ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐẶNG PHÚ LÂM
“CHẾ ĐỊNH PHẠM NHIỀU TỘI TRONG LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÚC
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2011
3
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN……………………………………………………………… 1
BẢNG CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT …………………………………………… 2
MỤC LỤC ………………………………………… 3
PHẦN MỞ ĐẦU 5
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHẠM NHIỀU TỘI 11
1.1. Khái niệm, đặc điểm cơ bản, hình thức của phạm nhiều tội…… 11
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm 11
1.1.2. Các hình thức biểu hiện của phạm nhiều tội 15
1.2. Sơ lược pháp luật hình sự Việt Nam quy định về trường hợp phạm nhiều
tội 26
1.2.1. Giai đoạn trước năm 1945 26
1.2.2. Giai đoạn từ cách mạng tháng 8-1945 đến trước pháp điển hóa lần
thứ nhất – BLHS năm 1985 27
1.2.3. Giai đoạn từ năm 1985 đến pháp điển hóa lần thứ hai – BLHS năm
1999 29
1.3. Chế định phạm nhiều tội quy định trong luật hình sự một số nước trên thế
giới 32
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ TRONG TRƯỜNG HỢP
PHẠM NHIỀU TỘI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH VĨNH PHÖC 35
2.1. Giới thiệu sơ lược về điều kiện phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc và
những ảnh hưởng đến tình hình tội phạm thời gian vừa qua… 35
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với trường hợp phạm nhiều tội trên
địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc 39
2.2.1. Định tội danh và thực tiễn định tội danh trong trường hợp phạm
nhiều tội trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc 39
2.2.2. Quyết định hình phạt và thực tiễn quyết định hình phạt trong trường
hợp phạm nhiều tội trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc 62
4
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN GÓP PHẦN NÂNG CAO CÔNG TÁC
ĐẤU TRANH PHÕNG, CHỐNG TRƯỜNG HỢP PHẠM NHIỀU TỘI TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY TẠI TỈNH VĨNH PHÚC 93
3.1. Quan điểm, đường lối đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung 93
3.2. Một số giải pháp 96
3.2.1. Về hoàn thiện pháp luật 96
3.2.2. Hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật 97
3.2.3. Công tác thống kê tội phạm 98
3.2.4. Giải pháp riêng cho địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc 99
KẾT LUẬN 101
PHỤ LỤC 104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 107
2
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
STT
CHỮ VIẾT TẮT
NGHĨA
1.
BLHS
Bộ luật hình sự
2.
TAND
Tòa án nhân dân
3.
CTTP
Cấu thành tội phạm
4.
TNHS
Trách nhiệm hình sự
5.
HTX
Hợp tác xã
6.
UBND
Ủy ban nhân dân
7.
TN & MT
Tài nguyên và môi trường
8.
GCNQSDĐ
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
9.
ĐKQSDĐ
Đăng ký quyền sử dụng đất
10.
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
11.
HĐĐKĐĐ
Hội đồng đăng ký đất đai
Formatted: Cap1, Left, Line spacing: single
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
Formatted: Font: Times New Roman, 12 pt,
Dutch (Netherlands)
Formatted Table
Formatted: Bullets and Numbering
Formatted: Dutch (Netherlands)
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
Formatted: Bullets and Numbering
Formatted: Dutch (Netherlands)
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
Formatted: Bullets and Numbering
Formatted: Dutch (Netherlands)
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
Formatted: Dutch (Netherlands)
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
Formatted: Dutch (Netherlands)
Formatted: Bullets and Numbering
Formatted: Bullets and Numbering
Formatted: Bullets and Numbering
Formatted: Bullets and Numbering
Formatted: Bullets and Numbering
Formatted: Bullets and Numbering
Formatted: Bullets and Numbering
Formatted: Bullets and Numbering
Formatted: Justified, Space Before: 0 pt,
After: 0 pt
7
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài.
Sau gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới sâu sắc, toàn diện trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội do Đảng ta khởi xxsƣớng từ Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VI – năm 1986, đất nƣớc ta ta đã có sự chuyển biến với sự
phát triển mạnh mẽ của mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Tuy nhiên, từ nội tại
của xã hội mang tính chất của nền kinh tế thị trƣờng bên cạnh những dấu hiệu
tích cực mà nó mang lại cũng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực trong đời
sống xã hội, trong đó có tình hình tội phạm mà biểu hiện là số bị
cáongƣờingƣời phạm tội ngày càng tăng về số lƣợng cũng nhƣ tính chất vàvà
mức độ nguy hiểm cho xã hội. Việc đấu tranh phòng, chống tội phạm để bảo
vệ lợi ích của mình và duy trì trật tự xã hội là một trong những nhiệm vụ quan
trọng của nhà nƣớc ta, Bộ luật hình sựBLHS đƣợc ban hành đã tạo cơ sở pháp
lý thống nhất cho các cơ quan tiến hành tố tụng xử lý đúng ngƣời, đúng tội,
đúng pháp luật, không oan sai.
Bộ luật hình sựBLHS lần đầu tiên của nƣớc ta đƣợc thông qua ngày
27/6/1985 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1986. Trong quá trình áp
dụng pháp luật hình sự, để phục vụ kịp thời công tác đấu tranh phòng, chống
tội phạm trong từng giai đoạn cụ thể, Nhà nƣớc ta đã 4 lần sửa đổi, bổ sung
Bộ luật này., đến Đến ngày 21/12/1999 Quốc hội nƣớc ta đã thông qua Bộ
luật hình sựBLHS mới thay thế Bbộ luật hình sự năm 1985. Muốn định tội
danh và quyết định hình phạt đúng và chính xác, trong từng giai đoạn của quá
trình tố tụng một vụ ánhình sự, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và
Hội thẩm nhân dân phải xác định đầy đủ, chính xác các tình tiết khách quan
của vụ án, , và nhận thức, áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự.
Qua thực tế từ giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử cho thấy việc định tội
danh và quyết định hình phạt thƣờng gặp khó khăn và có nhiều sai sót, trong
Formatted: Dutch (Netherlands)
Formatted: Bullets and Numbering
8
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
đó có định tội danh và quyết định hình phạt trong trƣờng hợp nhiều tội phạm
(trong đó có phạm nhiều tội). Định tội danh và quyết định hình phạt trong
trƣờng hợp phạm nhiều tội có nội dung quan trọng trong lý luận và thực tiễn
xét xử của nƣớc ta. Mặc dù phạm nhiều tội là một trong những chế định quan
trọng, nhƣng trong thời gian qua chƣa đƣợc quan tâm, nghiên cứu đúng mức.
