Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Tổng hợp tự luận môn chiến lược phát triển kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.92 KB, 25 trang )

Tổng hợp tự luận
Câu 1 (5 điểm) Hãy nêu tên một mục tiêu trong bản chiến lược phát triển kinh tế xã hội địa
phương mà bạn quan tâm. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc xác định mục tiêu (đã
nêu) trong bản kế hoạch đó từ phía các nhà quản lý, nhà lãnh đạo của địa phương
Trong QUYẾT ĐỊNH Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội
đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 do THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ Phê duyệt
bao gồm:
II. MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN
1. Mục tiêu tổng quát
Xây dựng, phát triển Hà Nội giàu đẹp, văn minh, hiện đại, tiêu biểu cho cả nước, đảm
bảo thực hiện chức năng là trung tâm chính trị, văn hoá, khoa học, công nghệ, giao thương và
kinh tế lớn của cả nước. Bảo tồn và phát huy giá trị tinh hoa văn hoá truyền thống của Thủ đô
ngàn năm văn hiến, xây dựng con người Hà Nội thanh lịch, văn minh, tiêu biểu cho trí tuệ và
truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam; thiết lập các cơ sở hàng đầu của đất nước về
nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ, văn hoá, giáo dục, y tế, thể dục thể thao. Có hệ
thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị đồng bộ, hiện đại, môi trường bền vững. Bảo đảm vững
chắc an ninh chính trị, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội; quan hệ đối ngoại được mở rộng, vị
thế của Thủ đô trong khu vực và quốc tế được nâng cao.
2. Mục tiêu cụ thể đối với giáo dục
- Phát triển giáo dục và đào tạo trở thành trung tâm đào tạo chất lượng cao của cả nước
và có tầm cỡ khu vực.
- Giữ vững và nâng cao vị thế hàng đầu của giáo dục - đào tạo, là nòng cốt cho xây dựng
văn hóa người Hà Nội, xây dựng xã hội học tập và tạo tiền đề phát triển kinh tế tri thức. Đào
tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công nghệ và trình độ phát triển của
các lĩnh vực, ngành nghề.
-Tiếp tục xây dựng, nhân rộng các trường chất lượng cao ở tất cả các bậc học, cấp học.
- Điều chỉnh phân bố mạng lưới các trường đại học, cao đẳng. Hình thành đô thị đại học
tại Hòa Lạc. Xây dựng hạ tầng kỹ thuật các khu đô thị đại học, quần thể các trường đại học
đồng bộ, hiện đại cả về kiến trúc lẫn hạ tầng tại khu vực Gia Lâm, Sóc Sơn, Sơn Tây, Xuân
Mai, Phú Xuyên, Chúc Sơn. Tập trung đầu tư phát triển các trường đại học xuất sắc, đại học
trọng điểm. Mở rộng đào tạo nghề; xây dựng một số trung tâm đào tạo nghề kỹ thuật cao.


- Các chỉ tiêu phát triển cơ bản đến năm 2020: Tỷ lệ học 2 buổi/ngày: Tiểu học đạt trên
90%; Trung học cơ sở đạt trên 50%; tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia 65 - 70%; 100% trường học
kiên cố hóa, tiến dần hiện đại hóa; 100% xã, phường, thị trấn có Trung tâm học tập cộng đồng.
Trong đó để đáp ứng các mục tiêu đề ra thì mục tiêu cụ thể là “đa dạng hóa nguồn tài
chính cho đào tạo đại học” là một mục tiêu cụ thể quan trọng phù hợp với mục tiêu phát triển
giáo dục tại Hà Nội. Vì nhu cầu tài chính cho giáo dục đại học (chủ yếu là các trường công
lập) ngày càng tăng cao tạo áp lực lên ngân sách Nhà nước. Chính vì vậy mà hiện nay nguồn
này đang được điều chỉnh giảm dần sao cho hợp lý và để các trường này có thể tự chủ tài
chính cho các hoạt động của mình, tạo cơ hội cho các cơ sở giáo dục đại học công lập nâng
cao tính chủ động, sáng tạo trong quản lý tài chính và tài sản của đơn vị, sử dụng NSNN được
giao tiết kiệm hiệu quả hơn. Tuy nhiên, điều này cũng gây khó khăn cho các trường công, vì


nếu không có biện pháp để thu hút được các nguồn tài chính khác, nhà trường sẽ rơi vào tình
trạng thiếu vốn, thu không đủ bù đắp chi thường xuyên… Bên cạnh, đó sự phát triển không
ngừng của hệ thống trường tư hiện nay sẽ đặt ra thách thức giữa các trường với nhau, đó là
phải cạnh tranh để thu hút sinh viên. Sự giảm chi NSNN đối với các trường công lập sẽ khiến
sự cạnh tranh này trở nên công bằng hơn, đòi hỏi nhà trường, các cơ sở giáo dục đại học, phải
cung ứng dịch vụ đào tạo, hỗ trợ tốt nhất với chi phí hợp lý nhất, người học theo đó cũng sẽ
được hưởng các lợi ích trực tiếp từ sự cạnh tranh này. Do vậy giải quyết được mục tiêu “đa
dạng hóa nguồn tài chính cho đào tạo đại học” sẽ tạo tiền đề cho việc thực hiện các mục tiêu
khác của giáo dục, đồng thời cũng giải quyết và phát triển lĩnh vựa giáo dục- đào tạo của Hà
Nội nói riêng và của cả nước ta nói chung.
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc xác định mục tiêu (đã nêu) trong bản kế hoạch đó
từ phía các nhà quản lý, nhà lãnh đạo của địa phương
I. các nhà quản lý, nhà lãnh đạo của địa phương về đào tạo đại học bao gồm
-. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục đại học.
-. Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà
nước về giáo dục đại học.
-. Bộ, cơ quan ngang bộ phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện quản lý nhà

nước về giáo dục đại học theo thẩm quyền.
-. Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện
quản lý nhà nước về giáo dục đại học theo phân cấp của Chính phủ; kiểm tra việc chấp hành
pháp luật về giáo dục của các cơ sở giáo dục đại học trên địa bàn; thực hiện xã hội hoá giáo
dục đại học; bảo đảm đáp ứng yêu cầu mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo
dục đại học tại địa phương.
- đội ngũ giảng viên tại địa bàn Hà Nội
Vậy đội ngũ quản lý địa phương ở đây là những cán bộ thuộc cơ quan quản lý nhà nước
về giáo dục (Bộ Giáo dục và Đào tạo, cơ quan ngang bộ và các cơ quan cấp thành phố) làm
nhiệm vụ điều hành, quản lý giáo dục bậc Đại học tại Hà Nội
Công việc của đội ngũ quản lý về đào tạo đại học: Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển giáo dục đại học; ban hành, tổ chức thực hiện
các văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục đại học, tiêu chuẩn nhà giáo, tiêu chuẩn cơ sở vật
chất, thiết bị; tổ chức bộ máy quản lý giáo dục đại học; huy động, quản lý sử dụng các nguồn
lực...
1.Ảnh hưởng của trình độ đội ngũ giảng viên
Chúng ta có thể hiểu đa dạng hóa nguồn tài chính đại học là làm cho nguồn tài chính
của trường đại học nhất định trở nên đa dạng. Ngày nay, mặc dù chính phủ là nhà đầu tư chủ
yếu cho giáo dục đại học ở hầu hết các quốc gia, ngày càng có nhiều nguồn tài chính khác
giúp chia sẻ chi phí này: người học, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội/phi chính phủ trong và
ngoài nước, sự tài trợ của quốc tế, … Bản thân các trường đại học cũng đang ngày càng nâng
cao khả năng tăng nguồn thu thông qua các hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, dịch vụ
cộng đồng,…


Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng và quyết định đến nguồn tài chính đại học, đặc biệt trong đó
chính là trình độ đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý và cơ sở vật chất của nhà trường. Chúng
góp phần vô cùng quan trọng đến không chỉ trong việc nâng cao chất lượng giáo dục mà còn
đa dạng hóa nguồn tài chính đại học.
Thứ nhất, muốn đầu tư cho trình độ nhân lực của quốc gia nói chung và cho địa phương

nói riêng, trước hết phải đầu tư cho giáo dục đại học vì đây chính là nguồn cung cấp chính cho
nhân lực chủ yếu chất lượng bài bản, như vậy trước hết phải đầu tư cho đội ngũ giáo viên. Các
loại hình đào tạo giảng viên liên kết xuyên quốc gia đã và đang ngày càng phát triển. Chiếm
một tỷ lệ không nhỏ trong tài chính đại học. Bên cạnh đó, chính trình độ của đội ngũ giáo viên
cũng là yếu tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư cho đại học của địa phương. Một trường đại
học có trình độ đội ngũ giáo viên cao sẽ luôn nhận được sự hỗ trợ lớn về mặt tài chính cũng
như các mặt khác để phát triển hơn nữa về giáo dục, nhằm đóng góp cho nước nhà.
Thứ hai, trình độ đội ngũ giáo viên luôn giữ vai trò quan trọng hàng đầu trong các
trường đại học. Họ luôn là nhân tố quyết định đến chất lượng giáo dục, chất lượng sinh viên
của trường. Trong việc đa dạng hóa nguồn tài chính đại học, trình độ của đội ngũ giáo viên lại
càng trở nên quan trọng hơn. Trước hết, sản phẩm của đại học chính là con người; với kiến
thức sâu rộng, uyên thâm, khả năng truyền đạt giỏi thì những giảng viên đại học sẽ đào tạo ra
những sinh viên giỏi không những về lý luận, mà cả khả năng nhạy bén, hòa nhập trong cộng
đồng để có thể đóng góp cho xã hội. Đây cũng chính là cơ sơ để các Doanh nghiệp tài trợ cho
đại học thông qua hỗ trợ nguồn lực tài chính để đổi lấy nguồn nhân lực trí thức cho hoạt động
sản xuất kinh doanh của mìnhDoanh nghiệp tài trợ cho đại học thông qua hỗ trợ nguồn lực tài
chính để đổi lấy nguồn nhân lực trí thức cho hoạt động sản xuất kinh doanh của minh.
Thứ ba, nguồn tài chính đại học được đa dạng hóa bằng các khoản thu từ học phí. Từ
xưa đến nay, tri thức luôn là tài sản vô giá, mà đội ngũ giáo viên là những người truyền đạt tri
thức, vậy nên công lao của họ bỏ ra là vô cùng to lớn. Bên cạnh đó, ngoài việc các giáo viên
giảng bài trên lớp, họ còn phải bỏ công sức tìm tòi, nghiên cứu các vấn đề về kinh tế - xã hội
trong nước, cũng như trên thế giới, để từ đó rút ra những kết luận, những bài học quí giá cho
sinh viên. Như vậy, tất phải có nguồn tài chính từ sinh viên.
Thứ tư, sự đầu tư từ các quĩ phát triển giáo dục, quĩ học bổng cũng góp phần không nhỏ
vào nguồn tài chính cho đại học. Mà trình độ các giáo viên của trường đại học nhất định cũng
ảnh hưởng tới việc các quĩ này có đến được với trường hay không. Bởi lẽ, các quĩ đầu tư này
được lập ra với mục tiêu duy nhất là phát triển giáo dục. Nếu một trường có trình độ giáo viên
không đáp ứng được tiêu chuẩn thì những người quản lý quĩ sẽ ít nhiều đánh giá thấp khả
năng tài trợ cho trường là có hiệu quả.



