Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

TIỂU LUẬN Phân tích ảnh hưởng của kế toán sáng tạo tới báo cáo tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (372.54 KB, 42 trang )

ĐẠI HỌC KINH TẾ -ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

CÔNG TRÌNH NCKH SINH VIÊN

PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA
KẾ TOÁN SÁNG TẠO TỚI BÁO
CÁO TÀI CHÍNH
Sinh viên : Nguyễn Khánh
Lớp : QH2011-E-TCNH-CLC

Hà Nội - 2013


PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA KẾ TOÁN SÁNG TẠO TỚI BÁO CÁO TÀI CHÍNH

Mục lục

2


PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA KẾ TOÁN SÁNG TẠO TỚI BÁO CÁO TÀI CHÍNH

Chương I: Kế toán sáng tạo là gì ?
1.1 Các khái niệm chính của kế toán sáng tạo










Kế toán cứng (Aggressive Accounting) : Những sự lựa chọn có chủ ý các hoạt
động kế toán dựa trên các nguyên lý kế toán nhằm mục đích đạt được kết quả
mong muốn, dựa trên GAAP.
Quản lý lợi nhuận( Earning Management ) : Những thao túng lợi nhuận để
hướng tới một mục tiêu đã được trước được thực hiện bởi các cấp quản lý và
các nhà phân tích của công ty, hoặc để làm lợi nhuận trở nên đẹp hơn.
Làm mềm lợi nhuận( Income Smoothing): Một dạng của Earrning
Management được tạo ra để tránh những lên xuống bất thường của thu nhập
nói cách khác là làm đẹp thu nhập, hoặc làm giảm thu nhập những năm thu
nhập cao nhằm dự trữ cho những năm thu nhập kém.
Gian lận báo cáo ( Fraudunt Reporting) : Cố ý sai sót trọng yếu hoặc thiếu sót
trong các báo cáo tài chính nhằm đánh lừa người sử dụng báo cáo.
Kế toán sáng tạo(Creative Accounting) : Tất cả các thủ thuật từ Aggressive
Accounting, Earning Mannagement, Income Smoothing.

1.2 Kế toán sáng tạo (Creative Accounting): Cách nhìn
chuyên gia
1.2.1 Khảo sát về hành vi kế toán sáng tạo
Việc quản lý lợi nhuận để tạo ra một số mục đích được định trước nhưng
lạm dụng việc sử dụng những thủ thuật này một các thái quá gây sai lầm cho
những phân tích báo cáo tài chính điều này sẽ trở nên là gian lận.
Vậy như thế nào là gian lận, vượt quá giới hạn của GAAP( Genaral
Accounting Accepted Principle ) thì được cho là gian lận kế toán.
Hai chuyên gia về Kế toán là Charles W. Mulford và Eugene E. Comiskey
năm 2000 ( The Financial Number Games) đã làm một nghiên cứu về kế toán sáng
tạo và đưa ra 20 hành vi kế toán sáng tạo, hỏi ý kiến 159 chuyên gia trong đó 59
người là học giả về kế toán, 30 người là giám đốc tài chính, 24 người làm phân tích

chứng khoán, 24 người làm quản lý quỹ tín dụng, 21 kế toán chuyên nghiệp và 36
3


PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA KẾ TOÁN SÁNG TẠO TỚI BÁO CÁO TÀI CHÍNH

thạc sĩ quản trị kinh doanh.Mục đích là phân loại những hành vi nào chỉ nằm trong
giới hạn của kế toán chưa vượt ra ngoài khuôn khổ của GAAP.
Hành vi 1 : Hợp đồng được ký, hàng được chuyển tới cho khách hàng được ghi
nhận nhưng hoàn toàn chưa có sự ghi nhận dự phòng hàng bán trả lại. Hành vi này
có số điểm là 2.62/4 vượt ra ngoài ranh giới của GAAP.
Hành vi 2 : Một công ty hàng không đánh giá “dài hơi” cho việc khấu hao tài sản
trên máy bay . Hành vi này có điểm là 1.65/4 hành vi được hầu hết các chuyên gia
đánh giá là một hành động nằm trong giới hạn của GAAP và cho rằng hành vi này
có thể chấp nhận được.
Hành vi 3 : Một công ty ô tô thêm vào khoản cho chi phí bảo hành một khoản lớn
trong khi thực tế khoản chi phí quá nhỏ. Hành vi này được coi là gian lận với số
điểm 3.48/4.
Hành vi 4 : Công ty đã đánh giá quá mức khoản chi phí dành cho tái cấu trúc để có
thể “ dự trữ” và chia nó cho các kỳ trong tương lai nhằm mục đích lợi nhuận dự
kiến của công ty. Hành vi này được cho là một hành vi gian lận với số điểm là
3.21/4.
Hành vi 5 : Công ty đẩy nhanh chi phí quảng cáo cho quý cuối cùng của năm
nhằm mục địch không vượt quá giới hạn của lợi nhuận mục tiêu và để tăng lợi
nhuận cho quý đầu tiên của năm sau. Hành vi này được các chuyên gia đánh giá
chỉ có tác dụng ngắn hạn. Mặt khác chi phí quảng cáo chiếm một phần nhỏ trong
tổng chi phí do đó hành vi này được 1.5/4 và nằm trong giới hạn cho phép của
GAAP.
Hành vi 6 : Nhà sản xuất mở rộng sản xuất , tăng thiết bị để vốn hoá chi phí hoạt
động trong hàng tồn kho. Hành vi này được chấm 1.97/4. Trong đó một chuyên gia

nhận định hành vi này tuy không ảnh hưởng tới GAAP nhưng có thể gây nhầm lẫn
và có thể dẫn tới lỗi trong báo cáo tài chính.
Hành vi 7 : Bán chịu nhiều vào cuối năm để có thể tăng doanh thu bán. Tất nhiên
hành vi này là hành vi chấp nhận được nếu có các khoản dự phòng phải thu được
ghi nhận. Hành vi này có điểm 1.59/4.
Hành vi 8: Kế hoạch tăng giá được sắp xếp cho năm sau nhưng được thông báo
cho năm nay. Hành động chấm điểm 1.13/4. Tất nhiên đây là chiến thuật kinh
4


PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA KẾ TOÁN SÁNG TẠO TỚI BÁO CÁO TÀI CHÍNH

doanh và hầu như không thể ngăn cản và nó hoàn toàn không trái ngược với
GAAP.
Hành vi 9 : Nhận đặt hàng của khách hàng sau khi kết thúc năm nhưng vẫn ghi vào
trong năm để tăng doanh số bán. Hành vi này có điểm 3.66 các chuyên gia cho
rằng đây là hành vi không phù hợp và chắc chắn vượt qua giới hạn GAAP trở
thành một hành vi gian lận.
Hành vi 10 : Sự chuyển hàng vào cuối năm bị làm trễ nhằm mục đích tăng doanh
số bán cho năm sau. Đây là hành vi được chấm 1.73/4. Thực ra đây là hành vi báo
cáo dưới mức của năm nay và báo cáo lên hoạt động của năm sau nhưng hành vi
này được cho phép trong khuôn khổ của GAAP.
Hành vi 11 : Một khoản đầu tư được bán và ghi nhận như một khoản tiền đặc biệt
và làm giảm tài sản. Hành vi này được cho điểm 1.27/4 với chú thích miễn là
khoản tiền này được công khai.
Hành vi 12 : Hàng được chuyển cho khách hàng chưa đặt hàng nhưng gần như
chắc chắn sẽ đặt hàng trong kỳ tới. Hành vi này được chấm điểm là 3.67 và được
nhận xét là một hành vi mơ hồ, không rõ ràng vượt quá xa GAAP và trở thành hình
thức gian lận.
Hành vi 13: Hàng được bán và chuyển cho khách hàng có nguy cơ rất cao. Hành

vi này nhận được ít sự phản đối hơn hành vi 12. Theo các chuyên gia việc ghi nhận
doanh thu theo GAAP yêu cầu đó là khoản có thể thu được nên đây là hành vi vượt
ngoài khuôn khổ, một số khác lại cho rằng hành vi này được cho phép nếu đi kèm
với một khoản dự phòng. Điểm cho hành vi này là 2.58/4 là mức vượt qua giới hạn
và gần với gian lận.
Hành vi 14 : Doanh thu được ghi nhận khi vẫn còn xảy ra tranh chấp với khách
hàng về các điều khoản chiết khấu hay hàng trả lại. Hành động này liên quan tới
quy định của GAAP được cho phép nếu như chắc chắn sẽ nhận được doanh thu có
thể đo lường được. Hành vi này được cho 2.87/4 và là một hành vi có thể gây ra
những sai lầm cho người sử dụng báo cáo tài chính.
Hành vi 15 : Hàng tồn kho cuối kỳ được báo cáo dưới mức thực tế vào cuối kỳ để
tránh những trách nhiệm về thuế. Tất nhiên đây là hành vi gian lận rõ ràng với số