Tỉnh Vĩnh Phúc là tỉnh nằm ở khu vực trung du miền núi phía bBắc,
mặc dù so với những tỉnh khác trên toàn quốc, Vĩnh Phúc không phải là điểm
nóng về tội phạm nói chung, cũng nhƣ phạm nhiều tội nói riêng, nhƣng nơi
đây vẫn chịu tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trƣờng. Tình hình tội phạm
gia tăng thể hiện ở số lƣợng vụ án hình sự, một số loại án hình sự trên địa bàn
Ttỉnh Vĩnh Phúc, tình hình phạm nhiều tội, phạm tội nhiều lần, tái phạm, tái
phạm nguy hiểm gia tăng đối với một số tội, nhóm tội trong những năm gần
đây và trở nên rất phổ biến hơn so với thời gian trƣớc đây. Các tôi nhƣ Tội
Tội giết ngƣời, cƣớp tài sản, cố ý gây thƣơng tích, mua bán trái phép chất ma
túy, mua bán ngƣời… ngày một tăng, số bị cáo phạm nhiều tội nghiêm trọng
và đặc biệt nghiêm trọng cũng rất phổ biến, ví dụ: Vụ án Đƣờng Ngọc Sơn
cùng đồng phạm gồm 14 bị cáo phạm các Ttội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”;
“Trốn thuế”; “Lƣu hành giấy tờ có giá giả”; “Chống ngƣời thi hành công vụ”;
vụ án Phạm Thế Thuần phạm Ttội “Giết ngƣời” và “Cƣớp tài sản”…
Trƣớc sự đòi hỏi mới của cuộc đấu tranh phòng, ngừa tội phạm, việc
nghiên cứu chế định phạm nhiều tội trong luật hình sự Việt Nam hiện nay có
ý nghĩa quan trọng không những về mặt lý luận mà còn là đòi hỏi của thực
tiễn áp dụng nhằm đƣa ra những giải pháp hoàn thiện chế định này trong Bộ
luật hình sựBLHS Việt Nam. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Chế định
phạm nhiều tội trong luật hình sự Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc” có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực
9
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
tiễn đối với ngành Toà án nhân dânTAND nói riêng và các cơ quan tiến hành
tố tụng nói chung trong tình hình hiện nay.
2.2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay, ở nƣớc ta khái niệm phạm nhiều tội chƣa đƣợc ghi nhận
trong Bộ luật hình sựBLHS. Trong lĩnh vực nghiên cứu lý luận về vấn đề này,
đã có một số công trình, bài viết nghiên cứu về chế định này. Chẳng hạn nhƣ:
“Về một trƣờng hợp phạm nhiều tội” (Tạp chí Toà án nhân dân số 2/1984 của
GS. Tiến sỹ Nguyễn Ngọc Hoà); “Phạm tội nhiều lần và phạm nhiều tội” (Tạp
chí Toà án nhân dân số 3/1995 của Thạc sỹ Mai Bộ); “Cần phân biệt phạm tội
nhiều lần và phạm nhiều tội” (Ttạp chí Toà án nhân dân số 5/1995 của Điền
Nguyên); “Quyết định hình phạt trong trƣờng hợp phạm nhiều tội” (Tạp chí
Toà án nhân dân số 6/2000 của Dƣơng Tuyết Miên); “Quyết định hình phạt
trong trƣờng hợp phạm nhiều tội” (Tạp chí Luật học số 4/1996 của PGS.TS
Võ Khánh Vinh và Nguyễn Văn Hoàn); Chế định đa (nhiều tội phạm) và mô
hình lý luận của nó trong Luật hình sự Việt Nam (Tạp chí Dân chủ và pháp
luật số 6/2001 của TSKH Lê Cảm); “trƣờng Trƣờng hợp phạm nhiều luật
trong luật hình sự Việt Nam” (Tạp chí Luật học năm 2003 của PGS. TS
Nguyễn Ngọc Hoà),…
+ Các công trình đã viết thành sách:
Nghiên cứu về chế định đa (nhiều) tội phạm (trong sách Các nghiên
cứu chuyên khảo của phần chung luật hình sự tập IV, NXB Công an nhân
dân, Hà Nội, năm 2002) của TSKH Lê Cảm; Sách chuyên khảo sau đại học,
Những vấn đề cơ bản trong khoa học Lụât hình sự, phần chung, chƣơng IV
NBX Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2005 của TSKH.PGS Lê Cảm; Nhiều tội
phạm (chƣơng XV, giáo trình Luật hình sự Việt Nam) Trung tâm đào tạo từ
xa Đại học Huế do PGS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên; Nhiều tội phạm, NXB
Công an nhân dân năm 2010, TS Lê Văn Đệ.…
Formatted: Bullets and Numbering
10
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
+ Các Luận án, Luận văn nghiên cứu về chế định phạm nhiều tội:
Quyết định hình phạt trong những trƣờng hợp đặc biệt, Luận văn thạc
sỹ của tác giả Đặng Thị Thanh, năm 1998; Quyết định hình phạt trong luật
hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Trần Văn Sơn, năm
1996; Chế định phạm nhiều tội trong Luật hình sự Việt Nam, Luận vănán thạc
sỹ của của tác giả Lê Văn Đệ, năm 1999; Chế định nhiều tội phạm trong Luật
hình sự Việt Nam, Luận án tiến sỹ của của tác giả Lê Văn Đệ, năm 2003;
Quyết định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sỹ của cuả
tác giả Dƣơng Tuyết Miên, năm 2003…
Qua quá trình tham khảo các công trình nghiên cứu khoa học nói trên,
cũng nhƣ từ thực tiễn áp dụng pháp luật, Tình hình nghiên cứu cho
thấy,chúng tôi thấy rằng để đƣa chế định phạm nhiều tội áp dụng trong thực tế
đƣợc chính xác, cụ thể, đòi hỏi các nhà nghiên cứu luật học nghiên cứu sâu
hơn, toàn diện và có hệ thống hơn; kết hợp hài hoà giữa lý luận và thực tiễn
trong quá trình nghiên cứu mới đáp ứng đƣợc yêu cầu và đòi hỏi của việc xây
dựng, hoàn thiện và áp dụng luật hình sự về phạm nhiều tội. Đến nay chƣa có
mộtcó rất ít công trình, luận án, luận văn, đề tài khoa họcc nào nào nghiên
cứu về phạm nhiều tội mà tác giả lại đang công tác thực tế tại các cơ quan tiến
hành tố tụng (Tòa án nhân dânAND), cũng nhƣ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
Tuy nhiên, các công trình, luận văn, luận án đã tạo điều kiện cho tác giả
tham khảo, kế thừa và tiếp tục nghiên cứu, đánh giá đúng thực trạng của phạm
nhiều tội, để từ đó hoàn thiện và hƣớng dẫn áp dụng những quy định của luật
hình sự về phạm nhiều tội đƣợc thống nhất.
3.3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu phần lý luận về phạm nhiều tội một cách có hệ
thống, thực tiễn công tác xét xử, việc định tội danh và quyết định hình phạt
Formatted: Bullets and Numbering
11
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
các trƣờng hợp phạm nhiều tội trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc trong 3 năm từ
2007 đến năm 2009, từ đó làm sáng tỏ về mặt lý luận một số vấn đề lý luận cơ
bản về chế định phạm nhiều tội để có hƣớng đề xuất hoàn thiện chế định này
và hƣớng dẫn áp dụng những quy định đó đƣợc thống nhất.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích đã nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau
đây:
- Nghiên cứu, làm sáng tỏ quá trình hình thành và phát triển của chế
định phạm nhiều tội trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam, làm rõ những
vấn đề lý luận chung của chế định phạm nhiều tội, bản chất pháp lý và các
hình thức của chế định phạm nhiều tội so với phạm tội nhiều lần
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc định
tội danh và quyết định hình phạt trong trƣờng hợp phạm nhiều tội trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Phúc, trên cơ sở tổng kết đánh giá thực trạng phạm nhiều tội tại địa
bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
- Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử, Lluận
văn đƣa ra một số đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện quy định về chế
định phạm nhiều tội.
