Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Vài câu hỏi ôn thi cuối kì đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.48 KB, 13 trang )

CÂU HỎI
Câu 1: Kinh tế tri thức là gì? Vì sao Đảng ta xem kinh tế tri thức là một yếu tố quan
trọng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và cả nền kinh tế?
Câu 2: Trình bày những đặc điểm mới trong chủ trương tiến hành công nghiệp hóa of
Đảng từ đại hội III đến đại hội V.
Câu 3: Vì sao vấn đề công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Lại là 2 vấn
đề quan trọng hàng đầu đối với các quốc gia mới tiến hành công nghiệp hóa. Liên hệ thực
tiển nước ta.
Câu 4: Phân tích những đặc trưng cơ bản ảnh hưởng đến việc hình thành và điều chỉnh
đường lối công nghiệp hóa của Đảng từ 1960 đến 1975.
Câu 5: thế nào là cơ chế kế hoạch hóa quan liêu bao cấp? Hậu quả của việc sử dụng cơ
chế này ở nước ta trong thời kì trước đổi mới là gì?
Câu 6: Thế nào là kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng XHCN? Điểm
khác và giống giữa kt thị trường TBCN và mô hình kt thị trường ở nước ta hiện nay.
Câu 7: Vì sao nói sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế trong thời kì quá độ lên XHCN
ở nước ta là một tất yếu khách quan.
Câu 8: Dựa trên cơ sở nào Đảng ta đưa ra lời tuyên bố chiến lược: “Việt Nam sẳn sàng
làm bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình
độc lập và phát triển”.
Câu 9: Trình bày động lực chủ yếu để phát triển đất nước trong giai đoạn mới?
Câu 10: Văn kiện Đại hội VIII nêu rõ phương hướng của công tác đối ngoại trong thời
gian tới là : “ Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng đa phương
hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các
nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển”. Hãy phân tích
nội dung trên.

ĐÁP ÁN
Câu 1: Kinh tế tri thức là gì? Vì sao Đảng ta xem kinh tế tri thức là một yếu tố quan
trọng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và cả nền kinh tế?
a. Kinh tế tri thức là nền kinh tế sử dụng chất xám trong mọi lĩnh vực, tri thức giữ
vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế. Trong nền kinh tế tri thức những ngành


kinh tế có tác động to lớn tới sự phát triển là những ngành dựa vào tri thức, dựa vào các
thành tựu mới của khoa học, công nghệ. Đó là những ngành kinh tế mới dựa trên công
nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và cả những ngành kinh tế truyền
thống như nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ được ứng dụng khoa học công nghệ cao.
b. Nước ta thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa khi trên thế giới kinh tế tri thức
đã phát triển. Chúng ta có thể và cần thiết không trải qua các bước phát triển tuần tự từ


kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp rồi mới phát triển kinh tế tri thức. Đó là lợi
thế của các nước đi sau. Vì vậy đại hội X của Đảng chỉ rõ: đẩy mạnh công nghiệp hóa
gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế
và của công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Câu 2: Trình bày những đặc điểm mới trong chủ trương tiến hành công nghiệp hóa of
Đảng từ đại hội III đến đại hội V.
Để thực hiện công nghiệp hóa tại đại hội III của Đảng (9/1960) nêu ra phương
hướng chỉ đạo xây dựng và phát triển công nghiệp là ưu tiên phát triển công nghiệp nặng
một cách hợp lý, kết hợp phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp, ra sức phát
triển công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, công
nghiệp nặng làm nền tảng, ra sức phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh
phát triển công nghiệp địa phương.
Đại hội lần thứ V của Đảng (3/1982) có những sự điều chỉnh rất đúng đắng mục
tiêu và bước đi của công nghiệp hóa. Tại đại hội V đã xác định chặng đường đầu tiên của
thời kì quá độ phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, phát triển công nghiệp hàng
tiêu dùng, việc xây dựng và phát triển công nghiệp nặng trong giai đoạn này cần làm có
mức độ, vừa sức, nhằm phục vụ hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
Những đặc điểm mới trong đại hội V là sự nhấn mạnh nông nghiệp là mặt trận
chính và công nghiệp nặng phải phục vụ hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ so
với đai hội III ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, công nghiệp nặng làm nền tảng, phát
triển công nghiệp nặng phải song song với phát triển nông nghiệp,công nghiệp nhẹ phát
triển song song với việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng

Câu 3: Vì sao vấn đề công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Lại là 2 vấn
đề quan trọng hàng đầu đối với các quốc gia mới tiến hành công nghiệp hóa. Liên hệ thực
tiển nước ta.
a. Khi tiến hành công nghiệp hóa thì khu vự nông nghiệp, nông thôn và sẽ gia tăng
khu vực công nghiệp, xây dựng, dịch vụ và đô thị. Nông nghiệp là nơi cung cấp lương
thực nguyên liệu, lao động cho công nghiệp và thành thị, là thị trường rộng lớn của công
nghiệp và dịch vụ. Nông thôn chiếm đa số dân cư ở thời điểm bắt đầu công nghiệp hóa.
Vì vậy quan tâm đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn là một vấn đề có tầm quan trọng
hàng đầu của quá trình công nghiệp hóa. Đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn là hai vấn đề quan trọng hàng đầu.
b. Liên hệ thực tiễn
Cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã có bước chuyển dịch tích cực theo
hướng đẩy mạnh sản xuất các loại nông sản có nhu cầu thị trường và có giá trị kinh tế
cao. Đối với ngành trồng trọt, năm 2014, sản xuất lúa được mùa cả 3 vụ trên phạm vi cả
nước, sản lượng đạt 45 triệu tấn, tăng gần 1 triệu tấn so với năm 2013; sản lượng ngô đạt
5,45 triệu tấn, tăng thêm được 250 nghìn tấn; sản lượng sắn tăng 6,3%...
Hầu hết các khâu làm đất, gặt, đập... đều được bà con sử dụng các loại máy. Trong
chăn nuôi, bà con đã tích cực ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và thực hiện tốt công


