mà
nội dung không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể
dân chủ cộng hòa”. Tuy nhiên, ngày 07/07/1959 Tòa án nhân dân tối cao đã
có chỉ thị số T2-TANDTC về đình chỉ áp dụng pháp luật cũ của đế quốc và
phong kiến.
Mặc dù đã ban hành hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật hình sự.
Nhưng, trong giai đoạn này vẫn chưa có văn bản nào quy định về hệ thống
hình phạt. Căn cứ vào Hiến pháp, đạo luật, lệnh, pháp lệnh, nghị định... có thể
dẫn chiếu một số loại hình phạt trong giai đoạn này như sau;
- Hình phạt chính: tử hình, tù có thời hạn (6 ngày đến 20 năm), cảnh cáo.
- Hình phạt phụ: tước một số quyền lợi công dân, tịch thu tài sản, cư trú bắt
buộc và cấm cư trú từ 1-5 năm, cấm thực hành một số nghề nghiệp nhất định và
cấm đảm nhiệm chức vụ liên quan trực tiếp đến tài sản XHCN.
- Hình phạt tổng hợp (vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt phụ): phạt
tiền, quản chế từ 1-5 năm


16


Tử hình là hình phạt chính trong các loại hình phạt trên. Hình phạt này
chủ yếu áp dụng đối với tội phạm có tính chất phản bội tổ quốc, phản cách
mạng, tội hủy hoại hoặc làm hư hỏng tài sản xã hội chủ nghĩa, tội lừa đảo để
chiếm đoạt tài sản XHCN.
Ví dụ: Theo Điều 3 Sắc lệnh số 27 SL ngày 28/02/1946 quy định việc
hành vi bắt cóc, tống tiền và ám sát sẽ bị phạt 2 năm đến 10 năm tù và có thể
bị xử tử.
1.1.2.3. Quy định của BLHS Việt Nam năm 1985
Trong BLHS này, điều kiện, phạm vi, đối tượng áp dụng hình phạt tử
hình được quy định rõ tại Điều 27 BLHS. Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ
được áp dụng đối với người phạm tội trong trường hợp đặc biệt quan trọng,
không áp dụng hình phạt này đối với người chưa thành niên phạm tội, đối với
phụ nữ có thai khi phạm tội hay khi xét xử. Tử hình được hoãn thi hành đối
với phụ nữ có thai, phụ nữ nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Trong phần các tội phạm, BLHS năm 1985 hình phạt tử hình được quy
định trong 29 Điều, chiếm 14,89% trên tổng số 195 Điều về tội phạm. Ngày
28/12/1989, luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLHS năm 1985 đã quy
định thêm 4 hành vi phạm tội về ma túy trong Điều 96a có mức cao nhất là tử
hình. Ngày 12/08/1991, luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLHS năm 1985
đã quy định hình phạt tử hình đối với các tội: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
XHCN (Điều 134); Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản riêng của công dân (Điều
157); Tội nhận hối lộ (Điều 226).
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1985 ngày 22/12/1992
đã quy định hình phạt tử hình đối với tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép
hàng hóa tiền tệ qua biên giới (Điều 97). Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLHS năm 1985 ngày 10/5/1997 đã bổ sung thêm các tội: Tội lợi dụng chức

vụ quyền hạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản XHCN (Điều 134a); Tội lạm dụng
chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản riêng của công dân (Điều 185e); Tội
cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 185m).
Đồng thời, nhà làm luật cũng tách Điều 96a thành 4 điều luật mới (các
Điều 185b, 185c, 185d, 185đ) và giữ nguyên hình phạt tử hình đối với các tội
17