3.3. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về phạm nhiều tội với việc khái quát các hình
thức (dạng) biểu hiện của nó, vấn đề vấn đề định tội danh và quyết định hình
phạt trong trƣờng hợp phạm nhiều tội, việc áp dụng phạm nhiều tội trong thực
tiễn công tác xét xử trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
4.4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu:
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê
Nin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà nƣớc và pháp luật; chủ trƣơng, chính
Formatted: Bullets and Numbering
12
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
sách của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, về pháp luật, tội phạm và hình phạt.
Luận văn đƣợc hình thành dựa trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu
của các nhà khoa học và các tài liệu đã đƣợc công bố, dựa trên cơ sở nghiên
cứu các văn bản pháp luật của nhà nƣớc, các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng
cộng sản Việt Nam, các văn bản hƣớng dẫn áp dụng pháp luật, các bản án,
quyết định hình sự của Toà án nhân dânTAND các cấp, phân tích thực tiễn
định tội danh và quyết định hình phạt trong trƣờng hợp phạm nhiều tội trên
địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
Đồng thời dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác – Lê Nin; sử dụng các
phƣơng pháp hệ thống, lịch sử, phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê khi giải
quyết các nhiệm vụ cụ thể của luận án.
5.5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của lLuận ánvăn
Những nội dung của Lluận văn đƣa ra đã góp phần làm phong phú
thêm lý luận về chế định phạm nhiều tội, đồng thời nâng cao nhận thức về chế
định phạm nhiều tội trong luật hình sự Việt Nam.
Từ một số giải pháp hoàn thiện chế định phạm nhiều tội sẽ góp phần
sửa đổi, bổ sung chế định luật về phạm nhiều tội trong thời gian tới.
Luận văn có thể đƣợc sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác
nghiên cứu khoa học chuyên ngành và tài liệu tham khảo đối với cán bộ làm
công tác nghiên cứu, giảng dạy và cán bộ làm công tác điều tra, truy tố và đặc
biệt là đội ngũ Thẩm phán trong ngành TAND các cấp.
6.6. Bố cục của Lluận văn:
Ngoài Pphần mở đầu, Kkết luận và Ddanh mục tài liệu tham khảo,
Lluận văn gồm 3 chƣơng nội dung:
Formatted: Bullets and Numbering
Formatted: Bullets and Numbering
Formatted: Font: Not Bold, Dutch
(Netherlands)
Formatted: Dutch (Netherlands)
13
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
Chƣơng 1: Nhận thứcMột số vấn đề lý luận chung về chung về quyết
định hình phạt trong trƣờng hợp phạm nhiều tội.
Chƣơng 2: Định tội danh trong trƣờng hợpThực tiễn áp dụng luật hình
sự trong trƣờng hợp phạm nhiều tội trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
phạm nhiều tội.
Chƣơng 3: Quyết định hình phạt trong trƣờng hợp phạm nhiều tội.Một
số giải pháp cơ bản góp phần nâng cao công tác đấu tranh phòng, chống
trƣờng hợp phạm nhiều tội trong giai đoạn hiện nay tại tỉnh Vĩnh Phúc.
Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHẠM NHIỀU TỘI
1.1. Khái niệm, đặc điểm cơ bản, hình thức của phạm nhiều tội:
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm
Bộ luật hình sựBLHS năm 1985, cũng nhƣ Bộ luật hình sựBLHS năm
1999 chƣa đƣa ra khái niệm về phạm nhiều tội và chỉ quy định nguyên tắc của
việc quyết định hình phạt đối với trƣờng hợp phạm nhiều tội (Điều 41 Bộ luật
hình sựBLHS năm 1985 và Điều 50 Bộ luật hình sựBLHS năm 1999). Do đó,
trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử có sự nhận thức không đồng nhất giữa
các cơ quan áp dụng pháp luật về trƣờng hợp này.
Formatted: Cap1, Left, None, Line spacing:
single, Tab stops: Not at 0.5" + 0.55" +
0.67"
14
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
Trong lý luận cũng nhƣ thực tiễn áp dụng, sự nhầm lần giữa trƣờng hợp
“phạm nhiều tội” và “phạm tội nhiều lần” đã xảy ra bởi giữa chúng đều có
những điểm chung. Tuy nhiên giữa chúng có sự khác biệt về bản chất pháp lý
nên trƣớc khi Để làm rõ hơn về chế định phạm nhiều tội, trƣớc khi nêuđƣa ra
khái niệm về “phạm nhiều tội” nghiên cứu phân biệt hai trƣờng hợp này nhƣ
sau:, chúng ta nên so sánh sự khác nhau giữa phạm tội nhiều lần và phạm
nhiều tội.
- Một làThứ nhất, phạm tội nhiều lần đây là một tình tiết tăng nặng
đƣợc quy định tại điểm g khoản 1 Điều 486; phạm phản ánh trƣờng hợp
ngƣời phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội từ hai tội lần trở lên
mà những tội hành vi ấy đƣợc quy định tại cùng một điều luật (hoặc tại cùng
một khoản của Điều) tƣơng ứng trong phần riêng các tội phạm của Bộ luật
hình sựBLHS, đồng thời đối với những tội ấy vẫn còn thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sựTNHS và ngƣời phạm tội chƣa bị xét xử. Nhƣ vậy; nếu bị cáo
ngƣời phạm tội thực hiện từ hai lần trở lên hành vi phạm tội mà mỗi lần có
đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạmCTTP cơ bản (khoản 1) nhƣng lần
thứ nhất chƣa bị phát hiện và chƣa bị truy cứu trách nhiệm hình sựTNHS,
song đến lần thứ hai thì bị phát hiện và bị truy cứu trách nhiệm hình sựTNHS
theo mức độ tƣơng ứng với các cấu thành tội phạmCTTP tăng nặng hoặc đặc
biệt tăng nặng, ví dụ nhƣ các tội theo khoản 2; khoản 3 của một số Điều trong
Bộ luật hình sựBLHS năm 1999, cũng nhƣ Luật sửa đổi bổ sung một số điều
của Bộ luật hình sựBLHS năm 2009 : nhƣ Điểm d khoản 2 Điều 111 (tTội
hiếp dâm); điểm c khoản 3 Điều 112 (tội Tội hiếp dâm trẻ em); điểm b khoản
2 Điều 113 (Ttội cƣỡng dâm); điểm b khoản 3 Điều 114 (tội Tội cƣỡng dâm
trẻ em); điểm a khoản 2 Điều 115 (Ttội giao cấu với trẻ em); điểm a khoản 2
Điều 116 (Ttội dâm ô với trẻ em); điểm d khoản 2 Điều 123 (Ttội bắt, giữ
hoặc giam ngƣời trái pháp luật).…
15
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
Còn Trong khi đó phạm nhiều tội tức là trƣờng hợp một ngƣời phạm
vào hai tội khác nhau trở lên; có thể vào các thời điểm khác nhau hoặc vào
cùng một thời điểm và tất cả những lần phạm tội đó đều chƣa bị truy cứu
TNHS lần nào, nay đƣa ra truy cứu cùng một lần
- Thứ hai, Hai là, trong trƣờng hợp phạm tội nhiều lần, ngƣời thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm vào một khách thể (một quan hệ xã
hội) của tội phạm chỉ có một, mặc dù mặc dù đối tƣợng bị xâm hại (đối tƣợng
tác động) có thể có khác nhau; ví dụ: Nguyễn Văn Longong và Đỗ Thị Tám
mở quán cắt tóc gội đầu, tại đây Long và Liên đã bàn bạc nếu có khách mua
dâm, đƣợc Long đồng ý thì Liên sẽ bán dâm cho khách mỗi lần thu đƣợc
100.000đ. Trong tháng 3/2007 Long đã 03 lần thực hiện hành vi chứa Lý Thị
Liên bán dâm cho khách tại buồng nhà riêng của mình. Trong đó lần 1 vào
sáng ngày 27/3/2007 và lần 2 vào sáng 30/3/2007, lần 3 vào khoảng 20h ngày
30/3/2007 bán dâm cho Nguyễn Văn Tiến bị Công an huyện V bắt quả tang; ở
đây hành vi của Long đã phạm vào Ttội “chứa mại dâm”, với tình tiết là phạm
tội nhiều lần, theo Điều 254 Bộ luật hình sựBLHS.