tác phòng chống dịch bệnh nên số đàn gia súc, gia cầm phát triển khá tốt, tỷ lệ bò lai, lợn
ngoại tăng dần hàng năm. Hiện tại, toàn tỉnh có 85,5%/tổng số đàn lợn là lợn có máu
ngoại, 32%/tổng số đàn bò là bò lai sind, sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 58.658 tấn,
tăng 4% so với năm 2012, nâng tỷ trọng chăn nuôi lên 43,8% tổng giá trị sản xuất nông
nghiệp.
Chăn nuôi khởi sắc, sản lượng các sản phẩm chính đều tăng (thịt hơi các loại tăng
2,7%, sữa tăng 15,6%, trứng tăng 3,8%), trong khi giá cả luôn ở mức khá cao. Xuất hiện
ngày càng nhiều cơ sở, trang trại chăn nuôi kiểu công nghiệp, áp dụng công nghệ cao, kỹ
thuật tiên tiến, hiệu quả cao. Ngành thủy sản được đặc biệt quan tâm, giá trị sản xuất năm
2014 tăng 6,8% so với năm 2013.

Khai thác thủy sản có chuyển biến mới theo hướng đẩy mạnh khai thác xa bờ, áp
dụng kỹ thuật và thiết bị tiên tiến để nâng cao giá trị, chất lượng và hiệu quả khai thác.
Bà con đã đầu tư mới nhiều loại tàu có công suất lớn phục vụ cho việc đánh bắt vùng
biển xa, bám biển dài ngày.Tổng số tàu khai thác thủy sản trên địa bàn tỉnh hiện có là
5.230 chiếc, trong đó có 989 chiếc có công suất 90CV trở lên. Lĩnh vực nuôi trồng thủy
sản đã khắc phục khá thành công những khó khăn về dịch bệnh. Sản lượng nuôi trồng
thuỷ sản năm 2014 đạt 3.413 nghìn tấn, tăng 6,1% so với năm trước. Sản lượng khai thác
hải sản là 50.706 tấn, đạt 115,2% kế hoạch. Sản lượng nuôi trồng thủy sản toàn tỉnh đạt
10.005 tấn (100% kế hoạch).
Trình độ khoa học, công nghệ trong sản xuất nông nghiệp, thủy sản từng bước
được nâng cao theo hướng sử dụng giống mới, công nghệ sinh học, phương thức canh tác
tiên tiến để nâng cao năng suất chất lượng nông sản, thủy sản.
Để phát triển nông nghiệp toàn diện, các địa phương đã chú trọng đến việc đầu tư
nâng cấp và quản lý các công trình thủy lợi, đồng thời xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ
sản xuất nông nghiệp. Toàn tỉnh hiện có 159 hồ chứa vừa và nhỏ, 215 đập dâng, 310 trạm
bơm với tổng dung tích các hồ chứa 562 triệu m3, bảo đảm tốt công tác tưới tiêu phục vụ
sản xuất nông nghiệp.
Câu 4: Phân tích những đặc trưng cơ bản ảnh hưởng đến việc hình thành và điều chỉnh
đường lối công nghiệp hóa của Đảng từ 1960 đến 1975.
Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc đặc điểm kinh tế miền Bắc, trong đó đặc
điểm lớn nhất là một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa, Đại hội III của Đảng đã khẳng định muốn cải biên tình
trạng kinh tế lạc hậu của nước ta không có con đường nào khác ngoài con đường công
nghiệp hóa XHCN. Khẳng định tính tất yếu của công nghiệp hóa đối với công cuộc xây
dựng CNXH ở nc ta.

Câu 5: thế nào là cơ chế kế hoạch hóa quan liêu bao cấp? Hậu quả của việc sử dụng cơ
chế này ở nước ta trong thời kì trước đổi mới là gì?
a. Thế nào là cơ chế kế hoạch hóa quan liêu bao cấp?
Thứ nhất: quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính. Các doanh

nghiệp hoạt động trên cơ sở các quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các