5


PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA KẾ TOÁN SÁNG TẠO TỚI BÁO CÁO TÀI CHÍNH

điểm 3,87/4. Khi đánh giá dưới mức hàng tồn kho dẫn tới giá vốn hàng bán cao
hơn , lợi nhuận giảm và trách nhiệm thuế tất nhiên cũng giảm.
Hành vi 16 : Ghi nhận doanh thu khi mới có một phần của hàng hoá được giao
nhận. Hành vi 3.57/4 được đánh giá là vượt ngoài khuân khổ GAAP trở thành hành
vi gian lận.
Hành vi 17 : Ghi nhận doanh thu khi không có cơ sở chắc chắn về việc chấp nhận
hàng trả lại và có khả năng thanh toán của khách hàng, không có điều khoản rõ
trên hợp đồng. Hành vi có điểm 3.12 các chuyên gia cho rằng đây là hành vi vượt
khuôn khổ GAAP.
Hành vi 18 : Ghi nhận doanh thu khi chuyển hàng cho đại diện của công ty. Các
chuyên gia cho rằng chưa đủ cơ sở chắc chắn để ghi nhận doanh thu trong trường
hợp này. Nếu cố tình sẽ trở thành một hành vi gian lận, số điểm được đánh giá là

3.52/4.
Hành vi 19 : Ghi nhận doanh thu khi quyền trả lại của khách hàng được thoả thuận
bằng “ mặt”. Hành vi có điểm 3.2/4 đây là hành vi vượt qua GAAP và chạm tới
gian lận.
Hành vi 20 : Ghi nhận doanh thu cho hàng ký gửi trước khi chuyển hàng. Hành vi
được cho là gian lận với số điểm 3,61/4. Hành vi này được cho là có thể gây ra sai
sót và chưa thể ghi nhận doanh thu khi chưa chuyển hàng xong.
Kết luận : Nhìn vào khảo sát trên cho thấy ranh giới của GAAP, kế toán
sáng tạo cho phép và gian lận có những điểm khác nhau nhưng lại có một ranh giới
khó xác định cụ thể. Điều này tuỳ thuộc rất nhiều vào người đánh giá. Các trường
hợp có điểm cao trên 3 tất nhiên là những trường hợp gian lận rõ ràng nhưng
những hành vi kế toán sáng tạo có điểm 2.5 rất khó có thể xác định chính xác. Việc
làm rõ các hành vi này sẽ được trình bày trong các trang kế tiếp. Mặt khác số điểm
như trên chỉ là số điểm trung bình cho từng hành động. Có những hành động
chuyên gia này cho rằng nó là kế toán sáng tạo, nhưng chuyên gia khác lại cho
rằng đây chỉ là hành động bình thường dựa trên GAAP để có thể làm tăng lợi
nhuận. Để đánh giá được thực tế và khách quan có lẽ nên tìm hiểu xem những hành
vi đó có thể gây nguy hiểm như thế nào trên báo cáo tài chính.

6


PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA KẾ TOÁN SÁNG TẠO TỚI BÁO CÁO TÀI CHÍNH

1.2.2 Kế toán sáng tạo là có lợi hay có hại.
Cũng trong nghiên cứu này các chuyên gia được hỏi về điểm có lợi hoặc hại của kế
toán sáng tạo và đây là kết quả.
Các nhận xét cho là có hại
Ảnh hưởng
Bóp méo tình hình tài

chính
Thổi phồng hoặc làm giả
giá cổ phiếu
Thiệt hại về hình ảnh
công ty nếu bị phát hiện
Lý do khác

Số lượng
54

Phần trăm
45

33

27

8

7

26

21

Tổng số nhận xét

121

100


Ảnh hưởng

Số lượng

Phần trăm

Cân bằng lợi nhuận

16

24

Giá cố phiếu có lợi

15

23

Hợp lý hoá các dự báo

6

9

Các nhận xét cho là có lợi

Hợp lý hoá lợi nhuận mục 4
tiêu
Dữ bí mật những cách 9

quản lý
Lý do khác
16

6

Tổng nhận xét

100

66

14
24

Kết luận :Rõ ràng việc dùng kế toán sáng tạo là có cả hai mặt lợi và hại. Các
con số cũng chỉ ra lợi không bằng hại. Về lâu dài nếu việc làm ăn của công ty có
lợi nhuận lớn thì việc dùng kế toán sáng tạo trong một thời điểm nào đó là việc cân
7


PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA KẾ TOÁN SÁNG TẠO TỚI BÁO CÁO TÀI CHÍNH

bằng lợi nhuận có thể có lợi, nhưng nếu về lâu dài công ty hoạt động lỗ thì việc
tăng lợi nhuận của kỳ trước sẽ làm thiệt hại một cách đáng kể cho công ty. Nhiều
trường hợp công ty đã bị phá sản vì lạm dụng việc dùng kế toán sáng tạo.

1.3 Phân loại gian lận



Ghi nhận doanh thu trả trước hoặc doanh thu ảo

Doanh thu ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận nên việc sử dụng kế toán sáng
tạo thường bắt đầu với sự ghi nhận doanh thu. Ít nhất trong ngắn hạn việc ghi nhận
này làm cho công ty có bộ mặt đẹp với khả năng kiếm tiền rất cao.
Trong trường hợp này doanh thu được ghi nhận khi hàng chưa xuất xưởng.
Một hành động như vậy được coi là hành động ghi nhận trước doanh thu. Một
hành động mạnh bạo hơn đó là ghi nhận doanh thu trong tương lai với một đơn
hàng kỳ vọng. Hành động như vậy do thiếu sự đặt hàng nên được xem như một sự
ghi nhận doanh thu hư cấu. Trong nhiều trường hợp xác định doanh thu đó là sớm
hay doanh thu hư cấu không quan trọng bằng việc donh thu đó ảnh hưởng bao
nhiêu phần trong bảng báo cáo lợi nhuận.
Trong bản báo cáo thường niên của Midisoft.Corp 1994 công ty đã áp dụng
một chính sách ghi nhận doanh thu như sau : “Doanh thu bán cho các nhà phân
phối hoặc đại lý được tính khi hàng được chuyển”. Lúc chuyển hàng không chắc
hàng hoá sẽ được chấp nhận và rút cuộc hàng hoá đó đã trở lại công ty như một
khoản hàng bán trả lại, không có điều kiện về hàng bán trả lại trong hợp đồng, mặt
khác không có khoản dự phòng nợ . Bằng cách đó năm 1994 công ty đã báo cáo
vượt quá gần $811.000 .