Đối với Ttrƣờng hợp phạm nhiều tội: ngƣời phạm tội thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội Là trƣờng hợp xâm hại các khách thể (các quan hệ xã
hội) khác nhau, ví dụ: Nguyễn Văn H sau khi biết A có hành vi giết ngƣời,
cƣớp tài sản, H đã không báo với cơ quan công an, mà còon che giấu; ngoài ra
H còn mua cái chiếc xe máy của A để tiêu thụ. Nhƣ vậy trong trƣờng hợp này
H bị truy tố và xét xử về hai tội: Tội tội: “Cche giấu tội phạm” và tội Tội
“Ttiêu thụ tài sản do ngƣời khác phạm tội mà có ”, theo Điều 313 và Điều 250
của Bộ luật hình sựBLHS 1999
- Ba làThứ ba, khi định tội danh và quyết định hình phạt trƣờng
hợp phạm tội nhiều lần, : Bộ luật hình sựBLHS quy định phạm tội nhiều lần
đƣợc coi là tình tiết tăng nặng khi đƣa ra xét xử cùng một lúc , (cùng một vụ
16
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
án); nếu khi truy tố và xét xử ở các thời điểm khác nhau thì khi định tội danh
và quyết định hình phạt không áp dụng tình tiết tăng nặng là phạm tội nhiều
lần mà phải theo nguyên tắc tổng hợp hình phạt của nhiều bản án theo Điều
51 BLHS.Bộ luậ
Trong trƣờng hợp phạm nhiều tội, thì vụ án đƣợc đƣa ra xét xử cùng một
vụ án, Hội đồng xét xử xem xét định tội danh và quyết định hình phạt đối với từng
tội, sau đó tổng hợp hình phạt của bản án. Trên thực tế khi xét xử, chúng ta cũng
cần phân tích hành vi phạm tội của từng tội, xem có thuộc trƣờng hợp phạm tội
nhiều lần hay không, thì áp dụng tình tiết tăng nặng cho tội đó, (có thể áp dụng
điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sựBLHS, hoặc những tình tiết đã là yếu tố
định tội hoặc định khung hình phạt thì không đƣợc coi là tình tiết tăng nặng).
Sau đó quyết định hình phạt chung cho các tội đối với bị cáo.
Sau khi phân tích nhƣ trên có thể đƣa ra 4 đặc điểm của phạm nhiều tội
khác với các hình thức phạm tội khác nhƣ sau:
- Đặc điểm thứ nhất: về số lƣợng, Nngƣời phạm tội thực hiện từ hai lần
trở lên hành vi nguy hiểm cho xã hội và bị truy cứu trách nhiệm hình sự
TNHS về từng lần đó;
- Đặc điểm thứ hai: Các hành vi nguy hiểm cho xã hội ấy trong mỗi lần
thực hiện bao giờ cũng phải có đầy đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội
phạmCTTP độc lập, (hay nói cách khác các hành vi đó phải đƣợc quy định
trong các đĐiều luật khác nhau của Bộ luật hình sựBLHS);
- Đặc điểm thứ ba: Tội phạm do một đĐiều luật (hoặc một khoản của
đĐiều) tƣơng ứng trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sựBLHS quy
định;
(Em xem lại đặc điểm này nhé??? Có thể nó thuộc đặc điểm 2 chăng??
Nếu vậy thì chỉ còn 3 đặc điểm thôi)
Formatted: Font: Italic, Dutch (Netherlands)
Formatted: Dutch (Netherlands)
Formatted: Font: Italic, Dutch (Netherlands)
Formatted: Dutch (Netherlands)
Formatted: Font: Italic, Dutch (Netherlands)
Formatted: Dutch (Netherlands)
17
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
- Đặc điểm thứ tư: Các hành vi nguy hiểm cho xã hội đó còn thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự và ngƣời thực hiện hành vi đó chƣa bị đƣa ra xét
xử một lần nào về một trong những hành vi nguy hiểm đã thực hiện đó và nay
đƣa ra xét xử cùng môt lần. Đối với ngƣời phạm tội ấy phải còn thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự; ngƣời phạm tội chƣa bị xét xử về một tội nào trong
số các tội đó và đƣợc đƣa xét xử cùng một lần.
Ví dụ: Khoảng 12h ngày 23/6/2006 Nguyễn Trung Châu là đối tƣợng
nghiện ma túy cùng Dƣơng Chí Mạnh đến nhà Lê Văn Năng để mua ma túy.
Năng đã bán cho Châu 04 gói ma túy (hêrôin) giá 60.000đ. Sau đó Châu xin
giấy bạc của Năng rồi lấy máy lửa ở trên bàn của Năng đốt hít tại đó, Năng
nhìn thấy nhƣng không nói gì. Hít xong Châu cất 03 gói heroin vào trong túi
quần, rồi cùng Mạnh đi đến thị trấn LT thì bị công an huyện LT kiểm tra và
thu giữ 03 gói ma túy (hêrôin), có tổng trọng lƣợng là 21mg và 20.000đ.