Thứ năm, hoạt động NCKH các cấp của trường cũng phần nào đóng góp vào nguồn tài
chính cho đại học. Như đã biết, đứng trước những biến động về kinh tế - xã hội, các cơ quan
nhà nước, các cấp các ngành ít nhiều cũng phải có sự tham khảo tới các trường đại học có
chuyên môn về từng ngành để tìm ra vấn đề cốt lõi và các giải pháp nhằm giải quyết triệt để
và hiệu quả. Và chính những đề tài NCKH các cấp của các trường đại học sẽ giúp điều này.
Không đơn thuần là giúp các nhà chức trách hiểu rõ vấn đề, mà bên cạnh đó còn giúp họ thành
lập những phương án tối ưu… Chính vì vậy, cần phải có một nguồn tài chính hỗ trợ đầu tư
phát triển hoạt động NCKH tại các trường đại học.
2.Ảnh hưởng của cán bộ quản lý
Có thể thấy, yếu tố con người luôn là yếu tố quyết định hàng đầu, chi phối trực tiếp vào
quá trình đào tạo trong trường đại học. Yếu tố con người không chỉ nói đến đội ngũ thầy cô
giáo mà bao gồm cả đội ngũ cán bộ quản lý. Để phục vụ cho một giảng viên đứng lớp phải
kèm theo một đội ngũ phục vụ từ khâu lên chương trình, thời khóa biểu, chuẩn bị cơ sở vật
chất, thiết bị giảng dạy…. Tức là có cả một đội ngũ phục vụ trong toàn hệ thống. Trình độ
chuyên môn của người thầy, năng lực nghiệp vụ của cán bộ phục vụ là then chốt. Nhưng con
người đó có chuyên nghiệp, có nỗ lực lao động không, điều kiện làm việc của họ có tốt không
sẽ tác động quan trọng đến chất lượng đào tạo.
Trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý ảnh hưởng tới việc đa dạng nguồn tài chính cho các
trường đại học, cụ thể:
Thư nhất, đối với nguồn đầu tư từ NSNN: Việc báo cáo kết quả và công tác hoạt động
của nhà trường cho cơ quan có chức năng, từ đó Nhà nước có cơ chế đầu tư 1 cách có hiệu quả
vào nhà trường trong việc cho ai ( cho con người, cho cán bộ hành chính, chi cho giảng dạy,
học tập và NCKK, chi cho sửa chữa trang thiết bị học tập) và như thế nào phụ thuộc rất nhiều
vào năng lực, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm quản lý của đội ngũ cán bộ quản lý và bộ
máy quản lý tổ chức của nhà trường. Và để làm được việc này cán bộ quản lý phải thực hiện
thống kê từ các trường đại học trên địa bàn Hà Nội về nhu cầu vốn, xác định ưu tiên đầu tư.
Công việc này cần cán bộ quản lý có kỹ năng làm công tác thống kê cũng như điều tra nhu
cầu.
Thứ hai,đối với sự hợp tác giữa nhà trường và các doanh nghiệp trong và ngoài nước:

việc hoạch định, xây dựng các khung đào tạo chung hướng đến nhu cầu thực tế của các doanh
nghiệp cũng như việc thường xuyên điều chỉnh chương trình đào tạo giúp sinh viên cập nhật
được xu hướng mới trong khoa học công nghệ đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp và xã
hội không những đòi hỏi chuyên môn cao, khả năng quản lý tổ chức tốt mà còn thể hiện được
tầm nhìn sâu săc, sự nhạy bén của các cán bộ quản lý. Việc tổ chức các cuộc hội thảo giữa các
doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo mang lại cho sinh viên những hiểu biết, trải nghiệm thực tế,
rất có ích cho việc vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Sự hợp tác với các DN sẽ làm tăng nguồn
tài chính như: hàng năm hỗ trợ cho các sinh viên nghiên cứu khoa học và trao học bổng cho
các sinh viên có thành tích xuất sắc.Việc này càng làm cho các sinh viên có động lực phấn đấu
và tạo mối quan hệ liên kết giữa doanh nghiệp và nhà trường.
Thứ ba, đối với các khoản thu từ các hoạt động, dịch vụ kinh doanh của trung tâm hỗ
trợ đào tạo
+Học phí: Cán bộ quản lý có những phương thức hiệu quả trong việc thu học phí như thanh
toán qua thẻ ATM, thu học phí từng kì, từng khóa vào các thời điểm khác nhau…


+Dịch vụ: đưa ra các phương án như kinh doanh gì trong Canteen, tổ chức các chương trình
mời tài trợ và việc cho thuê cơ sở vật chất…
Việc lên kế hoạch 1 các cụ thể sẽ giúp nhà trường hạn chể được các khoản chi không cần thiết
đồng thời mang lại các khoản thu cho các trường. . Trong nguồn thu từ học phí và lệ phí, nhà
quản lý ảnh hưởng đến việc ra quyết định về mức thu, về việc quản lý nhận nguồn thu này từ
các trường và sử dụng hiệu quả nguồn thu đó…
Việc thu học phí quá cao hay quá thấp đề gây ảnh hưởng xấu đến tài chính của giáo dục
đại học, nên trách nhiệm với đội ngũ quản lý là rất lớn trong việc nghiên cứu và đưa ra mức
khung, trần học phí.
Có thể nói nguồn tài chính thu từ học phí và lệ phí tuyển sinh đa dạng, số lượng nhiều,
khó kiểm soát nên yêu cầu cán bộ quản lý cần có chuyên môn vững vàng, minh bạch hóa được
thông tin đồng thời có đạo đức nghề nghiệp tốt, yêu nghề có khả năng phân tích đánh giá $ và
khả năng trình bày, báo cáo số liệu cụ thể rõ ràng.để tránh hiện tượng thất thoát, thâm hụt
nguồn tài chính.

Thứ tư, đối vơi các nguồn đầu tư từ các quỹ cá nhân: Tổ chức các buổi gặp gỡ cùng các
cựu sinh viên ra trường không chỉ với mục đích chia sẻ kinh nghiệm học tập, công việc kinh
doanh mà còn xây dựng quỹ ủng hộ như học bổng khuyến khích học tập , quỹ từ thiện với sinh
viên nghèo…
- Đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về đạo tạo đại học nếu đánh giá cao và tích cực hợp tác
với các tổ chức phi chính phủ để viện trợ như Quỹ Ford, Tổ chức đại học Pháp ngữ AUF, Tổ
chức GAP, Tổ chức Đông Tây Hội ngộ, Quỹ Buffet, Tổ chức Atlantic Philanthropies, Tổ chức
CRS, Tổ chức Save the Children, Quỹ Monsato, Tổ chức ICCO&Kerk in Actie, Quỹ
Rockefeller… sẽ thu được nguồn tài chính lớn cho việc xây dựng và phát triển hệ thống giáo
dục đào tạo đại học.Một vài ví dụ hiện nay có sự tài trợ cho một số dự án: : Dự án Xây dựng
Trung tâm Carlo Urbani do Trường Đại học Sassari, Italia tài trợ cho Trường Đại học Y Dược
đã được triển khai thành công và hiện nay Nhà tài trợ nhất trí tiếp tục tài trợ cho giai đoạn 3
của Dự án…
- Với năng lực phân tích cấu trúc và quản lý tổ chức và con người cùng sự nhạy
bén với môi trường các cán bộ quản lý sau khi thu hút được các nguồn tài chính từ trong và
ngoài nước sẽ phải sử dụng nguồn vốn 1 cách hiệu quả nhất tránh tình trạng lãng phí ,luôn cập
nhập môi trường để thay đổi 1 cách phù hợp nhất.
Thứ năm, đối với các nguồn thu khác:
+ nghiên cứu khoa học: Tổ chức cho sinh viên tham gia nghiên cứu, đồng thời nhận các khoản
hỗ trợ trong lĩnh vực nghiên cứu từ các DN, nhà nước để sinh viên có điều kiện nghiên cứu
cũng như tiếp xúc với vấn đề thực tiễn
+đầu tư từ nước ngoài:
Tham gia các cuộc hội thảo quốc tế trong nhiều lĩnh vực như khoa học, CNTT…trong quá
trình hợp tác được nhận viện trợ từ các quốc gia để tổ chức nghiên cứu xây dựng chương
trình đào tạo có chất lượng, nâng cao hệ thống CNTT…


Từ những tìm tòi, nghiên cứu về công nghệ sẽ đem lại nguồn thu lớn cho nhà trường cũng như
nguồn tài chính cho giáo dục đại học nói chung từ đó góp phần vào việc đa dạng hóa nguồn tài
chính cho giáo dụng đại học.

Trong hoạt động giáo dục luôn đi kèm theo đó là các dịch vụ khác, cán bộ có tầm nhìn,
cũng như kiến thức tốt sẽ thấy được và đề ra việc vận dụng các dịch vụ kèm đó đó để đem lại
nguồn thu cho giáo dục đại học, làm tăng nguồn thu mà không ảnh hưởng đến việc tăng giảm
nguồn thu khác.
- Đối với một đội ngũ quản lý giáo dục thiếu năng lực sẽ kìm hãm mọi sự phát triển của
hệ thống giáo dục nói chung, môi trường giáo dục lạc hậu, không có sự đổi mới, không tạo
được sự cạnh tranh không những không tạo ra được nguồn thu cho giáo dục mà còn làm mất
đi cơ hội phát triển trong tương lai.
3. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội:
+Tổ chức công bố Chiến lược; chỉ đạo xây dựng và tổ chức thực hiện các quy hoạch phát triển
ngành, lồng ghép mục tiêu, phương hướng và giải pháp thực hiện Chiến lược vào các quy
hoạch
+ Chủ động phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan
có liên quan trong việc xây dựng quy hoạch phát triển ngành, mục tiêu đã đề ra; phối hợp triển
khai thực hiện quy hoạch đã được phê duyệt;
+ Hướng dẫn, giám sát, kiểm tra, tổng hợp đánh giá tình hình thực hiện Chiến lược theo định
kỳ, báo cáo Thủ tướng Chính phủ và kiến nghị điều chỉnh, bổ sung Chiến lược khi cần thiết.
- Bộ Công Thương: Chủ trì, phối hợp với Thành phố Hà Nội và Bộ giáo dục-đào tạo,kết hợp
cùng bộ tài chính, trong phạm vi thẩm quyền của mình ban hành các cơ chế, chính sách, biện
pháp cụ thể để hoàn thành mục tiêu đề ra.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo: Chủ trì, phối hợp với Thành phố Hà Nội nghiên cứu, đầu tư nâng
cấp một số trường đại học xuất sắc và trọng điểm; lập quy hoạch di chuyển các trường đại học,
cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp ra khỏi khu vực nội thành, xây dựng các khu đô thị đại
học, làng sinh viên và ký túc xá sinh viên trên địa bàn, xây dựng các kế hoạch cụ thể để đạt
mục tiêu.
- Các Bộ, ngành Trung ương căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao có trách nhiệm phối hợp
chặt chẽ với Thành phố Hà Nội trong việc lồng ghép nội dung Chiến lược vào các quy hoạch,
kế hoạch 5 năm, kế hoạch hàng năm trong phát triển ngành giáo dụcđể đạt được mục tiêu hiệu
quả.
- Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cùng hợp tác, liên kết, phối hợp chặt chẽ với

Thành phố Hà Nội triển khai thực hiện Chiến lược, nhất là trong lĩnh vực giáo dục để thực
hiện mục tiêu không chỉ với địa bàn Hà Nội mà còn mở rộng mang mục tiêu toàn quốc.


Câu 2 (5 điểm) Hãy nêu tên một mục tiêu trong bản quy hoạch phát triển kinh tế xã hội địa
phương mà bạn quan tâm. Hãy cho biết những mục tiêu đó được xây dựng có dựa trên mong
muốn từ phía đối tượng thụ hưởng hay không? Vì sao?
Mục tiêu: Đa dạng hóa nguồn tài chính cho giáo dục đại học

Nguồn tài chính dồi dào hơn cho trường: Việc đa dạng hóa nguồn tài chính sẽ giúp tăng
số nguồn thu, qua đó tăng tổng nguồn thu tài chính của trường.

Giảm áp lực cho ngân sách Nhà nước: Hàng năm Nhà nước sẽ phải chi 1 khoản cho các
trường để duy trì hoạt động của trường. Việc giảm thiểu khoản này sẽ giúp ngân sách Nhà
nước giảm chi, chuyển ngân sách sang các lĩnh vực khác cần thiết hơn.