Lợi dụng chính sách vốn

Ngoài việc sử dụng doanh thu ảo, các công ty có thể gia tăng lợi nhuận bằng
cách giảm chi phí.Ví dụ như kéo dài thời gian sử dụng của tài sản cố định hoặc vốn
hoá các khoản chi phí như chi phí quảng cáo, chi phí thuê kho bãi ... các khoản chi
phí này nếu phân bổ theo các năm thì sẽ làm giảm chi phí trong kỳ dẫn tới tăng lợi
nhuận.
American Software. Inc đã vốn hoá các khoản chi phí phát triển phần mềm
bao gồm chi phí test, chi phí code... sau khi đạt được tính khả thi cao. Tuy nhiên

các khoản chi phí này được phân bổ trong nhiều năm.
8


PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA KẾ TOÁN SÁNG TẠO TỚI BÁO CÁO TÀI CHÍNH

Ghi nhận sai tài sản và nợ
Trong phần này, khác với bên trên, công ty không sử dụng các loại tài sản có
chu kỳ mà sử dụng các tài sản như khoản phải thu, hàng tồn kho ...Chi phí và lỗ có
thể giảm thiểu bằng cách định giá quá cao tài sản đó. Ví dụ bằng cách định giá quá
cao khả năng thu hồi của các khoản phải thu dẫn tới tài khoản dự phòng các khoản
phải thu giảm xuống, chi phí hoạt động sẽ giảm xuống. Trong trường hợp của
Micro Warehouse thì công ty đã đánh giá sai giá hàng tồn kho và tài khoản phải
trả, giá vốn hàng bán dẫn tới đánh giá sai lợi nhuận hoạt động một khoản 47,3 triệu
USD .
 Gian lận với báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Thay vì sử dụng cách quản lý giao dịch được ghi nhận thì công ty lại sử
dụng một thủ thuật dựa trên kết cấu của báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh,
biến các khoản doanh thu không định kỳ trở thành “ thu nhập khác “, một khoản
doanh thu định kỳ, hay một khoản phí định kỳ được dán mác một khoản phí không
không định kỳ.
 Gian lận với báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Một công ty truyền tải khả năng kiếm tiền của mình không chỉ thông qua
bảng cân đối kế toán hay báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh mà còn qua báo
cáo lưu chuyển tiền tệ. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ chia thành 3 phần: dòng tiền
hoạt động , dòng tiền đầu tư và dòng tiền từ hoạt động tài chính . Bằng cách nâng
cao dòng tiền hoạt động công ty sẽ làm đẹp khả năng kiếm tiền từ hoạt động chính
của mình . Để nâng cao khả năng dòng tiền hoạt động công ty có thể phân loại một
số chi phí hoạt động thành chi phí đầu tư hoặc chi phí tài chính.



1.4 Chính sách kế toán - Vấn đề cực kỳ quan trọng
Thông qua các chính sách về kế toán của công ty có thể đạt được lợi nhuận
mục tiêu. Các chính sách về doanh thu, vốn hoá, ghi nhận tài sản nợ có thể làm
thay đổi hoàn toàn những con số trên báo cáo tài chính. Trong phần này giới thiệu
một số điểm trong chính sách kế toán từ đó công ty có thể thực hiện được hành vi
kế toán sáng tạo.

1.4.1 Chính sách tính giá hàng tồn kho
Việc đưa ra chính sách về tính giá hàng tồn khó LIFO hay FIFO hay bình
quân gia quyền ảnh hưởng lớn tới việc tính giá cũng như những chính sách về thuế.
Điều này là không phải bàn cãi đối với bất kỳ công ty nào.

9


PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA KẾ TOÁN SÁNG TẠO TỚI BÁO CÁO TÀI CHÍNH

1.4.2 Chính sách ghi nhận doanh thu
Các công ty có chính sách ghi nhận doanh thu khác nhau có thể dẫn tới việc
trong kỳ đó họ nhận được doanh thu khác nhau. Phân tích chính sách ghi nhận và
bào cáo doanh thu của công ty cùng ngành 1991:
BMC Software (thuyết minh BCTC 1991) : Doanh thu được ghi nhận dựa
trên hoá đơn hoặc hợp đồng đã ký.
American Software, Inc ( thuyết mình BCTC 1999) : Doanh thu được ghi
nhận 80% doanh thu dựa trên việc chuyển phần mềm tới hệ thống, 10% sau khi
chuyển phần mềm tới cái tính và 10% sau khi đối tác cài đặt.
Autodesk ( thuyết mình BCTC 1991) : Doanh thu được ghi nhân sau khi
chuyển hàng tới cho khách hàng.
Computer Associates International, Inc ( thuyết minh báo cáo 1991) : Doanh

thu được ghi nhận trên sau khi khách hàng ký hợp đồng và hàng được chuyển tới.
Dựa trên GAAP, doanh thu được ghi nhận khi chắc chắn có lợi ích về kinh
tế, nhưng việc vận dụng một cách mềm mại dẫn tới khác biệt đáng kể trong chính
sách kế toán của các công ty.
BMC ghi nhận doanh thu khi hàng chưa được chuyển, công ty không tính
tới việc đặt hàng bị huỷ bỏ điều này làm cho doanh thu trong kỳ tăng, ngược lại
Computer Associates International lại ghi nhận sau khi hàng được chuyển tới,
nhưng lại chưa ghi rõ khoản đánh giá về rủi ro nếu khách hàng trả lại hàng.

1.5 Tại sao lại tồn tại sự lắt léo
Câu hỏi đặt ra là tại sao lại tồn tại sự lắt léo dựa trên GAAP của các công ty
trong việc áp dụng chính sách kế toán. Câu trả lời không chỉ đơn giản là tại sao
SEC và FASB lại cho phép các công ty có thể lắt léo trong chính sách của mình.
Chính những quy đinh trong GAAP cũng cho phép chọn lưa để tạo ra lợi nhuận
mục tiêu. Ví dụ GAAP đưa ra 2 phương pháp ghi nhận giá vốn hàng bán FIFO và
LIFO trong đó LIFO sẽ gần với thật và có ý nghĩa hơn lợi thế thuế khiến những
công ty cân nhắc thực hiện theo LIFO, nhưng nếu lựa chọn FIFO sẽ làm tăng lợi
nhuận thuần. Hay trong việc ghi nhận hàng hoá đã được bán hay chưa, lấy ví dụ
về Sybase,Inc trong báo cáo thường niên 1998 : “Công ty có nói rằng sẽ ghi nhận
doanh thu hàng hoá trong điều kiện đơn hàng không bị huỷ và hàng được
10


PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA KẾ TOÁN SÁNG TẠO TỚI BÁO CÁO TÀI CHÍNH

chuyển”, điều này hoàn toàn có cơ sở để ghi nhận doanh thu. Nhưng nếu khách
hàng trả lại hàng vào kì kế toán sau thì các công ty sẽ làm như thế nào? - điều này
vượt quá khả năng GAAP. GAAP cho phép ghi nhận doanh thu khi có cơ sở chắc
chắn đạt được lợi ích kinh tế từ doanh thu, cụm từ “ chắc chắn đạt được” lại được
các công ty hiểu theo nghĩ khác nhau điều này phụ thuộc cả vào ngành nghề kinh

doanh.

1.6 Quản lý chặt chẽ nguyên lý kế toán những trường hợp
đặc biệt
Áp dụng kế toán sáng tạo không chỉ dừng lại ở việc sử dụng GAAP một
cách khéo léo. Trong dài hạn việc quản lý lợi nhuận và các chính sách kế toán
được sử dụng như một số trường hợp đặc biệt sau đây.

1.6.1 Dự trữ tiền kiếm được cho các kỳ sau ( Cookie jar reserve )
Một công ty có tỷ lệ tăng trưởng hằng năm là những con số ổn định thì sẽ
gây ấn tượng hơn rất nhiều so với những bản báo cáo mà ở đó là sự lên xuống thất
thường.
Trong một năm kinh doanh khó khăn, nợ xấu bị giảm xuống hoặc thời gian
sử dụng tài sản cố định được tăng lên để giảm chi phí và tăng lợi nhuận, lấy một
ví dụ là công ty SunTrust Banks, Inc. Công ty có những con số tăng trưởng đáng
lãi gần 12,5% trong năm 1994, 1995, 1996. Năm 1998, theo yêu cầu của
SEC( Securities and Exchange Commission) công ty phải báo cáo lại số liệu
trong 3 năm. Trong báo cáo thường niên 1998, chi phí dự phòng nợ xấu đã bị
đánh giá dưới mức trong 3 năm 1996,1995,1994 lần lượt là 40 triệu , 35 triệu , 25
triệu. Ảnh hưởng của hành động này là lợi nhuận kỳ tương ứng tăng những khoản
24.4 , 21.4 , 15,3 triệu. Mặt khác đều có những kỳ lợi nhuận tăng công ty buộc
phải có những kỳ báo lợi nhuận dưới mức thực tế để đảm bảo cân bằng điều này
có thể thực hiện được nếu công việc kinh doanh thuận lợi mặt khác sẽ hoàn toàn
bất lợi nếu công việc kinh doanh khó khăn. Đây chính là lý do quản lý lợi nhuận
còn được gọi là làm mềm lợi nhuận.