Cùng ngày công an huyện LT đã khám xét khẩn cấp nơi ở của Năng thu giữ
02 gói heroin tổng trọng lƣợng 106,5mg và 10.820.000đ trong đó có 60 tờ
tiền giả loại polymer mệnh giá 100.000đ. Với hành vi nhƣ đã nêu trên bị cáo
Lê Văn Năng phạm các Ttội “mMua bán trái phép chất ma túy”; “cChứa chấp
việc sử dụng trái phép chất ma túy” và “Lƣu hành tiền giả”, theo khoản 2
Điều 194; khoản 2 Điều 198 và khoản 2 Điều 180 Bộ luật hình sựBLHS.
Vấn đề đặt ra ở đây là phải xác định khi nào thì chủ thể bị coi là phạm
nhiều tội (bị xét xử về nhiều tội) và khi nào chỉ bị coi là phạm một tội (bị xét
xử về một tội phạm), từ đó giải quyết theo các hƣớng sau đây:
- Trong trƣờng hợp các hành vi nguy hiểm cho xã hội (mà chủ thể thực
hiện thỏa mãn nhiều cấu thành tội phạmCTTP) nhƣng các hành vi đó không
có quan hệ với nhau thì bị coi là phạm nhiều tội.
- Trong trƣờng hợp các hành vi nguy hiểm cho xã hội (mà chủ thể thực
hiện và thỏa mãn nhiều cấu thành tội phạmCTTP nhƣng các hành vi đó) có
Formatted: Font: Italic, Dutch (Netherlands)
Formatted: Dutch (Netherlands)
18
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
quan hệ với nhau thì chủ thể bị coi là phạm nhiều tội khi các hành vi phạm tội
này có tính nguy hiểm độc lập và loại trừ lẫn nhau.
- Trong trƣờng hợp chủ thể thực hiện một hành vi phạm tộinguy hiểm
cho xã hội mà hành vi này lại thỏa mãn nhiều cấu thành tội phạmCTTP thì
chủ thể bị coi là phạm nhiều tội khi không có tội phạm nào lọai loại trừ đƣợc
tội phạm còn lại do tội còn lại này đƣợc coi là không đáng kể so với tội phạm
đó.
Từ những đặc điểm trên, có thể nêu lên khái niệm về phạm nhiều tội là:
tTrường hợp một chủ thể phạm từ hai tội trở lên hoặc khi hành vi của người
phạm tội có các dấu hiệu của từ hai tội trở lên, mà những tội ấy được quy
định tại các điều luật khác nhau (hoặc tại các khoản khác nhau của cùng một
điều luật nếu các đối tượng của tội phạm khác nhau) trongcủa phần các tội
phạm của Bộ luật hình sựBLHS và những tội ấy còn thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sựTNHS và người phạm tội chưa bị xét xử về tội nào trong số
những tội ấy.
(Em xem lại định nghĩa này nhé!!!).
1.1.2. Các hình thức biểu hiện của chế định trường hợp phạm nhiều tội
Về hViệc ình thức biểu hiện của chế định phạm nhiều tội có thể chia
thành 2 hình thức biểu hiện sau:đó là: (1) Tổng hợp thực tế về phạm nhiều tội
và (2) tổng hợp trừu tƣợng về phạm nhiều tội.
1.3.2.1 Tổng hợp thực tế về phạm nhiều tội:
Về pháp luật thực định, Vấn đề việc phạm nhiều tội cho đến nay vẫn
chƣa đƣợc điều chỉnh về mặt lập pháp nhƣ là một chế định của luật hình sự
Việt Nam v. Vì kể cả trong Bộ luật hình sựBLHS năm 1985, năm; 1999 qua
nhiều lần sửa đổi, vấn đề phạm nhiều tội mới chỉ đƣợc đề cập tại một đĐiều
luật, (Điều 41 Bộ luật hình sựBLHS năm 1985 và Điều 50 Bộ luật hình
sựBLHS năm 1999). Trong lý luận hình sự và thực tiễn xét xử án hình sự,
Formatted: Font: Bold, Dutch (Netherlands),
Highlight
Formatted: Dutch (Netherlands)
Formatted: Level 4, Space Before: 0 pt, After:
0 pt, Tab stops: 0.63", Left + Not at 1"
Formatted: Font: Italic, Dutch (Netherlands)
Formatted: Dutch (Netherlands)
Formatted: Font: Italic, Dutch (Netherlands)
Formatted: Dutch (Netherlands)
Formatted: Font: Not Italic, Dutch
(Netherlands)
Formatted: Dutch (Netherlands)
Formatted: Font: Not Italic, Dutch
(Netherlands)
Formatted: Dutch (Netherlands)
19
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
những tiêu chí cụ thể của trƣờng hợp tổng hợp thực tế về phạm nhiều tội đã
đƣợc đƣa ra ở các mức độ khác nhau. Có thể hiểu qua tổng hợp thực tế của
trƣờng hợp phạm nhiều tội là những trƣờng hợp khi một chủ thể thực hiện hai
hoặc nhiều hành vi phạm tội, mà những hành vi đó bao hàm các dấu hiệu của
các cấu thành các tội phạm độc lập đƣợc quy định tại các điều tƣơng ứng khác
nhau trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sựBLHS và tất cả các tội ấy
chƣa bị đƣa ra xét xử lần nào.
Để biết rõ hơn về trƣờng hợp tổng hợp thực tế về phạm nhiều tội,
chúng ta đi so sánh hai dạng phạm nhiều tội: tổng hợp thực tế và tổng hợp
trừu tƣợng:
- Sự giống nhau của hai dạng phạm nhiều tội tổng hợp thực tế và tổng
hợp trừu tƣợng là ở chỗ những hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc thực hiện
đều:
+ Có chứa đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạmCTTP độc lập mà
chúng có thể khác nhóm (hoặc cùng nhóm) tội phạm cụ thể trong một chƣơng
thuộc phần các tội phạm của Bộ luật hình sựBLHS;
+ Đƣợc quy định tại các điều khoản khác nhau trong Bộ luật hình
sựBLHS;
+ Thƣờng không cùng chung một mục đích;
+ Thƣờng đƣợc thực hiện với các ý định phạm tội không thống nhất;
+ Bị cáo Ngƣời thực hiện tội phạm chƣa bị đƣa ra xét xử về tội nào
trong số những tội ấy.
- Sự khác nhau của hai dạng phạm nhiều tội tổng hợp thực tế và tổng
hợp trừu tƣợng là ở chỗ:
+ Trong dạng phạm nhiều tội tổng hợp thực tế bao giờ cũng có từ hai
khách thể bị xâm phạm trở lên và giữa những hành vi phạm tội thƣờng có
khoảng cách nhất định về mặt thời gian;
20
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
+ Trong dạng phạm nhiều tội tổng hợp trừu tƣợng khách thể bị xâm hại
có thể là một hoặc từ hai trở lên, những hành vi phạm tội thƣờng nối tiếp nhau
mà không có khoảng cách nhất định về mặt thời gian.