chỉ tiêu pháp lệnh được giao. Tất cả phương hướng sản xuất, nguồn vật tư, tiền vốn, định
giá sản phẩm, tổ chức bộ máy, nhân sự, tiền lương… đều do các cấp có thẩm quyền quyết
định. Nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch, cấp phát vốn, vật tư cho doanh nghiệp, doanh
nghiệp giao nộp sản phẩm cho Nhà nước. Lỗ thì Nhà nước bù, lãi thì Nhà nước thu.
Thứ 2: can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng lại không chịu
trách nhiệm gì về vật chất đối với các quyết định của mình. Những thiệt hại vật chất do
các quyết định không đúng gây ra thì ngân sách Nhà nước phải gánh chịu.
Thứ 3: quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị coi nhẹ, quan hệ hiện vật là chủ yếu. Nhà
nước quản lý kinh tế thông qua chế độ “cấp phát – giao nộp”. Hạch toán kinh tế chỉ là
hình thức.
Thứ 4: bộ máy quản lý cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả. Nhiều cấp trung gian
vừa kém năng động vừa sinh ra đội ngũ quản lý kém năng lực, quan liêu.
*Chế độ bao cấp được thực hiện dưới các hình thức chủ yếu sau:
+ Bao cấp qua giá: Nhà nước quyết định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng
hóa thấp hơn giá trị thực của chúng nhiều lần so với giá trị thị trường. Với giá thấp
như vậy, coi như một phần những thứ đó được cho không.
+ Bao cấp qua chế độ tem phiếu (tiền lương hiện vật): Nhà nước quy định
chế độ phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cán bộ, công nhân viên, công nhân theo
định mức qua hình thức tem phiếu. Chế độ tem phiếu với mức giá khác xa so với
giá thị trường đã biến chế độ tiền lương thành lương hiện vật, thủ tiêu động lực
kích thích người lao động và phá vỡ nguyên tắc phân phối theo lao động.
+ Bao cấp qua chế độ cấp phát vốn của ngân sách, nhưng không có chế tài
ràng buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn. Điều đó vừa làm
tăng gánh nặng đối với ngân sách vừa làm cho sử dụng vốn kém hiệu quả, nảy
sinh cơ chế “xin cho”.
b. Hậu quả của việc sử dụng cơ chế này ở nước ta trong thời kì trước đổi mới là gì?
Cơ quan quản lý nhà nước làm thay chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của

doanh nghiệp. Còn các doanh nghiệp vừa bị trói buộc, vì không có quyền tự chủ, vừa ỷ
lại vào cấp trên, vì không bị ràng buộc trách nhiệm đối với kết quả sản xuất.
Thủ tiêu cạnh tranh. Kìm hảm sự phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Thủ tiêu động lực kích thích người lao động.
Làm cho đội ngũ cán bộ công chức của cơ quan nhà nước trở nên quan liêu hách
dịch.

Khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển dựa trên cơ sở ứng dụng
các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại đã làm lộ rõ những khuyết điểm của cơ chế kế
hoạch hóa quan liêu bao cấp. Làm cho các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào tình trạng
khủng hoảng.


Câu 6: Thế nào là kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng XHCN? Điểm
khác và giống giữa kt thị trường TBCN và mô hình kt thị trường ở nước ta hiện nay.
a. Thế nào là kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng XHCN?
Kinh tế thị trường là một nền kinh tế trong đó việc phân bổ các nguồn lực kinh tế
và tài nguyên thiên nhiên như vốn, tư liệu sản xuất, sức lao động… phục vụ cho việc sản
xuất và lưu thông được thực hiện theo nguyên tắc thị trường (điều tiết bằng các quy luật
kinh tế: Cung – cầu, giá cả, cạnh tranh… ).
KTTT định hướng XHCN là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy định của
KTTT vừa được sự dẫn dắt bởi các định hướng XHCN với 4 tiêu chí sau đây:
 Một là, định hướng về mục đích phát triển: Bảo đảm cho mọi người đều
hưởng được thành quả của sự phát triển.
 Hai là, định hướng về phương hướng phát triển: Hình thành nhiều hình thức
sở hữu và nhiều thành phần kinh tế (KT Nhà nước, KT tập thể, KT có vốn
đầu tư nước ngoài…)
 Ba là, định hướng xã hội và phân phối: Tăng trưởng kinh tế gắn chặt chẽ và
đồng bộ với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo, giải quyết tốt
các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người.

 Bốn là, định hướng về quản lý: Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, vai
trò quản lý của nhà nước pháp quyền XHCN và vai trò lãnh đạo của Đảng.
b. Điểm khác và giống giữa kt thị trường TBCN và mô hình kt thị trường ở nước ta
hiện nay.
 Điểm giống nhau:
Những vấn đề cơ bản của nền kinh tế do thị trường quyết định. Nói cách khác đó
là nền kinh tế hàng hoá chịu sự điều khiển của cơ chế thị trường. Điểm giống: Những vấn
đề cơ bản của nền kinh tế do thị trường quyết định. Nói cách khác đó là nền kinh tế hàng
hoá chịu sự điều khiển của cơ chế thị trường.
 Điểm khác nhau:
1. Chế độ sở hữu:
Kinh tế thị trường định hướng XHCN có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế bao gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản
tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài) trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể càng ngày vững
chắc.
Kinh tế thị trường TBCN dựa trên chế đô sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Xem
quyền tư hữu đối với phương tiện sản xuất là thiêng liêng được xã hội và pháp luật bảo
vệ, sự chuyển đổi quyền sở hữu phải thông qua giao dịch dân sự được pháp luật và xã hội
quy định. Thành phần kinh tế tư nhân đóng vai trò quan trò năng động, thúc đẩy tính hiệu
quả của nền kinh tế TB, còn thành phần kinh tế nhà nước chủ yếu để giải quyết các vấn
đề xã hội đảm bảo công ăn việc làm cho lực lượng lao động.
2. Chế độ quản lý:


Kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự tổ chức, sự lãnh đao của Đảng Cộng
sản và sự quản lý của Nhà nước XHCN. Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
có vai trò rất quan trọng. Định hướng nền kinh tế thị trường bằng những chính sách kinh
tế vĩ mô và luật pháp, thực hiện các chương trình phát triển KT – XH trên cơ sở vận dụng
các quy luật giá trị và quy luật phát triển có kế hoạch cân đối nền kinh tế quốc dân, đưa

những tiến bộ khoa học – kĩ thuật hiện đại vào sản xuất, không ngừng nâng cao năng suất
lao động.
Kinh tế thị trường TBCN được điều hành bởi cá nhân và các doanh nghiệp tư
nhân, định hướng đến quyền lợi cá nhân nên kinh doanh trong kinh tế tư bản chủ nghĩa
về cơ bản là tự định hướng, tự điều hành, tự phát theo quy luật của thị trường tự do và
quy luật cạnh tranh.
3. Về phân phối thu nhập:
Kinh tế thị trường định hướng XHCN thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả
lao động, hiệu quả kinh tế, hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội đồng thời phân phối
theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác. Tăng trưởng kinh tế gắn với đảm bảo tiến
bộ và công bằng xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo. Hạn chế tác động tiêu cực của kinh
tế thị trường. Chủ động giải quyết các mối quan hệ giữa tăng trưởng với đảm bảo an sinh
và công bằng xã hội.
Có thể nói các yếu tố quyền tư hữu, thành phần kinh tế tư nhân, kinh doanh tự do,
cạnh tranh, động lực lợi nhuận, tính tự định hướng tổ chức, thị trường lao động, định
hướng thị trường, bất bình đẳng trong phân phối của cải là các khái niệm luôn gắn chặt
với nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Tuy đã có ý thức tự điều chỉnh, dung hòa lợi ích của các
giai cấp, tầng lớp để giảm bớt mâu thuẩn, song do nhiều nguyên nhân nhất là do sư chi
phối điều tiết của các quy luật kinh tế của CNTB, của lợi ích giai cấp nên sự điều tiết vẫn
còn nhiều bất cập.
4. Mục đích:
Kinh tế thị trường định hướng XHCN là phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn
liền xây dựng quan hệ sản xuất mới tiên tiến, thúc đẩy phát triển sức sản xuất, xã hội hóa
lao động, cải tiến kỉ thuật – công nghệ, góp phần làm giàu cho xã hội, nhằm phục vụ tốt
nhất lợi ích của đại số nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước, phát triển kinh tế
để phát triển cơ sở vật chất kỉ thuật, nâng cao đời sống nhân dân.
Cơ chế thị trường tư bản chủ nghĩa là việc tổ chức guồng máy kinh tế sao cho sự
vận hành của nó phù hợp với các quy luật kinh tế của CNTB, trong đó quy luật sản xuất
ra giá trị thặng dư giữ vai trò quyết định nhằm đem lại lợi nhuận tối đa cho các nhà tư
bản, các tập đoàn, các công ty xuyên quốc gia.


Câu 7: Vì sao nói sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế trong thời kì quá độ lên XHCN
ở nước ta là một tất yếu khách quan.
Kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH là tổng thể các thành
phần kinh tế cùng tồn tại trong một môi trường hợp tác và cạnh tranh. Mỗi thành phần
kinh tế tồn tại ở các hình thức tổ chức kinh tế với quy mô và trình độ công nghệ nhất


định. Các thành phần kinh tế được thể hiện ở các hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng,
đan xen hỗn hợp. Sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội trước hết chịu sự quy định của quy luật quan hệ sx phù hợp với tính chất và trình
độ của lực lượng sx.
Trong nền kinh tế chưa thực sự phát triển cao, lực lượng sx còn tồn tại ở nhiều
trình độ khác nhau, tương ứng với mỗi trình độ của llsx sẽ có một kiểu qhsx, do đó sẽ tồn
tại nhiều tp kinh tế. Đây chính là tính tất yếu khách quan của kinh tế nhiều thành phần.

Câu 8: Dựa trên cơ sở nào Đảng ta đưa ra lời tuyên bố chiến lược: “Việt Nam sẳn sàng
làm bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình
độc lập và phát triển”.
Chính sách đối ngoại của của Việt Nam với mục tiêu chính của chính sách đối
ngoại là giữ vững độc lập chủ quyền, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững hòa bình và
tạo lập môi trường quốc tế thuận lợi, tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của quốc tế, nâng
cao uy tín sức ảnh hưởng của việt nam trên thế giới.
Xu thế hòa bình ổn định, hợp tác và phát triển là một xu thế lớn, phản ánh sự đòi
hỏi bức xúc của các của các dân tộc trên thế giới. Các quốc gia lớn nhỏ đều tham gia
ngày cảng nhiều vào quá trình hợp tác, liên kết khu vực quốc tế về kinh tế, chính trị,
thương mại, và nhiều lĩnh vực khác.Việt Nam không ngoài các nước đó. Việt nam lưu ý
đến vấn đề tập hợp lực lượng quốc tế, tạo thế và lực cho đất nước trên trường thế giới,
chính sách đối ngoại là thân thiết tất cả các nước, không thù với một nước nào. Thúc đẩy
thế giới tăng cường hợp tác với Việt Nam, sự giúp đỡ phải đi liền với làm nhiệm vụ quốc

tế . Việt nam nâng cao ý thức độc lập tự chủ, chống sự áp đặt và can thiệp của nước
ngoài, ủng hộ nền hòa bình độc lập.
Câu 9: Trình bày động lực chủ yếu để phát triển đất nước trong giai đoạn mới?
Trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành
phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau. Mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp
xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với
lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nội dung chủ yếu của
đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo,
kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công. Ngăn chặng những
hành động tiêu cực đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù
địch.
Động lực chủ yếu phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh
giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá


nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế,
của toàn xã hội.