Tăng chất lượng đào tạo: Việc tăng nguồn thu ngân sách sẽ giúp trường có thêm kinh
phí để đầu tư trang thiết bị cơ sở vật chất, qua đó nâng cao chất lượng đào tạo cho trường.

Tăng quy mô đào tạo: Trường có kinh phí để mở rộng quy mô đào tạo cả về chiều
ngang lẫn chiều dọc. Tăng số sinh viên, học viên của các ngành, lĩnh vực đào tạo, tăng số hệ,
ngành để đào tạo.

Tăng tốc độ đào tạo: Do việc đáp ứng được cơ sở vật chất đầy đủ và chất lượng cho
việc học tập và giảng dạy nên thời gian đào tạo sẽ được đẩy nhanh hơn, không để cho tình
trạng phải đợi xếp lớp học, xếp giáo viên giảng dạy xảy ra.
Đa dạng hoá nguồn tài chính cho giáo dục đại học là hình thức thu hút các nguồn đầu tư
khác nhau đầu tư cho giáo dục ở cấp độ đại học. Để có một nguồn tài chính vững mạnh các
trường không thể chỉ dựa vào một nguồn thu duy nhất. Cũng giống như việc các doanh nghiệp
thưởng phải đa dạng hóa danh mục đầu tư của mình, các cơ sở giáo dục đại học cũng sẽ phải

huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau. Chính vì vậy, có thể khẳng định, đa dạng hóa tài
chính cho đào tạo đại học chính là tiền đề cho sự tồn tại của các trường nói riêng và hệ thống
giáo dục đào tạo đại học nói chung. Ta có thể nhận định rằng mục tiêu đa dạng hóa nguồn tài
chính cho đào tạo đại học luôn dựa trên mong muốn từ phía đối tượng thụ hưởng bao gồm
sinh viên của các hộ gia đình; đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý; các trường đại học; các
doanh nghiệp, tổ chức trong và ngoài nước; Nhà nước.


Việc đạt được mục tiêu đa dạng hóa nguồn tài chính cho đào tạo đại học sẽ làm tăng cường
ngân sách cho các trường đại học: việc đa dạng hóa các nguồn tài chính sẽ làm tăng tổng
nguồn ngân sách dùng để chi cho các hoạt động của trường đại học. Từ đó giúp nâng cao chất
lượng cơ sở vật chất đào tạo, hiện đại hóa trang thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập, điều
kiện để nghiên cứu khoa học được cải thiện. Qua đó chất lượng giáo dục sẽ ngày càng được
nâng cao. Điều này dựa trên mong muốn của các sinh viên, và trường đại học. Đa dạng hóa
nguồn tài chính là bước tiến quan trọng trong ngành đào tạo đại học, giúp cho đào tạo trở nên
chủ động trong việc đào tạo nguồn nhân lực theo yêu cầu của thị trường, thể hiện sự “thị
trường hóa” của ngành này. Tăng cường ngân sách cho các trường đại học


Việc đạt được mục tiêu đa dạng hóa nguồn tài chính cho đào tạo đại học sẽ làm giảm
gánh nặng cho NSNN điều này được xác định dựa trên mong muốn của Nhà nước.



Hàng năm, tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho giáo dục nói chung và đào tạo đại học công
lập nói riêng luôn chiếm một tỷ lệ không hề nhỏ ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên,
nguồn ngân sách nhà nước là có hạn, tốc độ tăng trưởng mỗi năm rất thấp, trong khi đó mỗi
quốc gia ngày càng có nhiều khoản chi khác cần phải sử dụng ngân sách. Vì vậy, nếu các
trường đại học có thể tự chủ về tài chính, đa dạng hóa được các nguồn thu thì gánh nặng ngân
sách nhà nước cho đào tạo đại học công lập sẽ được giảm bớt. Các quốc gia có thể tập trung

cho hoạt động khác nhờ việc giảm chi ngân sách cho đào tạo đại học. Nhất là ở các nước đang
phát triển thì việc đa dạng hóa nguồn tài chính là cần thiết vì vừa có lợi cho nhà trường trong
việc tự kiểm soát các hoạt động, vừa co lợi cho ngân sách nhà nước. Giảm gánh nặng cho
ngân sách nhà nước.


Nâng cao ý thức, trách nhiệm của toàn xã hội đối với công tác giáo dục nói chung và giáo dục
đại học nói riêng bằng việc tham gia đóng góp của xã hội vào nguồn tài chính cho đại học. Khi
đó giáo dục đại học sẽ có điều kiện thuận lợi để phát triển. Đào tạo đại học không chỉ là việc
làm của nhà trường hay của Nhà nước mà là việc làm của toàn xã hội. Đa dạng hóa tài chính
cho đào tạo đại học tạo ra sự khuyến khích tư nhân tham gia vào lĩnh vực này.
+ Đối với Nhà nước: Ngày nay việc đa dạng hóa nguồn tài chính đào tạo đại học đã giúp
giảm đi phần nào áp lực lên nguồn chi ngân sách cho đào tạo đại học ( công lập và dân lập).
Chính vì khoản chi ngân sách đã giảm xuống từ đó lượng tiền cung ứng ra cũng giảm bớt từ
đó giảm lạm phát và tham nhũng tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục. Ngoài ra, đa dạng hóa
nguồn tài chính cho đào tạo đại học vừa làm giảm sự can thiệp của nhà nước để các trường
hoạt động tự chủ vừa tạo khung quản lý với các trường đại học.
+ Đối với các nhân: Đối với mỗi sinh viên khi đi học trước đây khoản học phí đóng hàng
tháng hay mỗi kì học đều khá là ít và được nhà nước hỗ trợ nhiều. Hiện nay ngoài việc học
chính khóa ra thì nhà trường có tổ chức các dịch vụ học thêm khác như ( tin học, tiếng anh….)
và khoản học phí do nhà trường tự chủ nên cũng gia tăng thêm. Điều đó phần nào đã đánh trực
tiếp vào tâm lý sinh viên phải chịu khó học hơn trước nếu không muốn học lại để rồi phải nộp
một khoản chi phí lớn hơn, hoặc lựa chọn trường kỹ hơn.
+ Đối với doanh nghiệp: Việc đa dạng hóa nguồn tài chính đào tạo đại học ngày càng có
liên quan đến các doanh nghiệp. Hiện nay các doanh nghiệp thường liên kết với các trường đại
học, đầu tư tiền bạc, trang thiết bị…. Và mục đích của họ không ngoài việc muốn có được
những sinh viên có đầu ra tốt đủ trình độ chuyên môn làm việc cho chính doanh nghiệp của
họ. Trách nhiệm của doanh nghiệp đối với đào tạo đại học gắn liền với quyền lợi mà họ được
hưởng khi những sản phẩm đầu ra của trường đại học chính là điều mà họ cần. Từ đó nâng cao
được trách nhiệm của doanh nghiệp.




Dựa trên mong muốn của các doanh nghiệp, tổ chức, các sinh viên thì mục tiêu của đa dạng
hóa nguồn tài chính sẽ thông qua việc hợp tác với các doanh nghiệp, các tổ chức trong và


ngoài nước, liên kết với các trường đh nước ngoài, các trường đh trong nước sẽ tạo điều kiện
cho sinh viên có được môi trường học tập tiên tiến tiếp cận chuẩn quốc tế, mở rộng cơ hội
được học tập ở các nước có nền giáo dục phát triển trên thế giới. Đa dạng hóa nguồn tài chính
khi liên kết với các trường đại học và tổ chức nước ngoài có vai trò quan trọng trong việc tạo
môi trường học tập quốc tế ngay trong nước, cơ hội học tập của các sinh viên được tăng
cường. Tạo điều kiện cho sinh viên có được môi trường học tập tiên tiến. Cùng với đó là
những công trình xây dựng để phát triển thể chất như sân bóng đá, cầu lông, bóng rổ… giúp
sinh viên rèn luyện thể chất tốt nhất để học tập tốt hơn.

Việc đạt được mục tiêu đa dạng hóa nguồn tài chính cho đào tạo đại học sẽ thúc đẩy
công tác nghiên cứu khoa học trong các trường đại học: Khi nguồn tài chính được đa dạng
hóa, cơ sở vật chất được hiện đại, kinh phí chi hoạt động nghiên cứu khoa học được đầu tư
ngày càng nhiều thì sẽ tạo động lực cho giảng viên và sinh viên nghiên cứu ngày càng nhiều,
mang lại nhiều sáng kiến hữu ích cho công tác giáo dục và trong cuộc sống. Đa dạng hóa vừa
có vai trò thúc đẩy công tác nghiên cứu khoa học vừa là kết quả của việc nghiên cứu khoa học.
Nhờ đó nguồn thu của nhà trường tăng thì trường sẽ có kinh phí dành cho đề tài nghiên cứu
khoa học cấp trường, như vậy nó sẽ thúc đảy được sự tham gia của giảng viên cũng như sinh
viên vào nghiên cứu khoa học .Kinh phí sẽ duy trì chế độ khen thưởng đối với cá nhân, tập thể
có nhiều thành tích nghiên cứu khoa họcvà việc khen thưởng cần kịp thời hơn.Tạo tâm lý
được đanh giá cao cho thành tích nghiên cứu khoa học. Việc đạt được mục tiêu này cũng dựa
trên mong muốn của sinh viên của các hộ gia đình và các trường đại học.
Không chỉ về tài chính ,nếu đa dạng hóa từ việc hợp tác với các doanh nghiệp,hợp tác quốc tế
thì nhà trường sẽ nhận được các chương trình nghiên cứu thực tế cho doanh nghiệp,có tính

ứng dụng cao ,điều này sẽ tạo hứng thú hơn trong việc nghiên cứu của sinh viên. Mở rộng
quan hệ đối ngoại các trường quốc tế có tiếp cận với những đề tài nghiên cứu khoa học cấp
quốc tế.


Mục tiêu của đa dạng hóa nguồn tài chính đào tạo đại học nhằm thúc đẩy nâng cao chất
lượng giảng dạy của nhà trường đc xác định dựa trên mong muốn của các trường đại học,
cũng như các sinh viên học trong trường.

Thật vậy khi đa dạng hóa các nguồn tài chính cho đại học thì nhà trường có thể có chi phí để
trang trải hoạt động của nhà trường.Tăng nguồn thu thì nhà trường có thể đầu tư trang thiết bị
cơ sở hạ tầng,đa dạng hóa trang thiết bị giảng dạy từ đó góp phần nâng cao chất lượng giảng
dạy ,đầu tư nghiên cứu xuất bản sách mới phục vụ tốt cho việc giảng dạy nhiều hơn .Khi đa
dạng hóa bằng hợp tác quốc tế thì trường có thể nhận được các phương pháp giảng dạy tiên
tiến .Đặc biệt là các nước đang phat triển .Nhà trường có thể nhận được khoản phí từ việc hợp
tác với các trường và học phí từ người học .Khi các nước đang phát triển hợp tác với các
trường ở các nước phát triển thì các nước phát triển sẽ đưa giảng viên cùng giáo trình và giáo
án sang để giảng dạy .Nhờ vậy giảng viên của trường có thể học hỏi và tiếp thu được các
phương pháo giảng dạy mới.