Thực tế xét xử các vụ án hình sự về phạm nhiều tội cho thấy trƣờng
hợp tổng hợp thực tế về phạm nhiều tội thƣờng chiếm tỷ lệ lớn hơn so với
trƣờng hợp tổng hợp trừu tƣợng về phạm nhiều tội, ví dụ: Q qua nghiên cứu,
khảo sát các trƣờng hợp phạm nhiều tội trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc từ năm
2007 đến năm 2009, kết quả cho thấy đa số là trƣờng hợp bị cáo có hai hành
vi phạm tội trở lên và các hành vi đó đều cấu thành những tội độc lập đƣợc
quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sựBLHS, phần còn lại
không nhiều là bị cáo phạm tội có một hành vi phạm tội và cấu thành từ hai
tội trở lên, các tội đó đƣợc quy định tại các điều luật khác nhau trong phần các
tội phạm của Bộ luật hình sựBLHS.
Cũng theo thực tế xét xử và nghiên cứu khảo sát trên hồ sơ các vụ án
hình sự tại tỉnh Vĩnh Phúc cho thấy các trƣờng hợp thực tế về phạm nhiều tội
cho thấy giữa các lần phạm tội khoảng cách về mặt thời gian trong ngày là
34%; từ 01 đến 02 ngày là 25%; 05 đến 10 ngày chiếm 15%, từ 10 đến 20
ngày chiếm khoảng 07%, từ 01 tháng đến 03 tháng chiếm 0,9%, từ 03 tháng
trở lên chiếm 10%. Có tới gần 80% trƣờng hợp phạm tội có sự khác nhau về
thời gian, địa điểm, cũng nhƣ hoàn cảnh thực hiện tội phạm giữa các lần
phạm tội. Do sự khác nhau về thời gian, địa điểm đó nó phần nào phân biệt
đƣợc trƣờng hợp phạm nhiều tội tổng hợp thực tế và trƣờng hợp phạm nhiều
tội tổng hợp trừu tƣợng.
Theo lý luận hình sự và trong thực tiễn xét xử cho thấy các trƣờng hợp
phạm tội bị coi là tổng hợp thực tế về phạm nhiều tội không những trƣờng
hợp khi các tội phạm đã hoàn thành, mà còn cả những trƣờng hợp có tội đang
ở giai đoạn chuẩn bị hay phạm tội chƣa đạt, còn tội khác đã hoàn thành hoặc
21
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
là cả hai tội đều chƣa hoàn thành. Hành vi đó xâm phạm đến hai khách thể
của luật hình sự.
Về mặt lý luận, xuất phát từ quan điểm nêu trên của thực tiễn xét xử đối
với riêng một số loại tội phạm cụ thể, dƣới góc độ khoa học luật hình sự thì
vấn đề này hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau: Có một số quan điểm cho
rằng chỉ coi là tổng hợp thực tế về phạm nhiều tội trƣờng hợp các hành vi
phạm tội do một ngƣời thực hiện quy định trong các đĐiều luật khác nhau của
phần các tội phạm của Bộ luật hình sựBLHS. Tuy nhiên, qua thực tiễn xét xử
và qua nghiên cứu chúng tôi cho rằng quan điểm đó không phù hợp với công
cuộc đấu tranh phòng, chống phạm tội trong trƣờng hợp phạm nhiều tội ở
nƣớc ta hiện nay. Tôi đồng tình với quan điểm của GS.TSKH Lê Cảm là nên
quy định tổng hợp thực tế về phạm nhiều tội cả những trƣờng hợp mà các
hành vi phạm tội do một chủ thể thực hiện đƣợc quy định không những trong
các điều luật khác nhau (hoặc tại các điều khoản khác nhau của cùng một điều
nếu các đối tƣợng của tội phạm khác nhau) trong phần riêng của Bộ luật hình
sựBLHS (phần các tội phạm trong Bộ luật hình sựBLHS năm 1999), [10, tr.
397]
Ví dụ: Một công dân Việt Nam (nguyên một sỹ quan quân đội
chuyển ngành) đang công tác tại đại sứ quán nƣớc ta tại một nƣớc ngoài,
trong chuyến về phép tại Việt Nam thăm quê hƣơng đã tuyển mộ các thanh
niên của làng mình sang nƣớc sở tại làm lính đánh thuê và sau đó chính bản
thân ngƣời tuyển mộ cũng làm lính đánh thuê trong các lực lƣợng vũ trang
của nƣớc sở tại ấy. Sau đó, đƣợc tung về Việt Nam để đánh nhau thì bị bắt giữ
tại biên giới nƣớc ta và đã bị Tòa án Việt Nam đƣa ra xét xử cùng một lần về
hành vi phạm nhiều tội (vì những hành vi mà ngƣời đó thực hiện đã có đầy
đủ các dấu hiệu của hai cấu thành tội phạm độc lập và chúng đƣợc quy định
22
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
trong khoản 1 và khoản 2 Điều 344 Bộ luật hình sựBLHS, Ttội “tTuyển mộ
lính đánh thuê và làm lính đánh thuê”).
Thực tế cũng có quan điểm cho rằng trong những trƣờng hợp khi bị cáo
thực hiện liên tục hành vi phạm tội mà hành vi đầu tiên lại chứa đựng những
dấu hiệu của cấu thành cơ bản của tội phạm, còn những hành vi khác lại chứa
đựng những dấu hiệu của hành vi phạm tội nhiều lần, thì không đƣợc định tội
theo điều khoản có tình tiết phạm tội nhiều lần mà phải đánh giá theo trƣờng
hợp tổng hợp thực tế về phạm nhiều tội.
Qua phân tích ở những phần trên, qua thực tiễn xét xử án hình sự cho
thấy trong những thời điểm khác nhau bị cáo thực hiện hai hành vi phạm hai
hành vi phạm tội trộm cắp tài sản, phạm hai tội giết ngƣời, phạm hai tội hiếp
dâm….mà xét theo dấu hiệu pháp lý chúng hoàn toàn trùng nhau thì không
cần phải tổng hợp thực tế về phạm nhiều tội mà chỉ cần định tội danh theo
một điều luật tƣơng ứng của Bộ luật hình sựBLHS với tình tiết tăng nặng với
hành vi phạm tội nhiều lần.
Việc phân chia các dạng tổng hợp thực tế phạm nhiều tội cũng có nhiều
quan điểm khác nhau. Theo một số L một số luận án và tài liệu đã dịch của
Võ Khánh Vinh và Lê Văn Đệ thì đáng chú ý là quan điểm của nhà khoa học
luật hình sự ngƣời Nga A.S Nikiforôv chia tổng hợp thực tế về phạm nhiều tội
thành hai dạng và lấy cơ sở phân chia là mối liên hệ giữa các tội phạm làm
tiêu chí. Mối liên hệ giữa các tội phạm mà A.S Nikiforôv làm căn cứ là sự
biểu hiện tính bền vững của những đặc điểm thuộc về nhân thân ngƣời phạm
tội cùng loại. Theo quan điểm của ông thì mối liên hệ giữa những tội phạm sẽ
không có đƣợc nếu nhƣ giữa những tội phạm đó xuất hiện những bản chất
cùng loại của nhân thân ngƣời phạm tội. Trên cơ sở của tiêu chí đó, hai dạng
tổng hợp thực tế mà A.S Nikiforôv phân chia thành hai dạng là: Dạng tổng
hợp thực tế về phạm nhiều tội chứng tỏ sự ổn định, bền vững những đặc điểm
23
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
tiêu cực nhất định của nhân thân ngƣời phạm tội; dạng tổng hợp thực tế về
phạm nhiều tội không chứng tỏ sự bền vững những đặc điểm tiêu cực của
nhân thân ngƣời phạm tội. [. 15, tr. 19].(Trích dẫn nguồn tài liệu???)