này. Điều 112 quy định tội hiếp dâm cũng được tách ra làm 2 tội: tội hiếp
dâm và tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112a) và cũng giữ nguyên hình phạt tử hình
đối với các tội này.
Như vậy, BLHS năm 1985, sau 4 lần sửa đổi bổ sung đã quy định hình
phạt tử hình trong 44 Điều luật về tội phạm, chiếm 20,37% trên tổng số 216
Điều luật về tội phạm.
1.1.3. Luật pháp quốc tế về hình phạt tử hình
Về phương diện pháp lý, hình phạt tử hình là hình phạt tước đi mạng
sống của con người theo bản án được tuyên bởi một tòa án được lập ra một
cách hợp pháp để trừng trị thích đáng cho hình vi phạm tội mà người bị kết án
đã phạm phải. Xuất hiện từ thời xa xưa của lịch sử loài người, có thể khẳng
định đây là hình phạt nghiêm khắc nhất tước đi mọi thứ quyền của con người
và đó cũng là phương tiện hữu hiệu nhất để đấu tranh phòng chống tội phạm.
Pháp luật quốc tế nhìn chung không cấm hình phạt tử hình. Tại khoản 2
Điều 6 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) quy định
rằng: “ở những nước mà hình phạt tử hình chưa được xóa bỏ thì chỉ được áp
dụng hình phạt này đối với những tội ác nghiêm trọng nhất, căn cứ vào pháp
luật hiện hành tại thời điểm tội phạm được thực hiện và không được trái với
những quy định của công ước này và công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội
diệt chủng. Hình phạt tử hình chỉ được thi hành trên cơ sở bản án đã có hiệu
lực pháp luật do một tòa án có thẩm quyền phán quyết”. Liên quan đến vấn đề
này vào năm 1989 Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua nghị định thư

thứ hai bổ sung ICCPR trong đó quy định xóa bỏ hình phạt tử hình. Nhưng
nghị định thư này chỉ khuyến nghị tùy chọn nên không có giá trị pháp lý bắt
buộc đối với tất cả các thành viên mà chỉ có hiệu lực pháp lý đối với những
thành viên nào tự nguyện tham gia. Điều này không có nghĩa là những quốc
gia còn lại không tham gia có quyền tự ý áp dụng hình phạt tử hình. Tại
khoản 2 Điều 6 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trí (ICCPR)
thừa nhận có thể áp dụng hình phạt tử hình nhưng hạn chế đến mức thấp nhất
khi quyết định áp dụng hình phạt tử hình “được phép áp dụng đối với những
tội ác nghiệm trọng nhất”. Ngoài ra, theo Khoản 3 Điều 6 Công ước quốc tế
18


quy định đối tượng bị hạn chế áp dụng hình phạt tử hình: “không được tuyên
hình phạt tử hình đối với người phạm tội dưới 18 tuổi và không được thi hành
án đối với phụ nữ đang mang thai”. Luật quốc tế cấm áp dụng hình phạt tử
hình đối với những người bị thiểu năng về trí tuệ, về tâm thần, phụ nữ có thai
và các bà mẹ đang nuôi trẻ sơ sinh (báo cáo viên đặc nhiệm của Liên hợp
quốc về việc hành quyết độc đoán và rút ngắn thủ tục).
Đối với những người phải đối mặt với hình phạt tử hình, luật quốc tế
cũng đưa ra một loạt các biện pháp tư pháp nhằm đảm bảo những nguyên tắc
cơ bản của các đối tượng này cũng như sự công minh, chính xác và hiệu quả
về việc áp dụng và thực thi pháp luật. Các biện pháp đảm bảo bao gồm: thủ
tục tố tụng đảm bảo xét xử công bằng, quyền được xin ân giảm của tử tù,
quyền của tử tù có thời hạn thích đáng để kháng cáo và xin ân xá...
Xét về mặt thực tế, quy chế của tất cả các tòa án hình sự quốc tế được
thành lập trong thập kỷ gần đây đều không quy định áp dụng hình phạt tử
hình. Ví dụ như: tòa hình sự quốc tế, tòa án hình sự đặc biệt Sierra Leone...
Theo số liệu thống kê của tổ chức ân xá quốc tế (AI) tính đến năm 2014
hơn 105 nước đã bỏ hình phạt tử hình, phần lớn các nước bỏ hình phạt tử hình
trong những thập niên gần đây thuộc liên minh Châu Âu, vì theo quy chế của