Câu 10: Văn kiện Đại hội VIII nêu rõ phương hướng của công tác đối ngoại trong thời
gian tới là : “ Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng đa phương
hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các
nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển”. Hãy phân tích
nội dung trên.
Tình hình thế giới trong những năm gần đây vẫn diễn biến rất phức tạp. CNXH ở
các nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổ khiến CNXH tạm lâm vào thoái trào. CNXH hiện
thực đứng trước nhiều khó khăn thử thách to lớn, song nước ta vẫn kiên trì mục tiêu tiếp
tục xây dựng đất nước đi lên CNXH. Trước những sai lầm các nước XHCN ở Đông Âu

và Liên Xô, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới xây dựng đất nước đi lên CNXH, trong
đó có việc đổi mới về đường lối đối ngoại. Trên cơ sở xác định, nhận thức đúng đắn vấn
đề của thời đại hiện nay, đánh giá đặc điểm tình hình thế giới và xu hướng chủ yếu trong
quan hệ quốc tế để đề ra được đường lối phát triển phù hợp cho đất nước, Văn kiện ĐH
VIII của Đảng đã chỉ rõ : “Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở
rộng đa phương hoá, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn làm
bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát
triển”. Quan điểm này của Đảng ta có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp CNH-HĐH đất
nước trong giai đoạn hiện nay.
I. Đặc điểm tình hình thế giới và xu thế quan hệ quốc tế tác động đến chính sách,
đường lối đối ngoại của các quốc gia trong đó có Việt Nam
1. Đặc điểm tình hình thế giới
Sau những biến cố chính trị ở các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô, tình hình thế
giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp chứa đựng những yếu tố khó lường
- Chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ khiến cho chủ nghĩa XH thế
giới tạm thời lâm vào thoái trào, song điều đó không làm thay đổi tính chất của thời đại,
loài người vẫn đang trong thời đại quá độ từ CNTB lên chủ nghĩa XH, những mâu thuẫn
cơ bản trên thế giới vẫn tồn tại, có mặt phát triển sâu sắc hơn, nội dung và hình thức biểu
hiện có nhiều nét mới. Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn ra với nhiều
hình thức. Cục diện quốc tế đang hình thành, các nước có chế độ chính trị khác nhau vừa
đấu tranh vừa hợp tác với nhau, mâu thuẩn giữa CNXH và CNTB đã chuyển biến từ đối
đầu trực tiếp sang đối thoại Điều đó đã tác động trực tiếp đến đường lối đối ngoại của
Đảng ta, buộc Đảng ta phải đưa ra đường lối đối ngoại đổi mới thích hợp nhằm thêm bạn
bớt thù để có điều kiện ổn định tình hình chính trị, xây dựng kinh tế xã hội.
- Cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng
cao, tăng nhanh lực lượng SX, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
thế giới, tạo ra xu thế quốc tế hóa nền kinh tế toàn cầu và đời sống xã hội. Quá trình toàn
cấu hóa đặt ra cho các đang phát triển những thời cơ và thách thức. Chính những thời cơ
và thách thức lớn mà cuộc cách mạng KHKT và CN tạo ra buộc chúng ta phải đổi mới
đường lối đối ngoại để hợp tác với các nước trên thế giới nhằm tiếp cận nhanh chóng,

tranh thủ được những thành tựu của khoa học công nghệ hiện đại tiên tiến, tạo điều kiện
đi tắt đón đầu để đẩy nhanh công cuộc phát triển đất nước