Mặc dù vậy, sự phân chia tổng hợp thực tế về phạm nhiều tội thành hai
dạng căn cứ vào sự biểu hiện của các đặc điểm tiêu cực cùng loại hay khác
loại của nhân thân ngƣời phạm tội chỉ có ý nghĩa thực tiễn cho phép cá thể
hóa hình phạt và tổ chức quá trình cải tạo giáo dục ngƣời phạm tội, nếu để
giải quyết vấn đề về mặt pháp lý để xác định hành vi nào là thuộc trƣờng hợp
thực tế về phạm nhiều tội hay một tội đơn nhất phức tạp, thì việc phân chia đó
không có giá trị lắm. Việc phân chia nhƣ vậy chƣa nêu ra đƣợc những tiêu chí
cụ thể để giải quyết vấn đề tổng hợp thực tế về phạm nhiều tội.
Từ thực tiễn xét xử, và qua những vấn đề đã nêu ở trên, chúng ta có thể
chia tổng hợp thực tế thành hai dạng.
- Dạng thứ nhất: Tổng hợp thực tế về phạm nhiều tội là trƣờng hợp có
liên quan giữa một tội phạm này với một tội phạm khác;
- dDạng thứ hai: Tổng hợp thực tế về phạm nhiều tội là trƣờng hợp mà
các tội phạm không liên quan với nhau do cùng một chủ thể thực hiện.
Đối với dạng sau, do các tội phạm trong trƣờng hợp tổng hợp thực tế về
phạm nhiều tội không có liên quan với nhau và do cùng một chủ thể thực hiện
cho nên việc nhận dạng chúng không có gì khó khăn lắm. Ngƣợc lại dạng thứ
nhất có sự liên quan chặt chẽ giữa các hành vi phạm tội trong trƣờng hợp tổng
hợp thực tế về phạm nhiều tội cho nên việc nhận dạng trong trƣờng hợp này
gặp nhiều khó khăn.
Trong thực tiễn xét xử, việc đánh giá trƣờng hợp bị cáo phạm nhiều tội và
phạm tội đơn nhất, nhiều khi cũng có sự khó khăn, có cả sự nhầm lẫn. Do đó việc
xác định thế nào là tổng hợp trừu tƣợng, cũng nhƣ thực tế về phạm nhiều tội là
công việc rất khó khăn và phức tạp, các cơ quan tiến hành tố tụng khi gặp phải
Formatted: Font: 14 pt, Dutch (Netherlands)
Formatted: Dutch (Netherlands)
Formatted: Font: 14 pt, Dutch (Netherlands),
Not Highlight
Formatted: Dutch (Netherlands), Highlight
Formatted: Dutch (Netherlands)
24
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
những vụ án về trƣờng hợp này thì phải vận dụng đúng bản chất pháp lý của chế
định phạm nhiều tội làm căn cứ, để đƣa ra một quyết định đúng ngƣời, đúng tội,
với phƣơng châm: Không bỏ lọt tội phạm và cũng không làm oan ngƣời vô tội.
Từ phân tích ở trên, dƣới góc độ khoa học luật hình sự, có thể đƣa ra
định nghĩa về tổng hợp thực tế về phạm nhiều tội nhƣ sau: Tổng hợp thực tế
về phạm nhiều tội là những trường hợp khi một chủ thể thực hiện hai hay
nhiều hành vi phạm tội, với những hành vi đó cấu thành hai hay nhiều tội độc
lập được quy định trong các điều luật khác nhau, hoặc các khoản khác nhau
của một điều luật trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sựBLHS, xâm
phạm từ hai khách thể trở lên và bị cáo chưa bị xét xử lần nào trong số các
tội ấy.
1.3.2.2. - Tổng hợp trừu tƣợng về phạm nhiều tội:
Chế định phạm nhiều tội với tính chất là một dạng của nhiều tội phạm, từ
trƣớc đến nay vẫn chƣa bao giờ nhận đƣợc sự điều chỉnh chính thức bằng một quy
phạm riêng biệt nào trong phần chung Bộ luật hình sựBLHS Việt Nam, thực tế
chế định phạm nhiều tội, chỉ đƣợc nhà làm luật quy định tại một điều luật là
“quyết định hình phạt trong trƣờng hợp phạm nhiều tội”, tại Điều 41 Bộ luật hình
sựBLHS năm 1985 và Điều 50 Bộ luật hình sựBLHS năm 1999.
Tổng hợp trừu tƣợng về phạm nhiều tội đƣợc hiểu là những trƣờng hợp
khi một chủ thể thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội, mà hành vi đó
cấu thành từ hai tội phạm trở lên và các tội phạm đó đƣợc quy định tại các
điều luật khác nhau của phần các tội phạm của Bộ luật hình sựBLHS.
Bộ luật hình sựTrên thực tế cũng có quan điểm khác nhau về bản chất
của trƣờng hợp tổng hợp trừu tƣợng về phạm nhiều tội, nhƣ: Ttổng hợp trừu
tƣợng về phạm nhiều tội là trƣờng hợp bị can (bị cáo) thực hiện một hành vi
nguy hiểm cho xã hội, mà hành vi đó vi phạm một số quy phạm pháp luật
Formatted: Font: Not Italic, Dutch
(Netherlands)
Formatted: Dutch (Netherlands)
Formatted: Font: 14 pt, Not Italic, Dutch
(Netherlands)
Formatted: Font: Not Italic, Dutch
(Netherlands)
Formatted: Dutch (Netherlands)
25
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
hình sự. Tuy nhiên, nhƣ chúng ta đã biết, khi phân tích khái niệm phạm nhiều
tội cho thấy, phạm nhiều tội không chỉ đơn giản là một ngƣời thực hiện một
hành vi vi phạm hai hoặc nhiều quy phạm pháp luật hình sự mà thực ra đúng
nhất là hành vi nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra đó chứa đựng hai hay nhiều
cấu thành tội phạm độc lập, đƣợc quy định trong phần các tội phạm của Bộ
luật hình sựBLHS năm 1999.