Câu 3: Hãy nêu tên một mục tiêu trong bản chiến lược phát triển kinh tế xã hội địa
phương mà bạn quan tâm. Phân tích quan điểm của nhà quản lý, nhà lãnh đạo địa
phương khi xác định mục tiêu (đã nêu) trong bản kế hoạch đó.
Câu 1 (5 điểm) Hãy nêu tên một mục tiêu trong bản chiến lược phát triển kinh tế xã hội địa
phương mà bạn quan tâm. Phân tích quan điểm của nhà quản lý, nhà lãnh đạo địa phương khi
xác định mục tiêu (đã nêu) trong bản kế hoạch đó.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế đòi hỏi phải có nguồn
nhân lực chất lượng cao, được đào tạo bài bản. Trong khi đó, nguồn lực tài chính của Nhà
nước không thể đủ để đáp ứng mọi nhu cầu đào tạo, nhất là đào tạo đại học. Vì thế, việc tìm ra

một cơ chế chính sách hợp lý để huy động nguồn lực tài chính cho giáo dục đại học là rất cần
thiết.va mục tiêu đặt ra là huy động nguồn tài chính cho giáo dục đại học .Hiện nay, giáo dục
đại học Việt Nam và hệ thống cấp kinh phí vẫn mang tính tập trung cao. Do vậy quan điểm chỉ
đạo của các nhà lãnh đạo trong thu hút tài chính cho giáo dục đại học là đa dạng hoá nguồn tài
chính . Hiện nay cơ chế tài chính cho giáo dục đại học dưa chủ yếu trên hai nguồn là nguồn
ngân sách và các khoản thu .
-- Về cơ chế cấp phát tài chính từ nguồn ngân sách. Nguồn tài chính do Nhà nước cấp cho
giáo dục đại học được xem như một khoản kinh phí mua sản phẩm đào tạo, sản phẩm nghiên
cứu, mua dịch vụ chuyển giao tri thức, chuyển giao công nghệ hay cấp để thực hiện phúc lợi
học tập đại học cho dân chúng
Ðầu tư từ ngân sách nhà nước cho GD ÐH: nhìn tổng thể cho thấy mức đầu tư cho GD
ÐH/GDP của các quốc gia có tăng lên nhưng vẫn không đáp ứng được với tốc độ tăng nhanh
của số lượng sinh viên theo học và nhu cầu xã hội được tiếp cận GD ÐH. Hầu hết các trường
ÐH của các quốc gia trên thế giới đang ở tình trạng thiếu hụt ngân sách và không thể chỉ trông
chờ vào nguồn kinh phí được cấp từ ngân sách nhà nước. Mặc dù các quốc gia đều cho rằng,
đầu tư cho GD ÐH là đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực bậc cao nhưng họ đang đứng
trước các lựa chọn trong một danh sách dài các ưu tiên phải đầu tư cho phát triển và an sinh xã
hội, ví dụ phổ cập GD tiểu học, THCS, đầu tư cho y tế, phúc lợi cho người nghèo, người vô
gia cư. Việc đa dạng hoá nguồn thu cho các trường đại
học là xu thế tất yếu diễn ra trên khắp thế giới. về nguyên tắc, có 5 cách Nhà nước cung cấp
tài chính cho các trường đại học, đó là: Cách thứ nhất, trường trình một dự toán ngân sách
định kỳ (thường là một năm) dựa trên những tính toán của trường về chi phí đối với lương của
cán bộ quản lý, giảng viên và các yếu tố đầu vào khác. Với những khoản tiền được cấp, trường
phải sử dụng các khoản tiền này vào những khoản mục đã đề ra (cấp ngân sách nhà nước theo
đầu vào).
Cách thứ hai, trường được cấp một khoản kinh phí “trọn gói”, dựa trên số tiền được cấp năm
trước cộng với khoản gia tăng thêm hàng năm và được phép sử dụng số tiền này theo mục tiêu
của mình trong khuôn khổ của pháp luật.
Cách thứ ba, tiền được cấp dựa trên một công thức phản ánh được các hoạt động đã qua,
nhưng trường được tự do sử dụng tiền theo mục tiêu của mình. Cơ sở để tính cho phần lớn các

công thức là số lượng các hoạt động đào tạo (số môn, số cấp học, hệ số quy đổi để phản ánh
chất lượng học tập của sinh viên...).


Cách thứ tư, Chính phủ mua dịch vụ học thuật của các trường đại học. Điều này tương tự như
cách thứ ba nêu trên, nhưng tiền được cấp dựa trên khả năng hoạt động của trường trong
tương lai chứ không dựa trên hoạt động đã qua của nhà trường (cấp theo đầu ra).
Cách thứ năm, trường đại học bán các dịch vụ giảng dạy, nghiên cứu và tư vấn cho nhiều loại
hình khác nhau, cho những người sử dụng là sinh viên và các cơ quan công quyền để lấy kinh
phí hoạt động.
Ngoài ra, Nhà nước còn thực hiện việc cấp phát kinh phí để thực hiện các chế độ về học phí,
học bổng và tín dụng cho sinh viên theo các chủ trương, chính sách cụ thể.
-Về cơ chế thu của các trường đại học
Nhà nước cho phép các trường đại học công lập được thu học phí (thu sự nghiệp) theo khung
học phí do Nhà nước quy định.
Nhà nước cũng cho phép và khuyến khích các trường đại học công lập tăng nguồn thu từ các
hoạt động nghiên cứu khoa học, các hoạt động đào tạo gắn với nhu cầu sử dụng, phát triển các
doanh nghiệp trong nhà trường, tham gia sản xuất của cải vật chất, phát huy vai trò của nhà
trường là trung tâm nghiên cứu ứng dụng khoa học, kỹ thuật.
Các trường có thể tận dụng mọi nguồn viện trợ thông qua chương trình hợp tác song phương
và đa phương đối với các nước, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ... để tăng
nguồn đầu tư cho giáo dục.
Ngoài ra, nguồn thu của các trường đại học còn có thể huy động được từ các nguồn khác, như:
do các hoạt động sinh lời (mua bán chứng khoán, cho thuê các phương tiện và cơ sở vật chất
của nhà trường, các dịch vụ cộng đồng...) hay đạt giải thưởng.
Tình hình tài chính cho giáo dục đại học hiện nay còn nhiều bất cập . Điều đáng nói là tại
các trường đại học công được giao tự chủ, Nhà nước lại không không chế cả việc chi, lẫn mức
thu. Bất cập đó đã khiến các trường công lập phải tận dụng mọi phương cách để tăng nguồn
thu, từ việc mở rộng hệ tại chức đến các chương trình liên kết nước ngoài, chương trình chất
lượng cao; hoặc là giảm lượng sinh viên hệ chính thức, mở rộng lớp sinh viên hệ tự nguyện

đóng tiền, nguy cơ tạo ra tình trạng phát triển tự phát, thiếu kiểm soát, gây mất cân đối trong
đào tạo đại học.
Hơn nữa, do nguồn kinh phí cấp phát hạn chế, nên tác động không nhỏ đến chất lượng nguồn
nhân lực và hoạt động nghiên cứu khoa học tại các trường đại học. Vì nguồn kinh phí hạn chế,
đặc biệt là các khoản chi đào tạo cho giảng viên, phát triển nguồn nhân lực, nên thu nhập của
đội ngũ giảng viên tại các trường đại học công lập còn thấp. Do đó, các giảng viên có trình độ,
có kinh nghiệm đều bị các trường đại học tư thục, dân lập lôi kéo tham gia trở thành các giảng
viên thỉnh giảng để tạo điều kiện gia tăng thu nhập. Điều này dẫn đến việc hầu hết các giảng
viên hoặc bị quá tải không có điều kiện tự cập nhật, bồi dưỡng bản thân, hoặc sao lãng công
việc giảng dạy chính tại cơ sở công lập
Từ khó khăn trên cho thấy quan điểm chung của các nhà quản lý các trường đại học trong việc
thực hiện mục tiêu thu hút tài chính là Không thể dựa vào kinh phí cấp phát của Nhà nước.
Bối cảnh tình hình kinh tế còn khó khăn chung, nhất là trong tình trạng hụt thu ngân sách nhà
nước, thì việc tăng thêm ngân sách cho giáo dục đại học là một bài toán nan giải. Vì thế, để
phát triển giáo dục đại học, không thể chỉ dựa vào kinh phí cấp phát của Nhà nước, mà điều
quan trọng nhất là xác định đúng vị trí, vai trò của Nhà nước trong nền giáo dục quốc dân, từ
đó có cơ chế, chính sách huy động các nguồn lực đa dạng từ xã hội đầu tư cho giáo dục nói
chung, giáo dục đại học nói riêng. Vậy các nhà quản lý cần có định hướng như thế nào trong
đa dạng hoá nguồn thu tài chính. Nguồn thu cho giáo dục đại học sẽ vẫn là các nguồn truyền


thống đồng thời các nhà quản lý cần có như chính sách thu hút tài chính từ nhiều nguồn khác .
Cụ thể Kinh phí đầu tư cho GDĐH gồm các nguồn: NSNN, học phí lệ phí, tín dụng SV, các
khoản quyên góp quà tặng, hoạt động kinh doanh của nhà trường… Đa dạng nguồn thu nhằm
tăng thu nhập cho các trường ĐH.
Ngoài nguồn thu ngân sách đã nói ở trên . Nguồn vốn quan trọng không kém là Học phí:
thông qua kinh nghiệm ở nhiều nước cho thấy thu học phí ở bậc ÐH được xã hội chấp nhận
nếu chất lượng giảng dạy và đào tạo xứng đáng với cái giá học phí mà người học phải bỏ ra.
Rất nhiều quốc gia đang phát triển đã và đang chuyển chi phí đào tạo từ những người đóng
thuế (chính phủ) sang phía sinh viên và cha mẹ họ dưới hình thức học phí và lệ phí - cách này

đã được thực hiện vài thập kỷ nay ở nhiều nước công nghiệp phát triển và các nước khối
OECD. Chính sách thu học phí trong GD ĐH phản ánh rất rõ nét tỉ lệ đóng góp của tư nhân
cho phát triển GD ĐH ở nhiều quốc gia. Tuy nhiên rất khó xác định mối quan hệ nhân - quả
giữa tư nhân hoá (tỉ lệ đóng góp của tư nhân) và tính ưu việt của GD ĐH. Mô hình GD ĐH
Mỹ được nhiều quốc gia thừa nhận có tính ưu việt thông qua các chỉ số như giải thưởng
Nobel, số công trình khoa học đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành quốc tế, số người được
giải Nobel cao... nhưng mức học phí và tỉ lệ đóng góp của tư nhân trong GD ĐH cũng rất cao.
Mô hình tài chính cho sinh viên (bao gồm tín dụng sinh viên, học bổng, các khoản hỗ trợ
khác...). Tín dụng sinh viên có thể dưới dạng một trong hai hình thức cơ bản dưới đây với
nhiều biến thể của từng hình thức hoặc kết hợp của cả hai hình thức nếu có thể. Tất cả các
chương trình tín dụng sinh viên đều đòi hỏi một số hỗ trợ công – và điều này được xem như là
việc cân đối các yếu tố khác nhau đối với các cách chi phí khác để mở rộng tiếp cận và tính
công bằng trong GD ĐH. Chương trình tín dụng sinh viên tạo ra sự đóng góp đáng kể từ phía
sinh viên - một chương trình tín dụng sinh viên được trợ cấp tối thiểu, quản lý hiệu quả, kinh
nghiệm chống vỡ nợ có khả năng về lý thuyết giảm đáng kể được một số nguồn thu công từ
việc hỗ trợ các chi phí giảng dạy để sử dụng trong các hình thức mục tiêu khác nhau để tăng
sự tham gia và tính công bằng. Tuy nhiên các nhà quản lý cần lưu ý hạn chế về nguồn thu từ
học phí, lệ phí và tín dụng SV: Ở Việt Nam, chương trình tín dụng SV có tỷ lệ thu hồi vốn
thấp do cơ hội làm việc ngoài giờ SV không nhiều, khả năng tìm kiếm việc và có mức lương
hợp lý để trả nợ sau khi tốt nghiệp còn thấp... Vì vậy, khi thực hiện chương trình tín dụng SV,
cần có một số giải pháp như: Chính phủ hỗ trợ đủ để các trường công lập hoạt động tốt và SV
tự nguyện hoặc có khả năng được vay trong các chương trình tín dụng SV; Các trường ĐH
tăng cường hợp tác với doanh nghiệp trong quá trình đào tạo để đảm bảo chất lượng, phù hợp
với ngành nghề và tăng cơ hội việc làm cho SV sau khi tốt nghiệp.
Về chính sách học phí, kinh nghiệm các nước trên thế giới cho thấy, Nhà nước nên cho phép
các trường ĐH điều chỉnh mức học phí trong khuôn khổ để đối phó với lạm phát trong nền
kinh tế; Xây dựng các mức học phí khác nhau đối với các ngành nghề khác nhau; Kết hợp việc
thu học phí cao với chính sách hỗ trợ đối với SV nghèo, có năng lực thực sự. Nhà nước luôn
đảm bảo rằng mọi SV đã sẵn sàng và có năng lực đều có thể tiếp cận với chương trình GDĐH
có chất lượng cao. Bên cạnh đó, các trường ĐH cần xây dựng chương trình đào tạo phù hợp