1.6.2 Big bath
Trường hợp với “big bath” cũng là một dạng đặc biệt quản lý thu nhập một
năm làm ăn không mong muốn, lợi nhuận kém, công ty chỉ muốn lợi nhuận trong
kỳ đó giảm và cắt đứt đà giảm trong các năm sau. Công ty sẽ làm cho năm tài

11


PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA KẾ TOÁN SÁNG TẠO TỚI BÁO CÁO TÀI CHÍNH

chính này trở nên tồi tệ hơn nữa để giảm dần chi phí cho các năm sau, và vì vậy
chi phí sẽ giảm dần vào các năm sau, lấy ví dụ như có thể tăng những chi phí đầu
tư và phân bổ chỉ trong một kỳ. Những năm sau nhờ khoản chi phí này công ty sẽ
làm giảm chi phí và tăng lợi nhuận các kỳ sau.

1.6.3 “Làm mềm” chi phí khó đo đếm
Trong báo cáo của Cisco Systems năm 1999( The financial Number Games) :
“Việc đánh giá chi phí R&D của công ty phụ thuộc vào sự ứng dụng của
công nghệ đang nghiên cứu trong tương lai, và lợi nhuận kiếm được thông qua
mua bán công nghệ này”
Cisco Systems sử dụng những ước tính kế toán trong việc đánh giá chi phí
R&D. Việc sử dụng các ước tính kế toán này trong kế toán là một thủ thuật làm
thay đổi lợi nhuận khi mà các ước tính kế toán được sử dụng một cách lạm dụng sẽ
dẫn tới lợi nhuận có thể thoải mái biến đổi theo mục đích của công ty. Chi phí
R&D là chi phí khó đo đếm và có thể đem ra làm biến đổi lợi nhuận thông qua
những ước tính kế toán.
Kết luận : Việc Quản lý lợi nhuận có thể thực hiện thông qua nhiều hình thức, tất
cả các hình thức quan lý lợi nhuận đều dẫn tới những biến đổi làm sai khác báo cáo
tài chính ciệc này cần được xem xét kỹ càng.

12


PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA KẾ TOÁN SÁNG TẠO TỚI BÁO CÁO TÀI CHÍNH


Chương II : Nhận biết hành vi sáng tạo
trong kế toán
2.1 Các trường hợp khác nhau
Hầu như các gian lận trong kế toán có thể phân loại vào 5 trường hợp: Ghi
nhận doanh thu ảo và trả trước, Ghi nhận sai tài sản và nợ, Phân bổ sai vốn và chi
phí, Gian lận khoản tiền trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, Gian lận luồng
tiền trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Một hành vi gian lận có thể thuộc cùng lúc 2
trường hợp.

2.2 Ghi nhận doanh thu trả trước và doanh thu ảo
2.2.1 Hành vi ghi nhận doanh thu ảo
Trong phần ghi nhận doanh thu sẽ có 3 trường hợp của kế toán sáng tạo bao
gồm: ghi nhận doanh thu khi chưa chuyển hàng, ghi nhận doanh thu khi không có
đơn đặt hàng và thứ 3 là ghi nhận phóng đại mức doanh thu.
 Trường hợp 1 : Ghi nhận doanh doanh thu nhưng chưa chuyển hàng
Ghi nhận doanh thu khi chưa chuyển hàng là trường hợp có hợp đồng
nhưng hàng chưa chuyển, doanh thu được ghi nhận vào thời kỳ trước khi chuyển
hàng , Twinlab Corp đã phải làm lại báo cáo năm 1997 và 1998 với lý do một vài
đơn đặt hàng của họ đã ghi nhận doanh thu nhưng hàng hoàn toàn chưa chuyển tới
người mua. Một ví dụ khác cho trường hợp này: Peritus Software Services đã có
hợp đồng trong 7-1997 công ty ghi nhận doanh thu trong 9-1997 nhưng tận tới
tháng 11-1997 hàng vẫn chưa được chuyển. Trong nhiều trường hợp công ty sẽ ghi
nhận doanh thu trong kỳ kế toán và chuyển hàng sau khi kỳ kết thúc. Trường hợp
nổi tiếng nhất trong việc ghi nhận doanh thu chưa chuyển hàng là Enrron .Corp.
Trường hợp của Enrron tập hợp quá nhiều hành vi kế toán sáng tạo và gian lận nên
sẽ được phân tích riêng.


Trường hợp 2 : Hàng được chuyển khi không có đơn đặt hàng


13


PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA KẾ TOÁN SÁNG TẠO TỚI BÁO CÁO TÀI CHÍNH

Digital Light-wave, Inc đã thực hiện ghi nhận doanh thu khi chuyển hàng tới
một nơi không có đơn đặt hàng. Trên thực tế không có công ty đặt hàng, hàng đã
trở lại và lợi nhuận đảo ngược.
Cuối năm 1998, Telxon Corp đã sát nhập với một đối thủ truyền kiếp của
mình là tập đoàn Symbol Technologies, Inc. Một cách nhanh chóng, Telxon đã đưa
ra một hợp đồng bắt Symbol mua lại toàn bộ công ty trước khi được quản lý về sổ
sách. Tình hình tài chính trong quý 3 có vẻ ổn khi mà doanh thu tăng 47% và lợi
nhuận tăng 13%. Symbol đã ngần ngại và đưa ra quyết định được phép đánh giá
đầy đủ về tình hình tài chính của Telxon trước khi mua. Điều này làm Telxon chùn
bước. Symbol đã nhìn thấy một khoản doanh thu $14 triệu đã được bán cho nhà
phân phối mà trong đó không xuất hiện người mua cuối cùng, nếu không có con số
doanh thu này có lẽ lợi nhuận của Telxon đã nhỏ hơn rất nhiều. Sau khi có sự đánh
giá này của Symbol, Telxon đã phải loại bỏ con số $14 triệu ra khỏi báo cáo của
mình.


Trường hợp 3 : Hành động phóng đại

Trong 2 trường hợp trên doanh thu được ghi trước thời hạn nhưng đều có
một căn cứ nào đó. Trường hợp sau đây ghi nhận doanh thu ảo không có cả hợp
đông lẫn sự chuyển hàng. Ví dụ, trong năm 1997 và 1998, quản lý bán hàng tại
Boston Scientific Corp., công ty đã ghi nhận doanh thu bán cho những khác hàng
ảo. Nhằm che dấu hành vi này công ty đã cho thuê kho, những khoản hàng hoá ghi
nhận ảo sau đó đã được “mua lại” bởi các khách hàng khác nhau. Một số trường
hợp khác các công ty ghi nhận doanh thu khi chuyển hàng cho các nhà cung cấp

không đặt hàng và hàng sẽ trở lại một thời gian sau đó khi mà doanh thu đã được
ghi nhận .