Khi hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm,
đƣợc con ngƣời thực hiện một cách có lỗi dƣới hình thức cố ý hay vô ý, tác
động đến bằng hành động hay không hành động thông qua các yếu tố chủ
quan (lỗi), thì hành vi đó mang tính chất lỗi trở thành hành vi phạm tội và
chính vì vậy, dẫn đến hậu quả pháp lý, ngƣời có lỗi trong việc thực hiện tội
phạm phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên,
trên thực tế khi xét thái độ tâm lý đối với hành vi của một ngƣời đối với hậu
quả xảy ra, ngƣời đó có lỗi cố ý, còn đối với ngƣời khác xét thái độ tâm lý đối
với hành vi của một ngƣời đối với hậu quả xảy ra, ngƣời đó có lỗi vô ý. Ví
dụ: vì bực tức đối với Thanh mà Hà muốn đâm Thanh, Hà đã cầm một con
dao đến nhà Thanh, đi vào trong nhà, trong nhà lúc đó trời hơi tối, Thanh
đang đứng quay mặt vào trong giƣờng, thì Hà vung dao lên chém, tuy nhiên,
Trang vợ Thanh nhìn thấy và đẩy Thanh ra thì bị nhát dao của Hà đâm trúng
vào đầu, làm Trang bị tử vong tại chỗ. Nhƣ vậy, khi cầm dao đến nhà Thanh,
chủ ý của Hà là đâm Thanh làm cho Thanh bị thƣơng, tuy nhiên đã đâmchém
vào Trang, đối với Thanh thì Hà muốn đâm, còn hậu quả xảy ra Hà để mặc,
Hà chỉ biết đâm và gây thƣơng tích cho Thanh, còn đối với Trang thì không,
Trang chết là ngoài sự chủ định của Hà.
Theo GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa một hành vi phạm tội cấu thành nhiều
tội còn có thể xảy ra trong tác trƣờng hợp sau: (nguồn trich dẫn):
Formatted: Dutch (Netherlands), Highlight
Formatted: Dutch (Netherlands)
26
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
- Một hành vi phạm tội vừa thỏa mãn một cấu thành tội phạm cụ thể
này, vừa thỏa mãn một cấu thành của hành vi đồng phạm của một tội cụ thể
khác.
Ví dụ: Một cán bộ Hải Quan đã nhận hối lộ của đối tƣợng buôn lậu để
cho họ đƣa hàng hóa, tiền tệ trái phép qua biên giới. Trong trƣờng hợp này,
hành vi phạm tội của nhân viên Hải Quan vừa thỏa mãn dấu hiệu của cấu
thành Ttội “nNhận hối lộ” (theo Điều 279 Bộ luật hình sựBLHS 1999), vừa
thỏa mãn dấu hiệu của hành vi giúp sức trong Ttội “bBuôn lậu” (theo Điều
153 Bộ luật hình sựBLHS năm 1999) [66, tr.77]
- Một hành vi phạm tội đồng thời thỏa mãn hai cấu thành của hai hành
vi đồng phạm của hai tội khác nhau. Ví dụ: Một ngƣời cố ý cho ngƣời khác
mƣợn súng mà mình biết rõ là để chiếm đoạt tài sản bằng cách tƣớc đoạt tính
mạng của chủ tài sản. Trong trƣờng hợp này, hành vi phạm tội của ngƣời cho
mƣợn súng đồng thời thỏa mãn các dấu hiệu của hành vi đồng phạm Ttội
“gGiết ngƣời” (theo Điều 93 Bộ luật hình sựBLHS 1999) và của hành vi đồng
phạm Ttội “cCƣớp tài sản”, (Điều 133 Bộ luật hình sựBLHS 1999). [66,
tr.77].
- Một hành vi phạm tội còn có thể vừa thỏa mãn một cấu thành tội
phạm cụ thể này và vừa thỏa mãn tình tiết định khung của một tội khác, ví dụ:
Hành vi hành hung để tẩu thoát sau khi trộm cắp tài sản của công dân đã gây
thƣơng tích nặng cho chủ tài sản. Trong trƣờng hợp này, hành vi hành hung
vừa thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của Ttội “cCố ý gây thƣơng tích” (Điều
104 Bộ luật hình sựBLHS 1999), vừa thỏa mãn dấu hiệu của khung tăng nặng
Ttội “tTrộm cắp tài sản”, (điểm d khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sựBLHS
1999) [66, tr.78]
Trong trƣờng hợp phạm nhiều tội tổng hợp trừu tƣợng, hành vi phạm
tội của bị cáo có thể đồng thời là những hành vi thực hành của hai tội khác
27
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
Formatted: Font: Times New Roman, Dutch
(Netherlands)
nhau, có thể vừa là hành vi thực hành của tội này, vừa là hành vi đồng phạm
của tội khác, hoặc có thể đồng thời là hành vi đồng phạm của hai tội khác
nhau.
Trên thực tế thì một hành vi phạm tội đã thỏa mãn một cấu thành tội
phạm thì cũng đồng thời thỏa mãn cấu thành tội phạm kia. Thế nhƣng, trong
trƣờng hợp này, hành vi phạm tội tuy thỏa mãn nhiều cấu thành tội phạm
nhƣng không thể áp dụng tất cả các điều luật quy định các cấu thành tội phạm
đó mà chỉ đƣợc phép chọn một trong số đó để áp dụng, ví dụ:
- Quan hệ giữa trƣờng hợp bình thƣờng với trƣờng hợp tăng nặng hoặc
giảm nhẹ. Ví dụ: Quan hệ giữa Điều 93 (Ttội giết ngƣời) với Điều 94 (Ttội
giết con mới đẻ), với Điều 95 (Ttội giết ngƣời trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh), với Điều 96 (Ttội giết ngƣời do vƣợt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng) là quan hệ giữa tội giết ngƣời bình thƣờng và ttội giết ngƣời giảm
nhẹ; quan hệ giữa Điều 111 (Ttội hiếp dâm) với Điều 112 (Ttội hiếp dâm trẻ
em) là quan hệ giữa tội hiếp dâm bình thƣờng và tội hiếp dâm tăng nặng
Trong trƣờng hợp này, khi hành vi thoả mãn CTTP của tội tăng nặng hoặc
giảm nhẹ thì cũng thoả mãn CTTP của tội bình thƣờng nhƣng chỉ đƣợc chọn
CTTP của tội tăng nặng hoặc giảm nhẹ để áp dụng. [23, tr.86].
- Quan hệ giữa trƣờng hợp chung với trƣờng hợp riêng. Ví dụ: Quan hệ
giữa Điều 98 (Ttội vô ý làm chết ngƣời) với Điều 202 (Ttội vi phạm quy định
về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ - trong trƣờng hợp làm chết
ngƣời) là quan hệ giữa tội vô ý làm chết ngƣời chung và tội vô ý làm chết
ngƣời trong lĩnh vực cụ thể - lĩnh vực an toàn giao thông đƣờng bộ. Trong
trƣờng hợp này, khi hành vi thoả mãn CTTP trong lĩnh vực cụ thể thì cũng
thoả mãn CTTP chung nhƣng chỉ đƣợc chọn CTTP trong lĩnh vực cụ thể để
áp dụng . [23, tr.86].
Formatted: Font: 14 pt, Dutch (Netherlands)
Formatted: Dutch (Netherlands)
Formatted: Font: 14 pt, Dutch (Netherlands)
Formatted: Dutch (Netherlands)
Formatted: Font: 14 pt, Dutch (Netherlands)
Formatted: Dutch (Netherlands)
Formatted: Font: 14 pt, Dutch (Netherlands)
Formatted: Dutch (Netherlands)
Formatted: Font: 14 pt, Dutch (Netherlands)
Formatted: Dutch (Netherlands)
Formatted: Font: 14 pt, Dutch (Netherlands)
Formatted: Dutch (Netherlands)