với các đối tượng cụ thể. Phần kinh phí dôi dư có thể chi viện trợ cho việc nâng cấp thiết bị,
trường học hoặc trực tiếp giúp đỡ SV nghèo, khó khăn.
Thứ hai, tăng cường hoạt động kinh doanh trong trường học:
Ða dạng hoá nguồn thu cho GD ÐH thông qua các hoạt động kinh doanh (kể cả cho thuê tài
sản, đất, cơ sở vật chất) hay nghiên cứu khoa học của nhà trường. Một khuynh hướng đáng
chú ý trong đa dạng nguồn thu cho các cơ sở đào tạo ÐH là thông qua việc bán các dịch vụ
giảng dạy và nghiên cứu, nói một cách khác đó là: tài chính dựa trên hợp đồng. Tóm lại, xuất


hiện ở đây hai loại hợp đồng chính do các trường thực hiện: hợp đồng với chính quyền trung
ương và địa phương đối với các chương trình khóa học đặc thù hoặc các dự án nghiên cứu và
các hợp đồng thực hiện theo thị trường mở với các tổ chức tư nhân. Tài chính dựa trên cơ sở
hợp đồng rất phổ biến ở Mỹ và úc. Tại Châu Âu, chính phủ các nước Hà Lan và Vương quốc
Anh đưa ra những yêu cầu mạnh đối với các trường đại học để tìm kiếm nguồn tài trợ từ bên
ngoài, bao gồm cả từ Cộng đồng Châu Âu. Các nước khác như Ireland, Nauy, Thụy Sĩ và
Thụy Ðiển đã nhận thấy nhu cầu của các trường ÐH để duy trì tài chính công cần thiết, cùng
với nó là việc khuyến khích các trường bán dịch vụ của họ ra thị trường.
Với khuynh hướng giảm dần NSNN cấp hàng năm và đa dạng hóa nguồn thu nên khuynh
hướng đẩy mạnh hoạt động kinh doanh trong trường ĐH cần được tăng cường; hoạt động kinh
doanh góp phần mang lại lợi nhuận trong khuôn khổ hoạt động của nhà trường.
Thứ ba, tăng cường hoạt động từ thiện:
Các khoản quyên góp, quà hiến, tặng các hoạt động từ thiện: tăng nguồn thu cho GD ÐH từ
các nguồn quyên góp, quà hiến tặng, nói cách khác là thông qua hoạt động từ thiện đã và đang
được quảng bá và được coi là hoạt động mang đậm nét văn hoá ở nhiều nước. Ví dụ Singapore
đang khuyến khích sự đóng góp của những nhà tài trợ và quảng bá việc xây dựng văn hóa tình
thương ở Singapore. Các nhà nghiên cứu và quản lý giáo dục Singapore cũng Khuyến nghị
tăng cường và mở rộng liên tục hoạt động này để tăng các khoản tiền từ thiện đóng góp cho
phát triển GD ÐH. Nhà nước khuyến khích các trường đại học mở rộng vốn chung của các
nhà tài trợ bằng từng bước tăng đóng góp kinh phí trực tiếp từ các cựu sinh viên, những sinh
viên hiện đang học và các công ty tư nhân. Các trường đại học cũng cần nuôi dưỡng trong sinh

viên của họ ý thức về quyền sở hữu và văn hoá đóng góp trong các trường đại học. Những nỗ
lực này được tiến hành liên tục và được duy trì khi sinh viên trở thành cựu sinh viên, những
người có thể thăng tiến trong nghề nghiệp.
Thông thường hoạt động này huy động được nguồn thu từ những người giàu, có học vấn cao,
những doanh nghiệp lớn, những cựu SV thành đạt và việc hỗ trợ ưu đãi từ phía nhà nước.
Kinh nghiệm các nước trên thế giới cho thấy nguồn thu từ hoạt động từ thiện đóng vai trò
không lớn và nên được sự hỗ trợ của Nhà nước về việc không đánh thuế từ nguồn thu hoạt
động từ thiện.
Thứ tư, phát triển nguồn tài trợ công để có một hệ thống GDĐH công lập mạnh: Trong hệ
thống GDĐH công lập, vai trò của Chính phủ là then chốt nhưng không có nghĩa là bao cấp,
quản lý cứng nhắc mà Chính phủ có trách nhiệm đầu tư về tài chính, về tầm chiến lược, định
hướng hoạt động, kiểm soát chất lượng, chứ không thể đứng ngoài cuộc.
Không chỉ là thu hút nguồn lực tài chính mà các nhà quản lý cần có những biện pháp
Phân bổ và kiểm soát hiệu quả nguồn vốn được đầu tư:
Kinh nghiệm các nước cho thấy việc phân bổ tài chính cho GDĐH nên chú ý các hoạt động
chính của trường, ví dụ phần kinh phí dành cho hoạt động giảng dạy, hoạt động thường xuyên
nên đóng vai trò cơ bản nhất (chiếm tỷ lệ khoảng 60-70% tổng kinh phí); Kinh phí dành cho
nghiên cứu khoa học khoảng dưới 30%. Cơ chế phân bổ kinh phí cho hoạt động giảng dạy các
trường ĐH nên áp dụng linh hoạt theo xu hướng đổi mới, có cạnh tranh để tăng cường hiệu
quả, tạo điều kiện để nhà trường chủ động trong các hoạt động và cơ hội tiếp cận GDĐH cho
các đối tượng khác nhau. Kinh phí dành cho nghiên cứu khoa học nên được phân bổ trên cơ sở
có cạnh tranh.
Chính sách phân bổ và sử dụng tài chính trong giáo dục đại học được thể hiện ở những điểm
như sau:


1. Ðổi mới phương thức phân bổ tài chính: một số yếu tố cần quan tâm khi xem xét
công thức phân bổ tài chính cho GD ÐH bao gồm: Giá thành giảng dạy (khác nhau giữa các
nhóm ngành); Cơ sở vật chất cần thiết; Hỗ trợ học tập (thư viện và các dịch vụ khác); Trợ cấp
cho nghiên cứu; Những điều chỉnh trong các hoàn cảnh đặc biệt

Những điều chỉnh cho các mục tiêu chính sách đặc biệt.
Theo nghiên cứu của Ngân hàng thế giới về hệ thống phân bổ ngân sách cho các
trường ÐH, có hai phương thức phân bổ ngân sách chính:
Phương thức phân phối trực tiếp thương thảo là phương thức được nhiều nước đang áp dụng
như Achentina, Braxin, Hy Lạp, ấn Ðộ, Philippines...
Phương thức phân phối gián tiếp cho các cơ sở GD ÐH là một phương thức phổ biến
thông qua một trong hai hình thức hay cơ chế: Cơ chế đầu vào và/hoặc cơ chế đầu ra. Các
nước như Canada, Trung Quốc, Anh, Pháp, Nhật Bản, Thuỵ Ðiển, Việt Nam ... hiện đang áp
dụng chính sách phân bổ ngân sách theo cơ chế đầu vào, tức là căn cứ theo các yếu tố đầu vào
của quá trình giáo dục như số lượng sinh viên, giáo viên để phân bổ ngân sách. Một số nước
khác lại căn cứ theo đầu ra để phân bổ ngân sách nhà nước cho GD ÐH như các nước Hà Lan,
Ðan Mạch, Phần Lan, úc... Tuy nhiên phương thức phân bổ tài chính mang những nét đặc thù
riêng khi áp dụng vào thực tế ở từng quốc gia.
2. Ưu tiên đầu tư ngân sách của nhà nước trong việc xây dựng các trường ĐH có chất
lượng cao trong khu vực và quốc tế, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực trình độ đại
học và sau đại học.
3. Điều chỉnh lại định mức kinh phí đào tạo có tính đến chi phí đào tạo thực tế của từng
ngành nghề, từng trình độ phù hợp với qui luật giá trị trong cơ chế thị trường nhằm tạo động
lực cạnh tranh lành mạnh giữa các cơ sở đào tạo đại học. Xây dựng và áp dụng mức học phí
phù hợp với từng
ngành, nghề, trình độ theo hướng đảm bảo chất lượng.
4. Ban hành và thực hiện rộng rãi chính sách học bổng, hỗ trợ sinh viên nghèo, hiếu học
bằng nhiều phương thức khác nhau.
5. Thực hiện phân bổ kinh phí cho các trường ĐH trên cơ sở cạnh tranh và dựa trên kết
quả đầu ra.
6.
Hoàn thiện hệ thống thông tin quản lý giáo dục đại học.
7. Tăng cường kiểm tra, giám sát quản lý tài chính các trường đại học. Sử dụng kiểm
toán độc lập bên ngoài và nội bộ đánh giá các hoạt động và chi tiêu của nhà trường và công bố
rộng rãi để tăng tính tự chịu trách nhiệm của các cơ sở đào tạo ĐH.

Bên cạnh việc phân bổ hợp lý còn kết hợp với công tác kiểm tra, giám sát theo hướng sử dụng
có hiệu quả kinh phí trong GDĐH.
Theo dõi và giám sát việc sử dụng tài chính trong GD ÐH theo hướng hiệu quả:việc đổi mới
phương thức phân bổ ngân sách cần gắn kết chặt chẽ với tăng cường giám sát hiệu quả sử
dụng, nói một cách khác là gắn chặt chẽ với những yêu cầu tăng cường chất lượng và nâng
cao hiệu quả của GD ÐH. Ðể giám sát việc sử dụng ngân sách/nguồn thu của các trường theo
hướng hiệu quả, nhiều quốc gia đã xây dựng và phát triển hệ thống thông tin quản lý giáo dục
và xây dựng hệ thống các chỉ số thực hiện. Ví dụ ngay từ những năm 1994, chính phủ
Argentina đã thiết kế và xây dựng hệ thống thông tin quản lý của các trường đại học dựa trên
cơ sở mạng Internet và hệ thống thống kê số liệu cho phép tích hợp các modules khác nhau trợ
giúp quá trình ra quyết định ở tất cả các trường ÐH công lập. Hệ thống thông tin quản lý GD