2.2.2 Làm sao phát hiện doanh thu ảo
2.2.2.1 Hiều rõ chính sách công ty
Cần đọc kỹ và rõ ràng thuyết minh báo cáo của các công ty. Trong các
trường hợp đã nêu trên việc công ty ghi nhận doanh thu như thế nào được ghi rõ
trong các bản thuyết minh. Quan trọng nhất là việc xem doanh thu của công ty ghi
nhận là khi nào, đã cung cấp sản phẩm hay chưa, nó được công nhận tại thời điểm
giao hàng hay kết thúc hợp đồng. Mặt khác việc ghi nhận doanh thu của công ty
có kèm theo các khoản dự phòng, chi phí đào tạo, lắp đặt chưa, các khoản về giảm
14


PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA KẾ TOÁN SÁNG TẠO TỚI BÁO CÁO TÀI CHÍNH

giá khi khách trả lại hàng ... Tất cả các điểm này cần được làm rõ trong báo cáo tài
chính.
2.2.2.2 Xem các khoản phải thu
Doanh thu được ghi nhận trước hay doanh thu ảo thì hầu như là các khoản
chưa thu được điều này làm ảnh hưởng tới tài khoản phải thu và các chỉ số liên
quan. Nếu đem báo cáo tài chính ra phân tích điều này được thấy rõ nhất qua chỉ số
vòng quay khoản phải thu (Account Receivable Turnover Ratio) = Doanh thu /
Bình quân khoản phải thu. Chỉ số này càng thấp thì thì các khoản chưa thu được
càng cao, nếu một công ty có vấn đề về doanh thu thì khoản phải thu là vấn đề
đáng để xem xét, một chỉ số nữa là kỳ A/R days cho biết mất bao nhiêu ngày cho
một khoản phải thu, các công ty ghi nhận doanh thu trước hay doanh thu ảo khoản
này sẽ cao hơn bình thường. Sunbeam Corp sử dụng chính sách cứng trong kế
toán( Agressive Accounting), doanh thu bán tăng 18,7% trong năm 1997 kéo theo
tăng 38,5% các khoản phải thu và kỳ thu tiền tăng tới 92,3 ngày so với 79 ngày

năm 1997.
2.2.2.3 Phải thật kỹ lưỡng
Việc phân tích báo cáo tài chính qua các năm cũng khó có thể chỉ rõ được
hành vi kế toán sáng tạo.
Khi một công ty cố tình gian lận với việc ghi nhận doanh thu, tài khoản
phải thu chưa chắc đã tăng lên, thay vào đó là “các khoản khác” thay vào đó được
tăng lên. Việc tăng khoản phải thu được thay bằng việc tăng “các khoản khác”
chắc chắn không phải là tiền hay đầu tư vì các khoản này dễ dàng để xác minh
chính xác. Tài khoản có thể loại bỏ tiếp theo là hàng tồn kho. Thay đổi hàng tồn
kho dẫn tới thay đổi nhiều tài khoản khác nên có thể loại bỏ. Các tài khoản khả
dụng là máy móc, thiết bị, các khoản khó kiểm tra hơn. Để phát hiện các trường
hợp này cần theo dõi sự thay đổi bất thường trong các khoản tài sản.
Nhà đầu tư không những chỉ xem xét báo cáo của riêng một công ty đó mà
cần xem xét của tất cả công ty trong ngành để xem được những biến động trong chỉ
số, trong doanh thu có phải là biến động chung của ngành hay chỉ là biến động của
một công ty riêng biệt. Mọi điểm tăng giảm bất thường hoặc những điểm tăng quá
đều hoặc giảm quá đều đều phải được xem xét kỹ lưỡng không được bỏ sót.

15


PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA KẾ TOÁN SÁNG TẠO TỚI BÁO CÁO TÀI CHÍNH

2.3 Sử dụng chính sách vốn hoá
2.3.1 Gian lận khi vốn hoá
Việc sử dụng chính sách vốn hoá nhằm việc cắt giảm chi phí là việc rất
nhiều công ty đã làm. Nhưng việc thực hiện kế toán sáng tạo là khi những chi phí
“không được vốn hoá” được đem vốn hoá. Khi một chi phí được vốn hoá, việc
hạch toán giao dịch này sẽ được đưa vào bảng cân đối kế toán như một loại tài sản
không phải là một loại chi phí trên bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh,

điều này làm cho chi phí trong kỳ giảm xuống và lợi nhuận tăng lên. Việc sử dụng
chính sách vốn hoá còn làm thay đổi báo cáo lưu chuyển tiền tệ, khoản tiền được
vốn hoá sẽ thuộc dòng tiền ra của hoạt động đầu tư không phải dòng tiền ra của
hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều này làm biến đổi những phân tích của người
sử dụng. Vì lý do này, việc vốn hoá đem lại những lợi ích trong việc làm đẹp báo
cáo tài chính.
Sulcus Computer Corp đã thực hiện vốn hoá chi phí trong các năm 19911992. Công ty đã vốn hoá chi phí khi mua lại một công ty khác và phân bổ thành
nhiều kì. Nhiều chi phí khác cũng được vốn hoá như chi phí quản lý doanh nghiệp
hay chi phí trả trước, đây là điều mà Corrpro Companies, Inc đã làm. GAAP cho
phép những chi phí được vốn hoá là những chi phí liên quan tới xây dựng dở dang
hoặc đầu tư tài sản cố định. Các công ty thường vốn hoá những chi phí không liên
quan để làm đẹp báo cáo tài chính.
Trong các chuẩn mực kế toán Việt Nam việc vốn hoá chi phí được quy định
tại chuẩn mực số 16.

2.3.2 Phát hiện vốn hoá sai
Việc phát hiện sai phạm trong chính sách vốn hoá phụ thuộc vào nhiều yêu
tố và đặc trưng của ngành.
Vốn hoá chi phí trong những công ty liên quan tới phần mềm, quảng cáo,
marketing là những chi phí như nghiên cứu, test, ... .Nhưng những chi phí trong
những công ty xây dựng chế tạo máy móc bắt buộc là những chi phí xây dựng căn
bản, máy móc dở dang.
Việc vốn hoá chi phí phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhất là những yếu tố ngành,
từ đó chỉ có những lời khuyên chung cho các nhà đầu tư như sau:
16


PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA KẾ TOÁN SÁNG TẠO TỚI BÁO CÁO TÀI CHÍNH

Những lời khuyên cho người sử dụng báo cáo tài chính bao gồm :





Hiểu rõ chính sách vốn hoá của công ty
Kiểm tra chi phí vốn hoá
Kiểm tra khoản mục được vốn hoá

Các khoản mục được kiểm tra vốn hoá phụ thuộc rất nhiều vào kiểm toán.
Kiểm toán viên đóng vai trò lớn trong việc phát hiện sai phạm.

2.4 Ghi nhận sai tài sản và nợ
2.4.1 Ghi nhận sai tài sản
2.4.1.1Ghi nhận sai khoản phải thu
Khoản phải thu(Accounts receivable) là phần quan trong khi phát hiện một
doanh thu ảo. Ghi nhận không theo luật dẫn tới một khoản không thể thu trong tài
khoản này. Tài khoản này sẽ phát triển hơn cả doanh thu và đương nhiên A/R sẽ
nhiều hơn trung bình của ngành và các đối thủ cạnh tranh. Nếu ghi nhận tài khoản
phải thu thì một khoản dự phòng nợ xấu sẽ được trích lập. Khi mà có một phần
hoặc cả tài khoản phải thu không thể thu được thì khoản này được tính như một chi
phí và làm giảm lợi nhuận. Doanh nghiệp muốn làm tăng lợi nhuận có thể báo cáo
giảm khoản dự phòng phải thu, nói cách khác báo cáo không chính xác giá trị ròng
của khoản phải thu. Một thời gian sau khi những khoản thực sự không thể thu xuất
hiện thì bắt buộc một khoản dự phòng phải thêm vào hoặc chi phí phải được ghi
nhận. Ví dụ trong năm 1999 Addvocat. Inc đã báo cáo trong bản báo cáo thường
niên của họ như sau :
“Khoản dự phòng phải thu khó đòi năm 2009 là 7 triệu tăng 4,6
triệu so với năm 1998 vì phải tăng cho các khoản nợ không đòi được
và tăng dự trữ cho các khoản nợ trong tương lai”
Một ví dụ của Việt Nam là công ty thép Tiến Lên. Công ty cổ phần Tập đoàn