- Nguy cơ chiến tranh thế giới hủy diệt bị đẩy lùi nhưng xung đột vũ trang, chiến tranh
cục bộ, xung đột về dân tộc, sắc tộc và tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp
lật đổ, khủng bố vẫn xảy ra ở nhiều nơi. Cộng đồng thế giới đang đứng trước những vấn
đề có tính chất toàn cầu (bảo vệ môi trường, hạn chế sự bùng nổ dân số, phòng ngừa và
đẩy lùi những bệnh tật hiểm nghèo). Đó là những mâu thuẫn đang đặt ra có liên quan trực
tiếp đến toàn bộ nhân loại, mà không một quốc gia riêng lẻ nào có thể giải quyết được
nếu không có sự hợp tác đa phương. Điều đó đòi hỏi để tồn tại và phát triển phải có sự
xích lại gần nhau giữa các quốc gia để cùng nhau giải quyết.
- Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đang phát triển năng động với tốc độ cao nhưng
cũng tiềm ẩn những nhân tố gây bất ổn định.
2. Xu thế chủ yếu trong quan hệ quốc tế hiện nay :
Trước tình hình thế giới như vậy, Đảng ta đã nhận định xu thế chủ yếu trong quan hệ
quốc tế chủ yếu hiện nay đó là :
- Hòa bình ổn định và hợp tác để phát triển là xu thế chủ đạo trong quan hệ quốc tế
hiện nay. Đây là đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và các quốc gia trên thế giới.
- Các quốc gia lớn, nhỏ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác liên kết khu
vực và quốc tế. Hợp tác, liên kết ngày càng tăng nhưng cạnh tranh cũng rất gay gắt.
- Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, đấu tranh chống lại sự
áp đặt và can thiệp của nước ngoài, bảo vệ độc lập chủ quyền và nền văn hóa dân tộc.
- Các nước xã hội chủ nghĩa, các Đảng cộng sản và công nhân, các lực lượng cách
mạng tiến bộ trên thế giới vẫn kiên trì đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
toàn bộ xã hội.
- Các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau vừa hợp tác, vừa đấu tranh trong cùng
tồn tại hòa bình. Đây là xu thế rất mới, thể hiện rõ tính chất gay go, phức tạp của cuộc
đấu tranh giai cấp không phân tuyến trong giai đoạn hiện nay.
II. Quá trình hình thành đường lối chính sách đối ngoại

Từ những đặc điểm và xu hướng trên đã làm nảy sinh xu hướng đa phương, đa dạng
trong quan hệ quốc tế cũng như đã tác động đến việc hình thành đường lối chính sách đối
nội, đối ngoại của mỗi nước. Ở nước ta có thể nói việc hình thành đường lối đổi mới độc
lập tự chủ đa dạng hoá, đa phương hoá là một quá trình bắt đầu từ khi đảng ta ra đời
nhưng rõ nhất là từ Đại hội Đảng lần lần thứ VI.
1. Đại hội VI-1986:
Về hoàn cảnh quốc tế, đến thời điểm của đại hội VI của Đảng có một đặc điểm nổi bật
đó là chủ nghĩa xã hội hiện thực thế giới đã bộc lộ sự trì trệ cả về kinh tế và chính trị xã
hội. Về tình hình trong nước, ngoài những khó khăn chung của như các nước khác, nước
ta còn ba khó khăn lớn chưa được giải quyết đó là: Vấn đề Campuchia; vấn đề Mỹ cấm
vận và vấn đề quan hệ với Trung Quốc.Trong hoàn cảnh như vậy, Đại hội VI của Đảng
đã xác định các chủ trương lớn trong quan hệ quốc tế đó là: chủ trương thêm bạn bớt thù;
tiến tới bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và tiến tới bình thường hóa quan hệ với
Mỹ. Từ cuối nhiệm kỳ Đại hội VI, Đảng ta đã có những hoạt động đẩy mạnh quá trình
hoạt động quan hệ bình thường với Trung quốc, phá thế bao vây cấm vận của Mỹ chống
Việt Nam. Cuộc gặp gỡ cấp cao giữa Việt Nam và Trung Quốc tại Thành đô (Trung
Quốc) tháng 9-1990 đã mở đầu cho quá trình khôi phục quan hệ bình thường với Trung
Quốc, thực hiện đường lối đối ngoại trong sự nghiệp đổi mới. Có thể nói đại hội VI,
ngoài việc khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước còn là đại hội chuyển hướng và mở
cửa cho quan hệ ngoại giao của Việt Nam.
2. Đại hội VII-1991:


Về hoàn cảnh quốc tế, đến thời điểm Đại hội VII của Đảng, chủ nghĩa xã hội ở Đông
Âu đã tan rã, còn chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô sau 6 năm cải tổ đã gặp rất nhiều khó khăn
cả về kinh tế và chính trị xã hội. Về tình hình trong nước, sau 6 năm đổi mới chúng ta
vẫn giữ được sự ổn định chính trị xã hội và đạt được những kết quả bước đầu đáng kể
và rất quan trọng về kinh tế. Đại hội VII của Đảng (tháng 6/1991) đã nêu rõ đường lối
đối ngoại đổi mới của Việt Nam là độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ
quốc tế đối ngoại và tuyên bố: “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng

đồng quốc tế, phấn đấu và hòa bình, độc lập và phát triển”. Đại hội VII cũng chỉ rõ nhiệm
vụ của công tác đối ngoại là: “Giữ vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác
tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Góp phần tích
cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội.
3. Hội nghị trung ương lần thứ ba khóa VII-1992:
Hội nghị trung ương lần thứ khóa VII-1992 là Hội nghị tiếp tục và cụ thể hóa hơn nữa
đường lối chính sách đối ngoại của đại hội VII. Đến cuối năm 1991, chủ nghĩa xã hội đã
sụp đổ hoàn toàn cả ở Đông Âu và cả ở Liên xô. Phạm vi của chủ nghĩa xã hội thế giới bị
thu hẹp lại, chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thế thoái trào và ở vào hoàn cảnh khó khăn
nhất từ trước đến nay.
Hội nghị TW lần thứ ba khóa VII đã xác định tư tưởng chỉ đạo của công tác đối ngoại
là: “giữ vững nguyên tắc vì độc lập thống nhất và xã hội chủ nghĩa, đồng thời phải rất
sáng tạo, năng động, linh hoạt phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước
ta cũng như những diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đặc
điểm, từng đối tượng ta có quan hệ”.
Hội nghị trung ương 3 cũng chỉ rõ 4 phương châm của công tác đối ngoại là:
- Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước và
chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
- Giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hóa, đa phương hóa
quan hệ đối ngoại.
- Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế. Tránh hợp tác một
chiều, tránh đấu tranh một chiều và tránh trực diện đối đầu trong quan hệ quốc tế hiện
nay.
- Tham gia hợp tác khu vực và mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên thế giới.
Có thể nói Hội nghị trung ương lần thứ ba khóa VII, đường lối đối ngoại của Đảng ta
đã ngày càng được bổ sung, phát triển hoàn thiện
III. Đường lối chính sách đối ngoại hiện nay của Đảng ta
Nhìn chung, từ khi có những thay đổi trong đường lối chính sách đối ngoại qua 2 kỳ Đại
hội, có thể khẳng định rằng đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng ta là hoàn toàn đúng