ÐH này bao gồm 5 modules phần mềm: 1/tài chính và ngân sách; 2/quản lý nhân sự; 3/số liệu
thống kê các trường ÐH; 4/quản lý thư viện; 5/Quản lý sinh viên. Tất cả các mođules này
được kết nối Internet phục vụ cho tra cứu của tất cả những người quan tâm. Ngoài ra hệ thống
còn có bộ phận tư vấn đảm bảo cho người sử dụng được thuận tiện và có được những thông
tin mà họ yêu cầu.
Các công cụ được sử dụng để giám sát, tăng tính chịu trách nhiệm của các cơ sở GDĐH và
quản lý tài chính là:
(1) Thông qua kiểm toán độc lập bên ngoài đánh giá sổ sách kế toán các trường ĐH và báo
cáo hàng năm về các hoạt động kiểm toán nội bộ.
(2) Thông qua sử dụng dịch vụ kiểm toán nhà nước để đánh giá bất kỳ hoạt động nào đó của
nhà trường.
(3) Thông qua cơ chế và quá trình xây dựng để theo dõi, đánh giá chất lượng giảng dạy.
(4) Thông qua việc thực hiện yêu cầu các trường xây dựng các kế hoạch chiến lược để trình
cơ quản chủ quản các cấp cấp kinh phí.
(5) Lãnh đạo nhà trường nên có các thành viên bên ngoài, những người am hiểu về quản lý
tài chính và có thể tổ chức, sắp xếp phù hợp cho kiểm toán nội bộ.
Hơn nữa để thưc hiện quản lý nguồn vốn cho giáo dục đại học có hiệu quả thì nhà nước

cùng với các nhà quản lý cần Tăng cường quyền tự chủ tài chính các trường ĐH công lập:
Tự chủ cho các trường ĐH được nhiều nhà nghiên cứu chú ý đến, nhưng vấn đề là tự chủ đến
đâu? Tự chủ lĩnh vực gì? Một số không đồng ý quan điểm tự chủ bởi vì viện trợ kinh tế từ
Chính phủ sẽ bị giảm sút. Theo kinh nghiệm các nước trên thế giới, tự chủ trong quản lý tài
chính cần tập trung nhiều các hoạt động sau:
(1) Quản lý kinh phí của nhà trường;
(2) Thẩm định các dự án tăng cường thu nhập;
(3) Tự chủ trong xây dựng cơ sở vật chất và đầu tư trang thiết bị giảng dạy;
(4) Trường ĐH được phép vay kinh phí;
(5) Được phép xây dựng mức học phí theo khung của Nhà nước.
Câu 4: Nêu tên một mục tiêu trong bản kế hoạch phát triển kinh tế xã hội ở địa phương bạn.
Hãy cho biết đặc điểm, vai trò của lĩnh vực đó (mà mục tiêu cần đạt được) đối với quá trình
phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn.
BÀI LÀM:
Mục tiêu: Đa dạng hóa nguồn tài chính cho giáo dục đại học



Mục đích của đa dạng hóa nguồn tài chính trong đào tạo đại học.
Nguồn tài chính dồi dào hơn cho trường: Việc đa dạng hóa nguồn tài chính sẽ giúp tăng số
nguồn thu, qua đó tăng tổng nguồn thu tài chính của trường.
Giảm áp lực cho ngân sách Nhà nước: Hàng năm Nhà nước sẽ phải chi 1 khoản cho các
trường để duy trì hoạt động của trường. Việc giảm thiểu khoản này sẽ giúp ngân sách Nhà
nước giảm chi, chuyển ngân sách sang các lĩnh vực khác cần thiết hơn.


















Tăng chất lượng đào tạo: Việc tăng nguồn thu ngân sách sẽ giúp trường có thêm kinh phí để
đầu tư trang thiết bị cơ sở vật chất, qua đó nâng cao chất lượng đào tạo cho trường.
Tăng quy mô đào tạo: Trường có kinh phí để mở rộng quy mô đào tạo cả về chiều ngang lẫn
chiều dọc. Tăng số sinh viên, học viên của các ngành, lĩnh vực đào tạo, tăng số hệ, ngành để
đào tạo.
Tăng tốc độ đào tạo: Do việc đáp ứng được cơ sở vật chất đầy đủ và chất lượng cho việc học
tập và giảng dạy nên thời gian đào tạo sẽ được đẩy nhanh hơn, không để cho tình trạng phải
đợi xếp lớp học, xếp giáo viên giảng dạy xảy ra.
Phương thức đa dạng hóa nguồn tài chính trong đào tạo đại học.
Đóng góp học phí từ cha mẹ sinh viên: Đây là một hình thức chuyển gánh nặng chi phí trong
giáo dục đại học từ những người đóng thuế hoặc từ công dân nói chung sang người học, cha,
mẹ người học.
Phát triển khu vực đại học tư nhân: Đây là chính sách của nhiều quốc gia nhằm góp phần chia
sẻ gánh nặng chi phí và mở rộng cơ hội học tập cho nhiều người dân, đồng thời huy động
được nguồn lực xã hội tham gia phát triển giáo dục. Hệ thống các trường đại học tư thường
được phân thành hai loại: phi lợi nhuận và vì lợi nhuận.
Nguồn tài chính thu được thông qua dịch vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học: Ða dạng hoá
nguồn thu cho GD ÐH thông qua các hoạt động kinh doanh (kể cả cho thuê tài sản, đất, cơ sở
vật chất) hay nghiên cứu khoa học của nhà trường. Một khuynh hướng đáng chú ý trong đa

dạng nguồn thu cho các cơ sở đào tạo ÐH là thông qua việc bán các dịch vụ giảng dạy và
nghiên cứu, nói một cách khác đó là: tài chính dựa trên hợp đồng. Tóm lại, xuất hiện ở đây hai
loại hợp đồng chính do các trường thực hiện: hợp đồng với chính quyền trung ương và địa
phương đối với các chương trình khóa học đặc thù hoặc các dự án nghiên cứu và các hợp đồng
thực hiện theo thị trường mở với các tổ chức tư nhân.
Các nguồn tài trợ, hỗ trợ tư nhân khác: Trong lúc học phí là nguồn lực tư nhân chủ yếu hỗ trợ
cho các trường đại học, vẫn có một số nguồn lực tư nhân khác ngày càng chi phối nhiều
trường. Đó là, các khoản hỗ trợ thường đến dưới hình thức quà tặng.
Nguồn tài chính từ vay tín dụng: Nguồn tài chính từ vay các ngân hàng thương mại, ngân hàng
phát triển, đáp ứng nhanh chóng tài chính của nhà trường.

Đặc điểm, vai trò các nguồn thu tài chính cho đào tạo đại học.
1.Nguồn thu tài chính từ ngân sách nhà nước.
-

Đặc điểm

Ngân sách nhà nước chi cho đào tạo đại học là khoản tiền mà nhà nước cấp cho các cơ sở đào
tạo đạo học để phục vụ một số hoạt động cơ bản của nhà trường. Đây là nguồn tài chính được
xem như một khoản kinh phí mua sản phẩm đào tạo, sản phẩm nghiên cứu, mua dịch vụ
chuyển giao tri thức, chuyển giao công nghệ hay cấp để thực hiện phúc lợi học tập đại học cho


dân chúng. Khoản tiền này được nhà nước trích từ ngân sách hàng năm cho các trường đại học
tùy theo chính sách của từng quốc gia.

Vai trò:
Đối với giáo dục đại học của mỗi quốc gia, nguồn tài chính trích từ ngân sách nhà nước thể
hiện vai trò của nhà nước trong sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển.
Vai trò của nguồn tài chính này là:

-

+
Làm tăng nguồn vốn cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đào tạo cán bộ giảng viên,giáo
viên.
+ Nâng cao chất lượng đào tạo của các trường thông qua sự trợ giúp của nhà nước cho các
hoạt động
+
Thực hiện công bằng xã hội, hỗ trợ vùng khó khăn, đối tượng khó khăn được tham gia
vào quá trình đào tạo đại học. Đây là nguồn chính để cho các hoạt động hỗ trợ học tập của
sinh viên thuộc đối tượng khó khăn, vùng sâu vùng xa.
Ở hầu hết các nước, nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước đóng vai trò thứ yếu trong tổng
nguồn thu của các trường đại học.

2.

Nguồn thu tài chính từ học phí, lệ phí.

- Đặc điểm:
+

Học phí ,lệ phí tuyển sinh là khoản tiền mà người học phải nộp cho cơ sở giáo dục đại

học để bù đắp chi phí.
+

Nguồn thu hoc phí,lệ phí là khoản đóng góp từ gia đình người học hoặc người học để đảm

bảo cho các hoạt động giáo dục , góp phần đảm bảo cho các hoạt động giáo dục.Đó là khoản
thu từ đào tạo dài hạn theo chỉ tiêu, lệ phí tuyển sinh và các lệ phí khác. Ngoài ra còn có các

khoản thu sự nghiệp khác theo qui định của pháp luật:tiền thu từ các loại lê phí,tiền giáo
trình ,giấy thi ,các dịch vụ giữ xe,quầy văn phòng phẩm…
-Vai trò:
+ Tạo nguồn thu để bù đắp chi phí hoạt động của nhà trường và giảm gánh nặng cho ngân
sách nhà nước. Nguồn thu từ học phí hỗ trợ cho công tác quản lý và điều tiết đào tạo tại các
trường đại học.


+
Đối với một số lớn các nước xác định mức học phí như một phần trong chi phí đào tạo
cho mỗi đầu sinh viên, khoản phí này được xem xét cơ bản như một phương tiện trang trải cho
hoạt động đào tạo của nhà trường và được coi như khoản thu nhằm bù đắp chi phí.
+ Thu học phí của sinh viên được xem là một giải pháp chủ yếu nhằm chia sẻ chi phí giáo
dục đại học. Bổ sung kinh phí cho hoạt động sự nghiệp giáo dục đào tạo kể cả hỗ trợ cho việc
tổ chức thi tốt nghiệp (Bao gồm tất cả các khoản chi nghiệp vụ chuyên môn và các khoản chi
thường xuyên thuộc nội dung chi hoạt động sự nghiệp giáo dục đào tạo, kể cả chi cho thi tốt
nghiệp ở các trường và cơ sở giáo dục - đào tạo, chi nghiệp vụ quản lý quỹ học phí tại cơ sở).
+
Có vai trò quan trọng, đóng góp phần lớn vào việc trực tiếp giảng dạy, phục vụ giảng
dạy. Bao gồm chi hỗ trợ cho hoạt động trực tiếp giảng dạy và phục vụ giảng dạy của giáo
viên, cán bộ nhân viên phục vụ giảng dạy và các bộ phận liên quan, chi khen thưởng và chi
phúc lợi tập thể ở các trường và các cơ sở giáo dục đào tạo.
3. Nguồn tài chính từ các doanh nghiệp.
- Đặc điểm:
Nguồn lực tài chính cho đào tạo đại học đến từ doanh nghiệp là khoản vốn bằng tiền mặt, cơ
sở hạ tầng… đầu tư của tổ chức, doanh nghiệp đoàn thế cho các trường đại học nhằm mục
đích đào tạo nhân lực theo đơn đặt hàng của doanh
nghiệp.
Nguồn ngân sách đến từ doanh nghiệp đang dần chiếm 1 vị trí quan trọng trong nguồn tài
chính đào tạo đại học. Trong xu thế hội nhập hiện nay, canh tranh để phát triển, doanh nghiệp

và các trường đại học phải liên kết với nhau tạo chỗ đứng riêng cho mình trong việc đào tạo
nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của xã hội và chính doanh nghiệp đó
Các nước trên thế giới: Điển hình như Mỹ các trường đại học hầu hết là dân lập. Doanh
nghiệp bỏ vốn đầu tư nên họ sẽ có những dự án cụ thể, thiết thực nhất đối với nguồn nhân lực
đào tạo đại học để phục vụ cho doanh nghiệp của họ.
-

Vai trò:

+ Doanh nghiệp trong công cuộc đào tạo đại học ngày càng quan trọng. các tổ chức, cá
nhân đầu tư ngày càng nhiều vào việc đào tạo đại học. Xuất phát từ nhu cầu thực tế về nguồn
nhân lực để cung cấp cho các doanh nghiệp ngày càng cao đòi hỏi chất lượng đào tạo đại học
phải được nâng cao. Tình trạng sinh viên ra trường làm trái ngành trái nghề, các trường đại
học không đủ chất lượng đào tạo và giảng dậy không thể đáp ứng nhu cầu học tập và nghiên
cứu của sinh viên đã làm thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao.
Ngoài nguồn tài chính đến từ ngân sách nhà nước, nguồn tài chính đến từ doanh nghiệp có ý
nghĩa lớn về mặt kinh tế. Vừa giảm tải sức ép đào tao của chính phủ, vừa có thể đào tạo nguồn
nhân lực với ngành nghề mà doanh nghiệp mong muốn. Ở Nhật Bản, công tác giáo dục phát
triển nghề nghiệp được tiến hành một cách có hệ thống trong nội bộ các công ty. Nhiều công
ty lớn ở Nhật tìm kiếm và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực bằng cách kết hợp với các


trường đại học để đào tạo và giáo dục mở rộng cho nhân viên. Điều đó đã giúp cho các công
ty chủ động trong việc nâng cao chất lượng cán bộ, đồng thời cũng góp phần tăng nguồn thu
cho các trường đại học.
+ Nguồn tài chính từ doanh nghiệp đóng vai trò to lớn, nhất là trong xu thế hợp tác giữa
trường đại học và doanh nghiệp trong nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, trong
đào tạo cán bộ... vẫn là xu thế phổ biến trên thế giới. Hợp tác giữa trường đại học và doanh
nghiệp được coi là mô hình kết hợp nghiên cứu và sản xuất. Sản phẩm cuối cùng của quá trình
nghiên cứu là sở hữu của cả hai bên, doanh nghiệp và trường đại học cùng chia sẻ lợi nhuận.