tổ chức này, việc xóa bỏ hình phạt tử hình trong luật hình sự là một trong
những tiêu chí quan trọng để xét tiêu chí gia nhập. Vì vậy sau năm 1990, một
loạt các nước Đông Âu trước đây khi gia nhập liên minh Châu Âu đã xóa bỏ
hình phạt tử hình. Điều 1 Hiến chương về những điều cơ bản của liên minh
Châu Âu năm 200 tuyên bố: “nhân phẩm con người là bất khả xâm phạm. Nó
phải được tôn trọng và bảo vệ”; Điều 2 Hiến chương này cũng quy định “tất
cả mọi người có quyền được sống, không ai có thể bị kết án tử hình hoặc thi
hành án tử hình”.
Như vậy, mặc dù pháp luật quốc tế không cấm áp dụng hình phạt tử hình
nhưng tích cực khuyến khích các quốc gia giảm, hoãn và dần tiến tới xóa bỏ
hình phạt tử hình.
1.2. Các quy định về hình phạt tử hình theo BLHS năm 1999, sửa
đổi năm 2009
19


1.2.1. Hình phạt tử hình trong phần chung của BLHS 1999, sửa đổi
năm 2009
Theo Điều 35 và Điều 52 của BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm
2009 (sau đây gọi là BLHS sửa đổi), quy định về hình phạt tử hình có những
nội dung như sau:
Thứ nhất, tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm
tội đặc biệt nghiêm trọng.
Thứ hai, đối tượng không áp dụng hình phạt tử hình là người chưa thành
niên phạm tội, phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con (bao gồm cả con
nuôi) dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử.
Thứ ba, trong khi BLHS năm 1985 quy định đối với phụ nữ có thai, phụ
nữ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi chỉ được hoãn thi hành hình phạt tử hình
thì BLHS sửa đổi quy định không được thi hành hình phạt tử hình và hình
phạt tử hình được chuyển thành tù chung thân.

Thứ tư, BLHS sửa đổi quy định không áp dụng hình phạt tử hình đối với
người phạm tội trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Đối với người phạm tội
chưa đạt chỉ được áp dụng hình phạt này trong trường hợp đăc biệt nghiêm
trọng. BLHS năm 1985 không có quy định này.
Thứ năm, BLHS sửa đổi có quy định mới là trong trường hợp người bị kết
án tử hình được ân giảm, thì hình phạt tử hình chuyển thành tù chung thân.
Thứ năm, BLHS sửa đổi bỏ quy định “chỉ trong trường hợp đặc biệt có
luật quy định riêng hình phạt tử hình được thi hành ngay sau khi tuyên”.
1.2.2. Hình phạt tử hình trong phần các tội phạm cụ thể của BLHS
1999, sửa đổi năm 2009
Hiện nay trong BLHS sửa đổi của nước ta các tội có thể bị áp dụng hình
phạt tử hình đã giảm đi rất nhiều so với BLHS năm 1985: Tại chương XI quy
định các tội phạm an ninh quốc gia, chỉ còn 7 tội so với 13 tội, đó là: Tội phản
bội tổ quốc (Khoản 1 Điều 78); Tội hoạt động nhằm lật đổ chhính quyền nhân
dân (khoản 1 điều79); Tội gián điệp (Khoản 1 Điều 80); Tội bạo loạn (Khoản
1 Điều 82); Tội hoạt động phỉ (Khoản 1 Điều 83); Tội khủng bố (Khoản 1
Điều 84); Tội phá hoại cơ sở vật chất của Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam (Khoản 1 Điều 85);
20


Tại chương XII quy định các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự của con người có 2 tội có quy định về hình phạt tử hình: tội
giết người (Khoản 1 Điều 93) và tội hiếp dâm trẻ em (Khoản 4 Điều 112).
Chương XIV các tội xâm phạm sở hữu chỉ có duy nhất 1 Điều luật có
quy định hình phạt tử hình là tội cướp tài sản (Khoản 4 Điều 133).
Tại chương XVI quy định về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế có
một trong hai mươi chín tội có thể nhận mức án tử hình đó là tội sản xuất
buôn bán hàng giả là lương thực thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng
bệnh (Khoản 4 Điều 157);