Thép Tiến Lên (TLH) gây hoang mang cho nhà đầu tư với việc công bố lợi nhuận
ròng sau kiểm toán giảm gần 30%. So với kết quả trước kiểm toán, chi phí tài
chính của TLH tăng thêm 30,3 tỷ đồng do phải trích thêm dự phòng giảm giá đầu
tư chứng khoán dẫn đến lợi nhuận trước thuế giảm một lượng tương ứng. Dự
phòng giảm giá đầu tư chứng khoán ban đầu là 27,74 tỷ đồng đã tăng lên thành

17


PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA KẾ TOÁN SÁNG TẠO TỚI BÁO CÁO TÀI CHÍNH

hơn 58 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế của cổ đông công ty mẹ đạt 55,97 tỷ đồng,
giảm 22,8 tỷ (-29%) so với kết quả ban đầu là 78,8 tỷ đồng.
Thực ra nếu tìm cách làm tăng giá trị ròng của khoản phải thu thì việc luôn
tồn tại trong đó một khoản không đòi được và điều này vẫn làm tăng khoản phải
thu và làm cho kỳ thu tiền bình quân tăng lên vì vậy muốn phát hiện gian lận này
nên chú ý nhiều tới kỳ thu tiền bình quân như đã nói.
2.4.1.2Ghi nhận sai hàng tồn kho
Việc cố tình đếm nhầm hàng tồn kho cũng là một hành vi thực hành kế toán
sáng tạo. Không ít trường hợp đã xảy ra nhưng những trường hợp này có thể dễ
dàng phát hiện. Ví dụ Centennial Technologies, Inc đã thay đổi số thẻ hàng tồn
kho để có tình nâng cao số lượng hàng tồn kho. Nhưng các công ty không cần phải
cố tình đếm nhầm để tăng lượng hàng tồn kho của mình, có thể làm giảm giá vốn
hàng bán làm cho biên lợi nhuận tăng lên và lợi nhuận giữ lại cũng tăng.
Comptronix Corp trong năm 1980 đã giảm giá vốn và làm tăng một lượng hàng tồn
kho không có trong kho, lượng hàng tồn kho ảo này được chuyển thành tài sản như
thiết bị máy móc. Doanh nghiệp đã chuẩn bị một số hoá đơn giả của việc mua máy
móc này. Việc này được phát hiện khi xem xét kỹ lưỡng mối quan hệ giữa tài sản
và doanh thu.


2.4.2 Ghi nhận sai nợ
2.4.2.1Ghi nhận sai nợ trả trước(Accrued Expenses Payable)
Nợ trả trước là các khoản chi phí được ghi nhận nhưng chưa phải trả, điều
này dẫn tới một khoản nợ được ghi nhận trên bảng cân đối kế toán bao gồm những
khoản như : nghiên cứu chưa trả ,bảo hiểm chưa trả hay tiện ích,mua chưa trả. Khi
công ty có một khoản chi phí liên quan tới hoạt động kinh doanh được đánh giá
nhỏ hơn dưới dạng phát sinh trước, khi đó lợi nhuận tương lai từ hoạt động kinh
doanh sẽ được thúc đẩy. Khi một khoản chi phí khác được trả trước thì khoản nợ
này sẽ tăng hoặc khoản nợ này được thanh toán thì báo cáo lợi nhuận sẽ giảm
xuống.
Lấy ví dụ về Genaral Electric CO.trong năm 1998 đã đánh giá sai một khoản
tiền bảo hành cho “tua-bin khí” sử dụng trong nhà máy điện. Do lỗi thiết kế tuabin bị nứt dẫn tới một khoản chi phí thu hồi sản phẩm rất tốn kém. Chi phí thu hồi
và sửa chữa khoảng hơn 100 triệu USD đã được ghi nhận trước như là một một
18


PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA KẾ TOÁN SÁNG TẠO TỚI BÁO CÁO TÀI CHÍNH

vấn đề phát sinh được dự báo trước. Nó trở nên cần thiết để công ty ghi nhận là chi
phí đặc biệt và được tích như một khoản nợ phát sinh trước.
Khi nợ phát sinh trước bị đánh giá sai thì thì doanh thu có xu hướng tăng
nhưng nợ thì lại không tăng cùng một tỷ lệ. Lấy ví dụ như chi phí trả trước phải
nộp của MiniScribe Corp trong năm 1986 đã bị đánh giá thấp trong khi doanh thu
tăng 62% lên tới $184.9 triệu mà khoản bảo hành lại giảm. Điều này gây vô lý khi
các khoản doanh thu tăng mà bảo hành lại giảm.
2.4.2.2Khoản phải trả bị định giá sai ( Account Payable)
Khác với phải trả trước, khoản phải trả phổ biến hơn. Đó là khoản mà sau
khi mua hàng tồn kho công ty phải trả nhà cung cấp. Đánh giá sai khoản phải trả
trực tiếp ảnh hưởng tới hàng có thể cung cấp được.Nói cách khác đánh giá dưới
khoản phải trả dẫn tới đánh giá dưới giá vốn hàng bán điều này làm tăng lợi nhuận

của công ty. Nó giống như một hệ thống các tài khoản gian lận hơn là chỉ 2 tài
khoản. Guilford Mills thể hiện liên kết chặt chẽ giữa hệ thống tài khoản này. Mỗi
tháng đều có những người kiểm soát tới để thực hiện một điều chỉnh phù hợp trong
các khoản phải thu và giá vốn hàng bán bằng việc đơn giản đó là đếm sai số lượng.
Accounts payable days và Gross Profit margin là 2 chỉ số quan trọng khi
đánh giá sai khoản phải trả và giá vốn. Một cải tiến bất thường trong Profit Margin
là một dấu hiệu cho sự điều chỉnh sai giá vốn.
2.4.2.3Trường hợp đặc biệt
Repo là một trường hợp của ghi nhận sai nợ khi mà người bán vay tiền của
người mua và dùng tài sản của mình thế chấp bằng cách bán tạm cho người mua và
sẽ mua lại sau một thời gian nhất định với mức giá đã thỏa thuận trước. Chính vì
vậy, các giao dịch repo là giao dịch tài trợ vốn chứ không phải giao dịch bán tài
sản thực sự.
Tuy nhiên, Repo 105 là 1 thủ thuật kế toán trong đó doanh nghiệp coi khoản
vay ngắn hạn là một giao dịch bán đứt tài sản. Sau đó, doanh nghiệp có thể dùng số
tiền mặt thu được để trả nợ và như vậy giảm số thể hiện trên bảng cân đối kế toán.
Lehman Brothers đã giảm số nợ ngay trước khi công bố báo cáo tài chính
quý bằng cách sử dụng thủ thuật này. Năm 2008, Lehman Brothers phá sản và thủ

19


PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA KẾ TOÁN SÁNG TẠO TỚI BÁO CÁO TÀI CHÍNH

thuật Repo 105 bị phát hiện sau khi các cơ quan chức năng giám định sổ sách của
hãng.
Repo chứng tỏ một điều sau năm 2001 thì công nghệ kế toán sáng tạo ở Mỹ
đã không còn lúc nào cũng là ghi nhân sai tài sản và nợ thông qua các tài sản mà
nó thực hiện tinh vi hơn khó phát hiện hơn. Điều này nhà đầu tư hoàn toàn trông
cậy vào các kiểm toán viên để phát hiện ra sai sót. Tuy các hợp đồng repo này coi

khoản vay ngắn hạn là bán đứt nên tới thời điểm buộc phải có những dòng tiền
xuất ra ngoài. Điều này có thể thể hiện thông qua báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Nên
về lâu dài có thể phát hiện các hợp đồng repo này.