Trong quá trình hợp tác này, doanh nghiệp thu được lợi nhuận từ việc bán sản phẩm. Còn nhà
trường có nguồn thu từ việc hợp tác với doanh nghiệp.
+ Thể hiện sự quan tâm của doanh nghiệp đối với nguồn nhân lực chất lượng cao. Nguồn tài
chính của các doanh nghiệp đầu tư cho trường đại học tập trung ở việc tìm kiếm nhân tài qua
các cuộc thi, hội thảo, đặt hàng về đào tạo nhân lực cho công ty.
4. Nguồn thu tài chính từ cung ứng dịch vụ.

- Đặc điểm:
Nguồn tài chính từ hoạt động cung ứng dịch vụ là khoản tiền mà các trường còn có thể thu
từ hoạt động sản xuất,cung ứng dịch vụ cho các cá nhân, tổ chức .Mức thu từ các hoat động
chủ yếu để đảm bảo bù đắp chi phí của nhà trường . Các hoạt động cung ứng dịch vụ rất đa
dạng phong phú : đạo tạo hệ từ xa, đào tạo theo các đơn đặt hàng của nhà nước hoặc doanh
nghiệp, tổ chức; các hoạt động tư vấn, tham gia vào các dự án của các công ty, in ấn phẩm, các
buổi tọa đàm…Các trường có thể khai thác nguồn thu không nhỏ từ hoạt động này,đặc biệt là
hoạt động tư vần,cung ứng dịch vụ,phát hành sách ,ấn phẩm,dự án sản xuất-thử nghiệm.
-Vai trò:
+
Nâng cao khả năng tạo nguồn thu tài chính cho nhà trường, tạo quỹ cho các hoạt động
nghiên cứu, nâng cao chất lượng giảng viên.
+ Khuyến khích thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, tư vấn - một loại hoạt động mang tầm của
GDĐH. Tuy nhiên, để có nguồn tài chính từ hoạt động này cần phải đầu tư ban đầu.
Các trường đại học tự tạo nguồn vốn thông qua các hoạt động dịch vụ đào tạo và nghiên
cứu khoa học. Xu hướng hiện nay trên thế giới là các trường đại học tận dụng lợi thế sẵn có
của mình để thực hiện các hoạt động dịch vụ, liên kết đào tạo và nghiên cứu khoa học để tăng
nguồn thu cho hoạt động của trường.


5. Nguồn tài chính từ tài trợ, viện trợ và hợp tác quốc tế.

- Đặc điểm:

Khái niệm: nguồn tài chính từ tài trợ, viện trợ là hình thức vốn được tài trợ tự nguyện
thông qua các cá nhân, tổ chức từ thiện, hay các khoản hỗ trợ thường đến dưới hình thức quà
tặng.Viện trợ nước ngoài bao gồm các dòng tài chính, trợ giúp kỹ thuật, và hàng hoá... Viện
trợ có thể được cho hay được nhận bởi chính phủ các nước, các tổ chức từ thiện, các quỹ, các
doanh nghiệp
hay cá nhân.
Nguồn tài chính từ hoạt động hợp tác quốc tế là nguồn thu của các trường đại học liên kết
với các tổ chức nước ngoài là việc liên kết với nước ngoài mở các chương trình liên kết, các
chương trình chất lượng cao. Trong hoạt động này, các trường đại học sẽ có được nguồn thu
từ học phí của sinh viên theo học các khóa đào tạo liên kết cũng như những từ tổ chức nước
ngoài mang lại.
- Vai trò:

+ Viện trợ hay hợp tác quốc tế sẽ đẩy mạnh tăng trưởng thông qua đầu tư mới, đặc biệt đầu
tư hàng hóa công trong đó có giáo dục. Giáo dục đại học sẽ được tiếp nhận các nguồn vốn,
công nghệ, chuyển giao ý tưởng mới, kinh nghiệm xây dựng tri thức... từ các tổ chức, nước
phát triển có trình độ trong đào tạo giáo dục cao, từ đó tạo động lực phát triển cho các ngành
đại học trong những nước được nhận viện trợ. Với sự viện trợ của các tổ chức Chính Phủ cũng
như phi Chính phủ này sẽ giúp tăng nguồn thu cho các trường đại học. Hiện nay, nguồn tài trợ
cho giáo dục đại học còn rất khiêm tốn, các cá nhân thường chỉ viện trợ, hiến tặng trong
những dịp đặc biệt, do đó nguồn thu này không thường xuyên và không ổn định.
+ Góp phần làm giảm mức bao cấp của ngân sách đối với giáo dục đại học. Điều này là rõ
rang, bởi việc được nhận thêm nguồn tài chính, vốn từ bên ngoài sẽ giúp giáo dục đại học
giảm sự phục thuốc vào Chính phủ. Nhiều trường công ở Mỹ và các nước trên thế giới đang
chuyển hướng và tích cực gia tăng hoạt động gây quỹ bằng những nỗ lực tăng nguồn lực tư
nhân, tổ chức. Càng đa dạng hóa các nguồn thu thì tài chính cho đào tạo đại học càng trở nên
dồi dào và linh hoạt.
+ Huy động được nhiều nguồn lực từ xã hội: Bởi nguồn này là không hạn chế, các trường
đại học nói riêng và ngành giáo dục đào tạo nói chung sẽ có được thêm nguồn vốn từ bất kỳ
một tổ chức các nhân nào hơn nữa sự tài trọa viện trợ này còn mang ý nghĩa nhân văn cao

6
-

Nguồn thu từ đi vay và các khoản thu khác.

Đặc điểm:


Tài chính vay phương thức động viên nguồn lực tài chính bằng hình thức vay từ các tổ chức
tín dụng từ các ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển …
-

Vai trò:

+
Là một kênh huy động vốn nhanh chóng. Không giống như các nguồn tài chính khác,
nguồn tài chính từ hoạt động cho vay có thể đáp ứng yêu câu số lượng lớn trong một thời gian
ngắn, giúp nhà trường kịp thời giải quyết những công việc bất ngờ hoặc những dự án cần
nguồn tài chính lớn.
+ Làm tăng khả năng tự chủ tài chính của các trường đại học.Nguồn vốn vay phải chịu lãi
suất, do đó những ràng buộc về lãi suất và thời gian đòi hỏi nhà trường phải sử dụng vốn một
cách hiệu quả, tiết kiệm, tránh lãng phí.
+
Việc giữ vốn một cách chủ động sẽ giúp cho nhà trường linh động trong việc phân bổ
cũng như sủ dụng sao cho hợp lý.
+ Nguồn tài chính này cũng góp phần làm giảm sự phụ thuộc vào ngân sách nhà nước, từ đó
thực hiện các hoạt động đúng tiến bộ, chủ động hơn.

Câu 5: (5 điểm) Nêu tên một mục tiêu trong bản kế hoạch phát triển kinh tế xã hội ở địa
phương bạn. Hãy cho biết những mục tiêu đó đã đủ thu hút, kích thích các chủ doanh

nghiệp đầu tư để thúc đẩy sự phát triển kinh tế của địa phương trong giai đoạn sắp tới
không?

mục tiêu: đa dạng hóa nguồn tài chính cho đào tạo đại học.
đây là một mục tiêu quan trọng trong chính sách phát triển đào tạo đại học của thành
phố hà nội nói chung và của các trường đại học nói riêng. Bởi nó ảnh hưởng đến sự tồn tại vào
phát triển của nhà trường trong thởi buổi nền kinh tế thị trường hiện nay, khi mà nhà nước
đang giảm dần sự bao cấp về ngân sách cho các trường đại học công, các trường phải cạnh
tranh với nhau để thu hút sinh viên , nhu cầu người học ngày càng đa dạng và có nhiều thay
đổi,… vì vậy, một nguồn tài chính ổn định, dồi dào sẽ giúp nhà trường hoạt động hiệu quả và
không ngừng phát triển trong tương lai xa.
Với mục tiêu đa dạng hóa nguồn tài chính này thì thành phố cần định hướng để các
trường có thể huy động đu từ các nguồn đó là: ngân sách nhà nước, Nguồn tài chính từ học
phí, lệ phí, Nguồn tài chính từ các doanh nghiệp, Nguồn tài chính từ cung ứng dịch vụ, tư
vấn.Nguồn tài chính từ tài trợ, viện trợ, hợp tác quốc tế. Nguồn tài chính từ đi vay và các
khoản thu khác. Ta có thể thấy trong các nguồn này có một nguồn thu khá quan trọng và ngày
càng phát triển phù hợp với xu thế hiện nay mà nhà trường cần quan tâm đó là nguồn thu từ
các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, mục tiêu này k chỉ nhằm đạt được những lợi ích từ phía nhà trường mà nó
chắc chắn sẽ thu hút kích thích các chủ doanh nghiệp đầu tư để thúc đẩy sự phát triển của


chính hoạt động kinh doanh của họ nói riêng và kinh tế của địa phương trong giai đoạn sắp
tới. Bởi vì các nguyên nhân chính sau:
Thứ 1: Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, việc nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực là điều kiện tiên quyết để duy trì và phát triển sức cạnh tranh của
doanh nghiệp (DN), nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường, thúc đẩy phát triển toàn
diện nền kinh tế, cũng như là điều kiện để người lao động tự tin, khẳng định được và củng cố
được vị thế cá nhân trong xã hội. Chính vì thế sự hợp tác giữa các trường đại học và các DN
là rất cần thiết và rất quan trọng.