đắn. Điều đó đã được kiểm nghiệm qua thực tiễn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới
toàn diện và 5 năm thực hiện NQ ĐH 7. Đại hội VIII đã khẳng định : đất nước ta đã vượt
qua một giai đoạn thử thách gay go trong hoàn cảnh hết sức phức tạp khó khăn, nhân dân
ta không những đứng vững mà còn vươn lên đạt được những thắng lợi nổi bật : đẩy lùi
âm mưu bao vây cấm vận, bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc và Mỹ, gia nhập
khối ASEAN, quan hệ tốt với các nước Đông - Tây âu, thu hút được nhiều vốn đầu tư của
nước ngoài và có quan hệ với trên 165 nước trên thế giới.
Với những thành tựu đã đạt được trong đường lối đối ngoại, trên cơ sở kế thừa và phát
huy những đường lối đúng đắn trong quan hệ đối ngoại, Nghị quyết Đại hội Đảng lần
VIII khẳng định phương hướng của công tác đối ngoại trong thời gian tới là : “ Tiếp tục
thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng đa phương hoá, đa dạng hoá quan


hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng
thế giới phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển” (VK ĐH VIII NXB CTQG 1996
trang 120).

1. Đại Hội VIII :
Trên cơ sở những thành tựu của công cuộc đổi mới và những thắng lợi của công tác
đối ngoại, Đại hội VIII của Đảng đã nêu rõ một số nội dung của đường lối chính sách đối
ngoại trong giai đoạn hiện nay.
- Về mục tiêu của công tác đối ngoại đến năm 2020 và 2000 của Đại hội VIII xác định
là: “mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động tham gia tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố
và nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế”.
- Nhiệm vụ của công tác đối ngoại trong thời gian tới là: “củng cố môi trường hòa bình
và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển KT – XH, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Góp
phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ XH”.
- Về phương hướng của công tác đối ngoại: “tiếp tục thực hiện động lực đối ngoại độc

lập tự chủ, mở rộng, đa phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại với tinh thần
Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa
bình, độc lập và phát triển”. Theo hướng đó, Đại hội VIII đã khẳng định công tác đối
ngoại có 4 trọng tâm là:
+ Ra sức tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức
ASEAN. Không ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống. Coi trọng
quan hệ với các nước phát triển và các tập trung kinh tế chính trị trên thế giới. Nêu cao
tinh thần đoàn kết anh em với các nước đang phát triển và với phong trào không liên kết.
+ Tăng cường hoạt động ở Liên Hiệp Quốc và các tổ chức quốc tế.
+ Phát triển quan hệ với các Đảng Cộng sản và công nhân, các lực lượng CM, độc
lập dân tộc và tiến bộ; mở rộng quan hệ với các Đảng cầm quyền và các Đảng khác.
+ Mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính phủ, tranh
thủ sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi của nhân dân các nước, góp phần thúc đẩy xu thế hòa
bình, hợp tác phát triển.
2. Đại hội IX
Tiếp tục đường lối đối ngoại đã đề ra, Đại hội Đảng lần IX đã khẳng định nhiệm vụ
đối ngoại là tiếp tục giữ vững môi trường hòa bình và tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi
để đẩy mạnh phát triển KT- XH, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc bảo đảm độc lập và chủ quyền quốc gia, đồng thời góp phần tích cực vào
cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình độc lập dân tộc dân chủ và tiến
bộ XH.
Đường lối của công tác đối ngoại giai đoạn này là:
- “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương
hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác đáng tin
cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình độc lập và phát
triển”. Việc đổi từ “muốn” thành từ “sẳn sàng” thể hiện đúng đắn mong muốn chân
thành của Việt Nam sẽ là bạn với những ai mong muốn là bạn với Việt Nam. Mặt khác,
chúng ta biểu thị thái độ trách nhiệm cao trong quan hệ với các nước sẳn sàng là đối tác