2.5 Kế toán sáng tạo trên báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh
Khi nhìn vào một báo cáo tài chính của một công ty có lợi nhuận hoạt động (
operating income ) lớn thì điều này có lợi cho quyết định đầu tư. Công ty có thể cố
tình cho lợi nhuận từ những giao dịch không thường xuyên trở thành lợi nhuận
hoạt động. Những hoạt động này theo quy định quả kế toán quốc tế:
Accounting Principles Board Opinion No. 30, Reporting the Results
of Operations
“Những sự kiện doanh thu không thường niên hoặc bất thường nên
được báo cáo như một phần riêng biệt của lợi nhuận hoạt động và những
ảnh hưởng của những giao dịch này nên được ghi trong thuyết minh báo
cáo tài chính”
Những khoản lợi từ tái cấu trúc, bán tài sản hay phí đặc biệt có là những loại
phổ biến trong lợi nhuận hoạt động nhưng những khoản lợi nhuận liên quan tới đầu
tư thì không nằm trong khoản này. Những khoản từ kiện tụng, dành được, liên
doanh liên kết cũng nằm trong lợi nhuận hoạt động và cả những khoản giảm tài sản
khác nữa. Thực tế nhiều khoản mục trong lợi nhuận hoạt động là những khoản mục
liên quan tới hoạt động nhưng không thường kỳ tức là không xuất phát từ hoạt
động sản xuất kinh doanh thông thường.
Chính vì điểm này nên thực tế ra con số của lợi nhuận hoạt động có thể ở
mức khiêm tốn hơn. Biện pháp tốt nhất để xem thực chất lợi nhuận hoạt động của
công ty là bao nhiêu là xem các thuyết minh và xem thực chất nó được ghi nhận
những khoản nào.

20



PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA KẾ TOÁN SÁNG TẠO TỚI BÁO CÁO TÀI CHÍNH

Doanh thu từ hoạt động chính là doanh thu chủ yếu của doanh nghiệp bao
gồm những khoản có chu kỳ và những khoản không có chu kỳ. Nếu chỉ tính những
khoản có chu kỳ như doanh thu từ hoạt động bán hàng thì con số lợi nhuận hoạt
động sẽ không như doanh nghiệp báo cáo. Việc này không ảnh hưởng tới kết quả
cuối cùng nhưng sẽ ảnh hưởng tới cách nhìn tổng thể của nhà đầu tư vào doanh
nghiệp kể cả khi đưa ra phân tích thì những con số này cũng không thể đạt mục
đích tối đa.
Từ đó nhà đầu tư cần biết được những khoản nào là doanh thu từ hoạt động
kinh doanh thuần, những khoản nào mang lại lợi nhuận nhưng lại không được tính
là hoạt động kinh doanh.

2.6 Gian lận trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ
2.6.1 Hành vi làm đẹp trên báo cáo lưu chuyển
Thực ra nhiều nhà đầu tư nhất là những nhà đầu tư nghiệp dư thường không
chú ý nhiều tới báo cáo lưu chuyển tiền tệ, nhưng khi phân tích một báo cáo tài
chính thì báo cáo lưu chuyển tiền tệ rất quan trọng. Khi thực hiện hành vi kế toán
sáng tạo với những hành vi gian lận như ghi nhận sai doanh thu, khoản phải trả,
phả nộp thì báo lưu chuyển tiền tệ lộ ra những điểm yếu từ đó có thể phát hiện
được gian lận, thúc đẩy lợi nhuận ghi nhận doanh thu ảo hay ghi nhận sai giá trị
hàng, thúc đẩy lợi nhuận gộp nhưng khó lòng thay đổi dòng tiền. Nếu chúng ta
nhìn ví dụ nổi tiếng nhất trong lịch sử kế toán là Enron thì từ năm 1997 khi lợi
nhuận luôn đạt mức cao trong cả 4 quý thì ngược lại dòng tiền tự do có tới 3 quý
âm.
Những báo cáo lưu chuyển tiền tệ cũng có thể bị làm đẹp điều này là đúng.
Báo cáo nghiên cứu của Broome [2004, pp.18-19] đã chỉ ra rằng, trong hầu hết các
vụ bê bối trên, đều thấy sự xuất hiện của ‘lỗi’ phân loại hoạt động trong Báo cáo
lưu chuyển tiền tệ, đặc biệt là tình huống phân loại nhầm dòng tiền ‘ra’ và ‘vào’

với mục đích ‘làm đẹp’ hoạt động kinh doanh và hoạt động đầu tư.
Ví dụ như đối với trường hợp của Tyco: Thực tế cho thấy năm 2001 và
2002, thu nhập trên cổ phiếu (EPS – Earning per Share) của Tyco giảm mạnh, do
đó Ban giám đốc của Tyco đã ‘hướng’ sự chú ý của nhà đầu tư và các chuyên gia
phân tích vào ‘dòng tiền tự do’ vô cùng dồi dào của mình. Ban giám đốc đã làm
21


PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA KẾ TOÁN SÁNG TẠO TỚI BÁO CÁO TÀI CHÍNH

mọi cách để tăng dòng tiền từ hoạt động kinh doanh, từ đó tạo nên ‘dòng tiền nhàn
rỗi’. Theo thống kê, Tyco đã thực hiện việc mua đi bán lại hợp đồng về ‘chuông
bảo vệ’, dòng tiền ra cho hoạt động này (hơn 800 triệu đô la Mỹ) được phân loại
vào hoạt động đầu tư, trong khi đó dòng tiền vào cho hoạt động này được phân loại
vào hoạt động kinh doanh.
Bên cạnh đó, Tyco thực hiện vay các cá nhân chủ chốt trong Công ty hàng
chục triệu đô la Mỹ, dòng tiền vào được phân loại là dòng tiền vào của hoạt động
kinh doanh thông thường. Sau đó Tyco dường như ‘quên’ các khoản vay, coi việc
trả nợ các khoản vay như một khoản ‘bồi hoàn’ cho từng cá nhân, và dòng tiền ra
này được phân loại vào hoạt động đầu tư.
Trường hợp của “Dynegy và Qwest Communications International”: Nửa
đầu năm 2002, Dynegy đã thực hiện lập lại Báo cáo tài chính 2001 với lý do phản
ánh tác động của giao dịch về mua bán khí gas tự nhiên phức hợp. Giao dịch này
(được Dynegy gọi là ‘round trip trade’) bản chất là hợp đồng trao đổi tài sản và
nguồn lực giữa Dynegy và một số công ty khác cùng lĩnh vực, theo đó Dynegy sẽ
thực hiện việc mua bán thông qua trao đổi nguồn khí tự nhiên với các công ty
khác. Với mục đích tăng doanh thu và lợi nhuận thuần, Dynegy đã hạch toán ‘khía
cạnh’ bán vào doanh thu thông thường, trong khi đó hạch toán ‘khía cạnh’ mua vào
hoạt động đầu tư, và từ đó nguồn tiền thu vào sẽ được hạch toán vào dòng tiền vào
của hoạt động kinh doanh thông thường, và dòng tiền chi ra sẽ được hạch toán vào

hoạt động đầu tư.
Qwest cũng thực hiện những ‘thủ thuật’ tương tự như Dynegy, chỉ khác là
Qwest thực hiện trao đổi tài sản (trong khi Dynegy trao đổi khí tự nhiên). Năm
2001, Qwest đã thực hiện trao đổi tài sản với rất nhiều công ty khác như Global
Crossing, FLAG Telecom Holdings, Cable & Wireless … với giá trị trao đổi khá
lớn (ví dụ với Global Crossing là gần 100 triệu đô la Mỹ).
Các hãng sản xuất ôtô như General Motor , Ford , Haley Davidson bán các
sản phẩm thông qua các đại lý mua buôn. Các hãng này có thể cho các đại lý vay
tiền, sau đó họ sử dụng số tiền này để mua ô tô của họ.Trên báo cáo lưu chuyển
tiền tệ năm 2003 của các hãng sản xuất ô tô này, khoản tiền cho các đại lý vay
được báo cáo là dòng tiền ra của hoạt động đầu tư và khoản tiền thu vào từ bán oto
22


PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA KẾ TOÁN SÁNG TẠO TỚI BÁO CÁO TÀI CHÍNH

cho đại lý thì được báo cáo là dòng tiền của hoạt động kinh doanh như vậy trong
tổng số 7600 triệu USD lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh của GM có
4.058 triệu USD thu từ các đại lý mua buôn của hãng theo phương thức IOU. Ford
có 2.878 triệu USD trong tổng 20.195, Haley có 134 triệu USD khoản tiền tương
tự trong 936 triệu USD lưu chuyển từ hoạt động kinh doanh của họ. Các nhà phân
tích cáo buộc các hãng sản xuất oto đã báo cáo lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động
kinh doanh quá với thực tế. ( Nguồn : Jonathan Weil . “Cash Flow Never Lies”)
Trường hợp của Adelphia Communication Corporation và WorldCom: Hai
công ty này lại có ‘thủ thuật’ khác để tăng dòng tiền thuần của hoạt động kinh
doanh thông thường, đó là vốn hóa chi phí nhân công (Adelphia đã vốn hóa gần 40
triệu đô la Mỹ tiền chi phí nhân công), từ đó dòng tiền ra đã được chuyển từ hoạt
động kinh doanh thông thường sang hoạt động đầu tư.