Tại chương XVIII quy định về các tội phạm buôn bán ma túy có hai
trong số mười tội, đó là: Tội sản xuất trái phép chất ma túy (Khoản 4 Điều
193); Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma
túy (Khoản 1 Điều 194)
Tại chương XIX quy định về các tội phạm xâm phạm an toàn công cộng,
trật tự công cộng có tới năm mươi năm tội nhưng chỉ có hai tội có khung hình
phạt cao nhất là tử hình đó là tội khủng bố (Khoản 1 Điều 230a) và tội phá
hủy công trình, phương tiện quan trọng an ninh quốc gia (Khoản Điều 231);
Tại chương XXI quy định về tội phạm công chức có hai trên 14 tội: tội
tham ô tài sản (Khoản 4 Điều 278) và tội nhận hối lộ (Khoản 4 Điều 279).
Tại chương XXIII về các tội xâm phạm nghĩa vụ trách nhiệm quân nhân
gồm có: tội chống mệnh lệnh (Điều 316) và tội đầu hàng địch (Khoản 33 Điều
322);
Cuối cùng là ba trong số bốn tội thuộc chương XXIV quy định về các tội
chống phá hòa bình, chống loài người, tội phạm chiến tranh: tội phá hoại hòa
bình gây chiến tranh xâm lược (Điều 341), tội chống loài người (Điều 342) và
tội phạm chiến tranh (Điều 343).
Như vậy, hình phạt tử hình trong BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm
2009 chỉ còn quy định tại 22 Điều luật về tội phạm, chiếm tỉ lệ 8,2% tổng số
các điều luật về hình phạt.
Mới đây, BLHS năm 2015 (sửa đổi) đã được nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27 tháng 11 năm
2015. Có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2016. Thực hiện chủ
trương của Đảng và Nhà nước ta về giảm hình phạt tử hình nhằm bảo vệ
21


quyền con người theo tinh thần Hiến pháp và Nghị quyết số 49-NQ/TW của
Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp và để đáp ứng yêu cầu đấu tranh
phòng, chống một số loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, nguy hiểm, Quốc

hội đã thống nhất bỏ hình phạt tử hình đối với 7 tội danh: Tội cướp tài sản
(Điều 168); Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ
gia thực phẩm (Điều 193); Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 249); Tội
chiếm đoạt chất ma túy (Điều 252); Tội phá huỷ công trình, cơ sở, phương
tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 303); Tội chống mệnh lệnh (Điều
394); Tội đầu hàng địch (Điều 399).
Về quy định không áp dụng hình phạt tử hình và không thi hành án tử
hình (Điều 40), dù có một số ý kiến đại biểu đề nghị vẫn áp dụng hình phạt tử
hình với người từ đủ 75 tuổi trở lên nếu phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia,
giết người, tội phạm về ma túy.
Tuy nhiên, văn bản giải trình, tiếp thu của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
cho rằng quy định không áp dụng hình phạt tử hình đối với đối tượng này thể
hiện tính nhân đạo, chính sách khoan hồng của Nhà nước ta, nên quy định này
vẫn được giữ. Mặt khác, Luật cũng không thi hành án tử hình đối với người bị
kết án nếu “Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà
sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ¾ tài sản tham ô, nhận hối lộ và
hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội
phạm hoặc lập công lớn”.
Để bảo đảm định hướng cải cách tư pháp về giảm hình phạt tử hình, hình
phạt này chỉ áp dụng đối với trường hợp sản xuất trái phép chất ma túy, mua
bán trái phép chất ma túy, vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 250) thì chỉ
có thể áp dụng hình phạt tử hình đối với người chủ mưu, cầm đầu, người vận
chuyển số lượng ma túy đặc biệt lớn.
Các trường hợp không áp dụng hình phạt tử hình
Thứ nhất, không áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành
niên phạm tội