tin cậy của các nước, nghiêm chỉnh thực hiện mọi luật lệ và cam kết chung khi thiết lập
quan hệ đối tác, điều đó cũng có nghĩa là chúng ta yêu cầu các đối tác phải nghiêm chỉnh
thực hiện các hiệp định, cam kết đã thỏa thuận với chúng ta. Chỉ có như vậy mới quan hệ
lâu dài.
- “Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” để tạo điều kiện
phát triển đất nước đi lên trên con đường CNH-HĐH. Việc mở rộng quan hệ đối ngoại
được thể hiện bằng việc mở rộng quan hệ song phương và đa phương với các nước và
vùng lãnh thổ, các trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu
vực. Việc mở rộng quan hệ đối ngoại được thực hiện theo nguyên tắc tôn trọng độc lập,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thỗ, không can thiệp vào nội bộ của nhau, không dùng vũ lực
hoặc đe dọa dùng vũ lực; bình đẳng và cùng có lợi, giải quyết các bất đồng và tranh chấp
bằng thương lượng hòa bình; làm thất bại mọi âm mưu và hành động gây sức ép, áp đặt
và cường quyền. Chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” bắt nguồn từ nhận thức
về quá trình toàn cầu hóa với những tác động tích cực và tiêu cực của nó. Nhận thức rõ
xu thế ấy, Đảng ta luôn luôn coi hội nhập kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn ngày
càng nhiều nước tham gia mà trong đó Việt Nam muốn phát triển kinh tế tất yếu phải đi
theo con đường ấy. Cũng có ý kiến cho rằng Việt Nam không cần phải hội nhập hoặc từ
từ hãy hội nhập kinh tế quốc tế, điều này có thể sẽ dẫn đất nước đến cảnh “một mình một
chợ”, không bán được cho ai cũng không mua được gì của ai, điều đó chỉ gây thiệt thòi
cho đất nước mà thôi.
IV. Kết luận :
Có thể nói đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta nêu ra là sự tiếp tục của
đường lối chính sách đối ngoại đổi mới nhưng ở mức cao hơn. Vì trong quan hệ quốc tế
ta đã có bề rộng nay phải đi vào chiều sâu của công tác đối ngoại. Kết quả đối ngoại
những năm qua củng cố những bước tiến vững chắc của Việt Nam trên con đường đưa
phương châm “Việt Nam sẳn sàng là bạn và đối tác tin cậy của tất cả các nước” ngày
càng trở nên hiện thực.
Hoạt động đối ngoại góp phần quan trọng cho việc duy trì và củng cố môi trường hòa
bình và ổn định cho công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa. Phương cách của
Việt Nam xử lý các vấn đề mới nảy sinh xuất phát từ lợi ích và nguyên tắc đối ngoại của

chúng ta, đồng thời phù hợp với lợi ích chung của cộng đồng quốc tế. Hiệu quả phục vụ
phát triển kinh tế đã trở thành một trong những tiêu chí để đánh giá công tác đối ngoại.
Những hoạt động này đã góp phần không nhỏ để có những thành tựu trong những năm
qua. Kinh tế đất nước tiếp tục tăng trưởng, chúng ta tiếp tục duy trì được tốc độ tăng
trưởng GDP trên 7%/năm, thu hút được khoảng trên dưới 2 tỷ USD đầu tư/năm, số lượng
khách du lịch tăng trên dưới 8%/năm, đời sống mọi mặt của người dân được ổn định và
phát triển, phá được thế bao vây, cấm vận, chính trị xã hội ổn định, trật tự an toàn xã hội
luôn được nâng cao, đảm bảo. Củng cố được niềm tin của nhân dân đối với sự nghiệp đổi
mới xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội do Đảng ta khởi xướng và tổ chức thực
hiện. Chính nhờ thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, vị trí quốc tế của Việt Nam
được nâng cao, nhất là trong ASIAN. Thông qua diễn đàn ASIAN và các hiệp ước song
phương và đa phương, Việt Nam đã góp phần tạo thế cân bằng chiến lược chung và cơ
hội thuận lợi hơn cho các quốc gia Đông Nam Á trong quan hệ các nước EU, nhất là hợp
tác Á – Âu. Đối với Việt Nam, việc mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc
tế có một ý nghĩa quan trọng. Nó sẽ tạo ra những thuận lợi để Việt Nam mở cửa phát
triển giao lưu kinh tế, thương mại văn hóa song đồng thời cũng làm nảy sinh những khó
khăn mới, nhiều vấn đề phức tạp phải giải quyết như : cải cách thể chế, chính trị, kinh tế,


xã hội, đầu tư, luật pháp, thương mại, tài chính... trong từng thành viên và tổ chức quốc tế
mà Việt Nam gia nhập. Đồng thời, với vị thế cao trên trường quốc tế, chúng ta càng phải
chủ động, tích cực tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực và phải có trách nhiệm
tham gia giải quyết những vấn đề có tính chất toàn cầu, đồng thời phải tiếp tục mở rộng
quan hệ với tất cả các nước, các khu vực và các vùng đất còn lại mà ta chưa quan hệ trên
thế giới
Phát huy những thế mạnh và thành quả đã đạt được, khắc phục những điểm yếu còn
tồn tại trong đường lối đối ngoại, chúng ta tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng và
Nhà nước, với sự hợp tác chặt chẽ của các Bộ, ban Ngành và Tỉnh thành, với sự tham gia
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân lại được soi sáng bằng Nghị quyết ĐH IX, trang bị
bằng CN Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đối ngoại của ta đúng đắn của ta

sẽ hoàn thành tốt hai nhiệm vụ vừa bảo vệ toàn vẹn độc lập tự chủ cả về chính trị lẫn kinh
tế - văn hóa vừa xây dựng được một đất nước giàu mạnh, văn minh, dân chủ và công
bằng.



×