2.6.2 Đánh giá kế toán sáng tạo trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ

Những tình huống trên cho thấy tính hữu dụng của Báo cáo lưu chuyển tiền
tệ. Điều này có nghĩa là: Trong trường hợp cần thiết, doanh nghiệp rất dễ phân loại
sai luồng tiền, và hầu hết là tăng dòng tiền thuần của hoạt động kinh doanh thông
thường (bằng cách chuyển dòng tiền ra của hoạt động này sang hoạt động đầu tư,
hoặc chuyển dòng tiền vào của hoạt động đầu tư sang hoạt động kinh doanh thông
thường), người đọc báo cáo sẽ cảm thấy ‘yên tâm’ hơn khi nhìn thấy hoạt động
kinh doanh thông thường tốt (Báo cáo Kết quả hoạt động kinh doanh có lãi và Báo
cáo lưu chuyển tiền tệ với dòng tiền của hoạt động kinh doanh dương), đồng thời
với hoạt động đầu tư đầy triển vọng (dòng tiền ra khá lớn, do đó có thể kỳ vọng
trong tương lai sẽ thu lại nhiều hơn). Nên nhà đầu tư cần xem xét những dòng nào
có thể là dòng tiền từ hoạt động kinh doanh .
Ngoài dòng tiền hoạt động kinh doanh thuần nên xem xét một cách tổng
quát cả dòng tiền từ hoạt động tài chính, dòng tiền hoạt động đầu tư và dòng tiền tự
do. Nếu một công ty thực hiện hành vi sáng tạo khi cố tình phân loại dòng tiền từ
hoạt động khác vào hoạt động kinh doanh thì dòng tiền tự do của công ty vẫn âm.
Xem xét thật kỹ các công ty có dấu hiệu gian lận trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ thì
dòng tiền đầu tư qua các năm âm và dòng tiền hoạt động không đủ để chi chả lại
khoản này trong nhiều năm. Từ đó dẫn tới phát hiện sai phạm.
23


PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA KẾ TOÁN SÁNG TẠO TỚI BÁO CÁO TÀI CHÍNH

2.7 Thu dọn tàn tích
Giả sử những báo cáo này chót lọt không bị phanh phui, thì “tàn tích” của
hành vi gian lận cũng sẽ phải được dọn dẹp. Các công ty ghi nhận doanh thu ảo,
hay ghi nhận sớm tiền không về hàng hoá bị trả lại. Kỳ sau sẽ gánh chịu và sẽ là
một canh bạc lớn nếu cứ tiếp tục chơi trò chơi này trong nhiều năm, Enron là ví dụ
điển hình khi chơi trò trơi này trong nhiều năm. Với Enron mọi chuyện sẽ không tệ
tới mức này nếu như họ công bố lỗ ngay từ những năm đầu.

Việc báo cáo lỗ sau nhiều năm lãi là trường hợp bất đắc dĩ khi thu dọn tàn
tích. Lợi dụng các thương vụ M&A để che dấu các khoản nợ là một cách hay hơn
để thu dọn. Thực ra đây là cách khôn ngoan khi mà thay bằng cho nhà đầu tư thấy
các khoản nợ trong sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp các thương vụ sát nhập
mua lại coi như là một khoản đầu tư để che dấu lỗ. Olympus – người khổng lồ của
ngành công nghệ Nhật Bản – đã có nhiều năm giấu lỗ bằng cách sử dụng phương
pháp này. Theo thông cáo của Olympus, hãng này chỉ phát hiện ra vụ gian dối khi
hợp tác với một ủy ban thứ ba để điều tra về các giao dịch bất minh trên liên quan
đến hợp đồng mua sắm thiết bị y tế của tập đoàn Anh trị giá 2,2 tỉ USD hồi năm
2008.
Trong gói chi trả này bao gồm khoản tiền tư vấn khổng lồ 687 triệu USD
cùng khoản tiền 773 triệu USD cho 3 công ty trong nước thực chất được sử dụng
để che giấu thua lỗ trong hoạt động đầu tư chứng khoán. Khoản đầu tư vào 3 công
ty trong nước đã hầu như bị xóa đi chỉ vài tháng sau khi hợp đồng kết thúc.

24


PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA KẾ TOÁN SÁNG TẠO TỚI BÁO CÁO TÀI CHÍNH

Chương III : Ứng dụng lý thuyết vào
phân tích đánh giá
3.1

Trường hợp Erron và công ty kiểm toán A&A

3.1.1 Giới thiệu và khái quát chung về erron
3.1.1.1Tập đoàn năng lượng Enron
Tên ban đầu là công ty Northern Natural Gas được thành lập năm 1931
tại Omaha Nebraka và được tái cơ cấu năm 1979 khi công ty này được sáp nhập

Holding Company Inter-North. Năm 1985 công ty mua lại Houston Gas Natural và
đổi tên thành tập đoàn Enron. Sau này chính CEO của Houston đã chuyển trụ sở
của Enron về Houston, Texas, USA. Enron ban đầu hoạt động trong lĩnh vực
truyền tải và phân phối điện, gas trên toàn nước Mỹ ; xúc tiến, xây dựng, đưa vào
hoạt động các nhà máy điện , các hệ thống đường ống khí thiên nhiên. Enron sở
hữu một mạng lưới lớn các đường ống khí thiên nhiên xuyên biển, xuyên biên giới
như: Northern Natural Gas, Florida Gas Transmission , công ty Transwestern
Pipenline cùng với 1 đối tác phía Canada.
Doanh thu của Enron chủ yếu thu từ các hoạt động trên và nó tài trợ cho
các hoạt động đầu tư mạo hiểm của Enron. Năm 1998 Tập đoàn này lấn sân sang
lĩnh vực cung cấp nước và thành lập tập đoàn Azurix. Tuy nhiên Azurix đã thất bại
thảm hại đặc biệt tại Bunos Aires. Thất bại này đã khiến Enron mất một khoản tiền
lớn. Tháng 8/2001 Enron có ý định phá sản Azurix và bán tài sản của tập đoàn này
đi. Trước khi sụp đổ năm 2001 Enron có khoảng 22000 công nhân và là một trong
những tập đoàn năng lượng dẫn đầu trong lĩnh vực cung cấp khí thiên nhiên, điện,
sản xuất bột giấy, truyền thông doanh thu năm 2000 đạt 111 tỷ USD.
Enron đã từng là một công ty năng lượng tăng trưởng nhanh và tự
chuyển đổi thành một tập đoàn năng lượng lớn nhất thế giới. Có thời kỳ Enron là
một trong 7 tập đoàn lớn nhất nước Mỹ xét về giá trị cổ phiếu trên thị trường
chứng khoán.Giá cổ phiếu của Enron lên đến đỉnh cao 90 đô la vào tháng 8/2000.
Một năm sau đó, vàotháng 10/2001 công ty thông báo lỗ 638 triệu đô la trong quý
3/2001 và giá trị vốn cổ đông giảm 1,2 tỉ đô la. Tháng 11/2001 giá cổ phiếu của
25


×