22



Khoa học luật hình sự nói chung và khoa học luật hình sự Việt Nam nói
riêng khi nói về người chưa thành niên phạm tội không chỉ xét tới hành vi
phạm tội mà nhười chưa thành niên phạm tội, mà còn xét tới các yếu tố tác
động khác. Đó là môi trường sống, nguyên nhân cũng như điều kiện phát sinh
tội phạm. Vì nói về mặt sinh lý thì người chưa thành niên là người chưa phát
triển toàn diện về nhận thức lẫn thể chất, do đó, mọi hành vi của người chưa
thành niên cần phải xem xét trên nhiều phương diện khác nhau. Quan điểm đó
chi phối chính sách hình sự “việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ
yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở
thành công dân có ích cho xã hội” (Điều 69). Cụ thể về mức hình phạt đối với
người chưa thành niên phạm tội bao giờ cũng thấp hơn người người thành
niên đối với cùng một tội phạm. Đặc biệt, đối với các loại hình phạt quá
nghiêm khắc, ít tạo cơ hội hoặc không có cơ hội để người bị kết án sửa chữa
sai lầm, phấn đấu trở thành người tốt sẽ không được áp dụng đối với người
chưa thành niên phạm tội. Hiện nay có không ít vụ án nghiêm trọng mà người
thực hiện hành vi đó là người chưa thành niên. Điển hình là vụ án của Lê Văn
Luyện đã làm dậy sóng dư luận khi cướp tiệm vàng và ra tay tàn ác giết chết 3
nạn nhân trong cùng một gia đình nhưng mức hình phạt chỉ có 18 năm tù.
Hẳn nhiêu người không hiểu rõ về pháp luật hình sự cũng như những quy
định đối với người chưa thành niên phạm tội sẽ nghĩ đây chưa phải là hình
phạt thích đáng nhất cho tội ác mà người phạm tội gây ra. Nhưng theo ý kiến
của ông Vũ Quốc Việt, nguyên vụ trưởng vụ pháp luật hình sự - hành chính,
Bộ tư pháp cho rằng: không thể sửa luật để tử hình vì như vậy là trái với
nguyên tắc pháp chế XHCN. Đây là nguyên tắc bao trùm tính chất chỉ đạo
tính chất hình sự của Đảng và Nhà nước lấy giáo dục làm nền tảng, trọng tâm
trong quá trình xử lý vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên.
Thứ hai, không áp dụng hình phạt tử hình đối với phụ nữ có thai hoặc
phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi.
Việc kiểm tra các điều kiện không áp dụng hình phạt tử hình đối với loại
đối tượng này được thực hiện trước khi quyết định thi hành hình phạt tử hình

và trước khi thi hành hình phạt tử hình. Trường hợp khi xét xử tòa án không
23


phát hiện bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi,
tuyên bản án tử hình đối với họ, nhưng trước khi thi hành án hội đồng thi
hành án mới phát hiện người bị kết án có các điều kiện quy định tạo Điều 35
BLHS sửa đổi, thì hội đồng xét xử hoãn thi hành án và báo cáo Chánh án tòa
án đã xét xử sơ thẩm để báo cáo Chánh án tòa án nhân dân tối cáo xem xét
chuyển hình phạt tử hình thành hình phạt chung thân cho người bị kết án. Sở
dĩ có quy định này xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý của phụ nữ có thai hoặc
đang nuôi con nhỏ sẽ ảnh hưởng sâu sắc tới khả năng nhận thức và điều kiển
hành vi. Dù người mẹ có phạm tội lớn tới đâu thì đứa bé chưa sinh ra hay trẻ
nhỏ đều không có lỗi gì để phải chịu chung hình phạt hay phải chịu những tổn
thương lớn khi không có mẹ bên cạnh chăm sóc.Từ hình phạt tử hình chuyển
xuống hình phạt chung thân đã thể hiện tính nhân đạo sâu sắc, đi đúng theo
nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nó cũng mở ra một con đường nhẹ
nhàng hơn giúp người mẹ có thể ăn năn, hối cải vì những tội lỗi mà mình đã
phạm phải. Đối với những người khác thì đây là việc làm mang lại sự đồng
tình cao vì nó phù hợp với đạo lý và tạo cơ hội cho những đứa trẻ vô tội có
cuộc sống tốt đẹp hơn.
Quy định mang tính nhân văn sâu sắc này đã có từ rất lâu, ngay từ thế kỷ
XV tại Điều 680 của Bộ luật Hồng Đức đã có quy định không thi hành hình
phạt tử hình đối với phụ nữ có thai: “đàn bà phải tội tử hình, nếu đang có
thai, thì phải để sinh đẻ sau 100 ngày mới đem hành hình. Nếu chưa sinh mà
đem hành hình thì ngục quan bị xử biếm hai tư, ngục lại bị tội đồ làm bản cục
đinh...”. Quy định này cũng phù hợp với công ước quốc tế về quyền dân sự và
chính trị ngay 16/12/1996 về việc: “không được phép tuyên án tử hình đối với
người phạm tội dưới 16 tuổi và không được thi hành đối với phụ nữ đang có
thai”. Như vậy, so với công ước này pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng

hình sự nước ta áp dụng triệt để hơn nguyên tắc nhân đạo đối với người chưa
thành niên và phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi.
Một số quan điểm nên hay không nên áp dụng hình phạt tử hình?
Trong xã hội ngày nay, khi mà xã hội ngày càng phát triển, nhân loại
ngày càng tiến bộ thì phạm vi áp dụng hìnhphạt tử hình cũng có xu hướng thu
24


hẹp lại phạm vi áp dụng, dần tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình. Tính đến thời
điểm này đã có khoảng 105 nước xóa bỏ hình phạt tử hình vì cho rằng nó vi
phạm đến nhân quyền và một số quyền lợi cơ bản của con người. Vậy ở Việt
Nam, có nên xóa bỏ hình phạt tử hình hay tiếp tục duy trì? Nên hạn chế hay
giữ nguyên số tội danh áp dụng? Xoay quanh vấn đề này khoa học pháp lý
hình sự Việt Nam cũng đã tiếp nhận và theo đuổi nhiều quan điểm khác nhau
trên thế giới, theo quan điểm không ủng hộ hình phạt tử hình cho rằng: một
đặc trưng cơ bản của hình phạt tử hình đó là tính không thay đổi, bất cứ hình
phạt nào trong hệ thống hình phạt đều có thể tồn tại khả năng sai sót và hình
phạt tử hình là hình phạt duy nhất mà khi xảy ra sai lầm đó thì không thể khắc
phục được. Dó đó, cần xóa bỏ hình phạt tử hình để tránh không xảy ra sai lầm
đó. Đồng thời, họ cho rằng hình phạt tử hình vi phạm nghiêm trọng nhân
quyền, là một sự tra tấn ảnh hưởng đến thể chất, tinh thần, thể hiện sự phi
nhân đạo, đi ngược lại nguyên tắc nhân đạo trong pháp luật hình sự. Việc áp
dụng hình phạt tử hình chẳng khác gì là một sự trả thù và lặp lại hành động
của người phạm tội không cho họ một con đường sống và cơ hội làm người.
Trong khi đó, xu hướng xóa bỏ hình phạt tử hình là xu hướng chung của các
nước trên thế giới vì vậy không nên đi ngược lại xu hướng chung đó. Ngoài
ra, việc duy trì hình phạt tử hình còn vi phạm quyền được sống của con người
đã được ghi nhận trong các điều ước quốc tế về nhân quyền. Tuy nhiên, việc
không áp dụng hình phạt tử hình nữa không có nghĩa là bỏ qua tội ác của
người phạm tội, mà chúng ta có thể áp dụng hình phạt khác như chung thân.

Điều này vừa đáp ứng xu hướng chung của thế giới vừa thể hiện tính nhân
đạo và trao cho họ cơ hội để làm lại cuộc đời.
Đối lập với quan điểm không ủng hộ hình phạt tử hình thì tư tưởng ủng
hộ hình phạt tử hình lập luận rằng: hình phạt tử hình là biện pháp hữu hiệu
nhất có hiệu quả răn đe đặc biệt mà không một hình phạt nào khác thay thế
được để phòng ngừa các tội phạm nguy hiểm như giết người, ma túy, khủng
bố... Giết một người để răn đe nhiều người. Nếu nói theo quan điểm của
những người không ủng hộ hình phạt tử hình rằng hình phạt tử hình vi phạm
25


×