Nếu nhìn từ phía DN Việt Nam, muốn tồn tại và phát triển thì sớm, hay muộn, ít hoặc
nhiều đều đứng trước nhu cầu về chất lượng lao động ngày càng cao. Hiện nay đang có một
nghịch lý rất đáng lưu tâm là, trong khi việc tuyển dụng lao động đáp ứng nhu cầu của các
DN ngày càng khó khăn hơn, thì lượng sinh viên (SV) đã tốt nghiệp của các trường đại học
còn thất nghiệp cũng ngày càng tăng. Đó là sự bất cập giữa kiến thức học và công việc ngoài
thực tế. điều này buộc các DN cần xây dựng mối quan hệ hợp tác thường xuyên với Nhà
trường. Các hình thức hợp tác có tính khả thi và phổ biến cao là nhà trường cung cấp cho DN
những SV tốt nghiệp chất lượng cao theo yêu cầu của DN; tổ chức đào tạo chuyên sâu và
ngắn hạn, cũng như đào tạo chính quy dài hạn theo hợp đồng đặt hàng có quy định nội dung,
thời gian và kinh phí cần thiết cụ thể, linh hoạt. Ngoài ra, 2 bên có thể hợp tác về trao đổi và
tiếp nhận chuyên gia, cố vấn, SV thực tập và các hoạt động và dịch vụ khoa học, ứng dụng
triển khai và tư vấn khác…1
Các doanh nghiệp sẽ đóng vai trò là những nhà cung cấp thông tin để các cơ sở đào tạo
nắm được nhu cầu của thị trường lao động. Vì lợi ích của chính mình, hoạt động đào tạo của
nhà trường đại học luôn hướng tới nhu cầu xã hội, trong đó có nhu cầu doanh nghiệp. Như
vậy, các nhà trường đại học luôn có nhu cầu phải được gắn kết với doanh nghiệp. Mặt khác,
nếu cơ sở đào tạo đảm bảo cung cấp những lao động đáp ứng đúng nhu cầu của doanh
nghiệp, thì đối với doanh nghiệp đó là điều lý tưởng nhất. Được hợp tác với một cơ sở đào
tạo đại học cũng là nhu cầu thiết thực của chính doanh nghiệp
Về phía DN, việc tham gia vào quá trình đào tạo như một hình thức đầu tư phát triển, sẽ
khiến DN có thêm quyền và cơ hội lựa chọn (và nâng cấp) các “sản phẩm” - lao động chất
lượng cao, đáp ứng được yêu cầu, giảm bớt thời gian và chi phí đào tạo lại. Ngoài ra, DN còn
có thêm cơ hội quảng bá hình ảnh của mình với xã hội. Về phía Nhà trường, sự hợp tác này
sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, SV “có đầu ra’ vững chắc, và nhất là góp phần phát
hiện, phát triển và trọng dụng nhân tài cho DN cho thành phố, giảm thiểu được các tiêu cực
và kém hiệu quả trong hoạt động giáo dục. Đồng thời, giúp Nhà trường tăng tự chủ hơn về
tài chính, cũng như sử dụng hiệu quả vốn đầu tư…Về phía SV, sự hợp tác sẽ cho phép SV tự
điều chỉnh nhận thức, nâng cao động lực và kiến thức, kỹ năng chuyên môn và thực tiễn cuộc
sống, tăng cơ hội tìm việc và giảm thiểu những phí tổn học hành cả về tài chính, thời gian và
tâm sức…Ngoài ra, bên cạnh cơ hội có được học bổng của DN tài trợ, khi có cơ sở tin cậy về

triển vọng nơi làm việc và yêu cầu nghề nghiệp tương lai, rất có thể SV và gia đình sẽ tự
1 Hội thảo doanh nghiệp trường đại học lạc hồng


nguyện tăng học phí và đầu tư nhiều, sâu, hiệu quả hơn cho các môn, trường học có uy tín và
thương hiệu tốt mà họ lựa chọn. Đây cũng là cơ hội để Nhà trường có thể đưa ra các “gói
dịch vụ” đào tạo khác nhau, đa dạng về nội dung, phương thức và công nghệ truyền tải, cũng
như về mức học phí phù hợp với nhu cầu và năng lực của người học và người sử dụng lao
động, từ đó cải thiện chất lượng đào tạo, cơ sở vật chất kỹ thuật và thu nhập tài chính, cũng
như thương hiệu của Nhà trường. Về tổng thể xã hội, sự hợp tác này còn cho phép tăng hiệu
quả đầu tư xã hội trong GD&ĐT nói riêng, trong đầu tư phát triển nói chung, giảm bớt tình
trạng thất nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh và đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường theo
hướng kinh tế tri thức và phát triển bền vững.
Thứ 2: ngoài việc cộng tác cùng nhà trường để có được nguồn nhân lực chất lượng
trong tương lai, mà Các chi phí về cơ sở vật chất cũng được trả thông qua một số doanh
nghiệp , qua phát hành trái phiếu mà việc hoàn trả dựa trên nguồn thu từ các khoản ủng hộ
liên quan, hoặc qua quyên góp và hiến tặng, bên cạnh đó các doanh nghiệp còn hỗ trợ trong
việc đưa các giảng viên ra nước ngoài học tập trao đổi kinh nghiệm hoặc tặng học bổng cho
sinh viên đạt thành tích cao. Các nguồn nhân lực này được đào tạo trong môi trường giảng
dạy khoa học, chuyên sâu trong từng lĩnh vực; cơ sở vật chất hiện đại sẽ đảm bảo cho tương
lai phát triển toàn diện của các doanh nghiệp. Hiện nay ngày càng có nhiều các dự án nghiên
cứu do các trường thực hiện đang được các công ty tư nhân cung cấp tài chính nhằm được
chia sẻ lợi ích từ những khám phá trong nghiên cứu cơ bản cũng như trong nghiên cứu ứng
dụng. Điều này có thuận lợi là làm tăng nguồn lực tài chính cho việc nghiên cứu của các
trường, làm giảm mức độ dựa cậy vào nguồn ngân sách nhà nước, nhưng nó làm nảy sinh
những câu hỏi về mặt đạo đức về quyền của các tổ chức tư nhân trong việc xác lập những ưu
tiên trong nghiên cứu. có thể nói Đối với các trường đại học công tác nghiên cứu khoa học là
hoạt động không thể thiếu, và phải được duy trì thường xuyên, còn đối với các doanh nghiệp
những công trình này sẽ góp phần vào trong quá trình đổi mới sản xuất cũng như kinh doanh
đáp ứng với sự vận động không ngừng của môi trường bên ngoài cũng như bên trong tổ

chức.

Thứ 3: góp phần quảng bá Hình ảnh doanh nghiệp
Việc hỗ trợ tài chính cho các trường đại học cũng một phần làm tăng uy tín của các
doanh nghiệp trên thương trường và giúp quảng bá hình ảnh doanh nghiệp rộng rãi hơn. Khi
một công ty đầu tư vào nhà trườngVì vậy hy vọng về nguồn vốn đầu tư lớn đến với doanh
nghiệp cũng như một nguồn nhân lực mới chất lượng sẽ thay thế nguồn nhân lực cũ là điều
mà các doanh nghiệp rất kỳ vọng. Qua việc đầu tư cho giáo dục đại học các doanh nghiệp có
thể thu hút nguồn lao động lớn về làm việc qua đó làm giảm chi phí đào tạo, tăng năng suất và
tăng lợi nhuận.
Trên đây là những nguyên nhân cũng như những lợi ích kinh tế xã hội mang lại khi nhà
trường doanh nghiệp hợp tác cùng nhau. Với phương thức này nhìn một cách vĩ mô hơn


không chỉ nhà trường doanh nghiệp hay ng học được hưởng lợi ích mà là toàn xã hội góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế ở địa phương:
Vốn từ doanh nghiệp giúp ngân sách chi cho giáo dục sẽ được giảm gánh nặng, địa
phương có thể chuyển đổi chi cho các hoạt động, mục tiêu kinh tế xã hội cấp thiết khác mà
vẫn đảm bảo chất lượng giáo dục mong muốn. Chính vì khoản chi ngân sách đã giảm xuống từ
đó lượng tiền cung ứng ra cũng giảm bớt từ đó giảm lạm phát và tham nhũng tiêu cực trong
lĩnh vực giáo dục.
Tăng cường ngân sách cho các trường đại học, giúp đa dạng hóa các nguồn tài chính, làm
tăng tổng nguồn ngân sách dùng để chi cho các hoạt động của trường đại học. Từ đó giúp
nâng cao chất lượng cơ sở vật chất đào tạo, hiện đại hóa trang thiết bị phục vụ giảng dạy và
học tập, điều kiện để nghiên cứu khoa học được cải thiện. Qua đó chất lượng giáo dục sẽ ngày
càng được nâng cao. Hợp tác với doanh nghiệp chính là bước tiến quan trọng trong ngành đào
tạo đại học, giúp cho đào tạo trở nên chủ động trong việc đào tạo nguồn nhân lực theo yêu cầu
của thị trường, thể hiện sự “thị trường hóa” của ngành này.
Từ việc ngân sách cho giáo dục đại học được nâng cao, ở các trường công lập cơ sở
vật chất của các trường sẽ được nâng cao, từng bước hiện đại hóa trang thiết bị giảng dạy,điều

kiện cho nghiên cứu khoa học được cải thiên, qua đó góp phần nâng cao chất lượng dạy và
học cũng như nghiên cứu của nhà trường. Đối với các trường dân lập. Việc ngân sách cho đào
tạo được tăng lên nhờ liên kết với doanh nghiệp sẽ làm mở rộng qui mô cũng như ngành, lĩnh
vực đào tạo. Ngoài ra, ngân sách tăng thêm được các trường đại học công lập dùng để đào tạo
đội ngũ cán bộ giáo viên, cải thiện đời sống cho giảng viên, nhân viên nhà trường. những lợi
ích mang tính xã hội này, nhưng nó có những tác động trực tiếp tới sự phát triển kinh tế của
thành phố. Đời sống một bộ phận người dân được nâng cao là cơ sở thúc đẩy những ngành kt
liên quan như tiêu dùng, dịch vụ…. tăng trưởng, nguồn nhân lực chất lượng cao dù làm cho
doanh nghiệp hay nhà nước đều sẽ mang lại những lọi ích về kinh tế xã hội, chưa kể đến
những nhân tố tài năng sẽ có thể trở thành những doanh nghiệp lớn mạng sau này….
Nâng cao ý thức, trách nhiệm của toàn xã hội đối với công tác giáo dục nói chung và
giáo dục đại học nói riêng bằng việc tham gia đóng góp của xã hội vào nguồn tài chính cho đại
học. Khi đó giáo dục đại học sẽ có điều kiện thuận lợi để phát triển. Đào tạo đại học không chỉ
là việc làm của nhà trường hay của Nhà nước mà là việc làm của toàn xã hội. Đa dạng hóa tài
chính cho đào tạo đại học tạo ra sự khuyến khích tư nhân tham gia vào lĩnh vực này. Với mục
tiêu đa dạng hóa tài chính đại học cùng những chính sách khuyến khích sẽ giúp doanh nghiệp
nhận thức và hiểu được trách nhiệm cũng như lợi ích dài hạn mà đầu tư vào đào tạo đại học
đem lại.
Thông qua việc hợp tác với các doanh nghiệp trong và ngoài nước, các trường đh trong
nước sẽ tạo điều kiện cho sinh viên có được môi trường học tập tiên tiến tiếp cận chuẩn quốc
tế, mở rộng cơ hội được học tập ở các nước có nền giáo dục phát triển trên thế giới. Đa dạng
hóa nguồn tài chính khi liên kết với các trường đại học và tổ chức nước ngoài có vai trò quan
trọng trong việc tạo môi trường học tập quốc tế ngay trong nước, cơ hội học tập của các sinh
viên được tăng cường.Tạo điều kiện cho sinh viên có được môi trường học tập tiên tiến. với


những kiến thức mới, hiện đại đó hứa hẹn sẽ cho ra những sản phẩm tri thức tiến bộ phù hợp
với xu thế toàn cầu, góp phần vào những nỗ lực phấn đấu trở thành nền kinh tế vững mạnh của
thủ đô.
Thúc đẩy công tác nghiên cứu khoa học trong các trường đại học: Khi nguồn tài chính

được đa dạng hóa, cơ sở vật chất được hiện đại, kinh phí chi hoạt động nghiên cứu khoa học
được đầu tư ngày càng nhiều thì sẽ tạo động lực cho giảng viên và sinh viên nghiên cứu ngày
càng nhiều, mang lại nhiều sáng kiến hữu ích cho công tác giáo dục và trong cuộc sống. Đa
dạng hóa vừa có vai trò thúc đẩy công tác nghiên cứu khoa học vừa là kết quả của việc nghiên
cứu khoa học. Không chỉ về tài chính,nếu đa dạng hóa từ việc hợp tác với các doanh
nghiệp,hợp tác quốc tế thì nhà trường sẽ nhận được các chương trình nghiên cứu thực tế cho
doanh nghiệp,có tính ứng dụng cao,điều này sẽ tạo hứng thú hơn trong việc nghiên cứu của
sinh viên. Mở rộng quan hệ đối ngoại các trường quốc tế có tiếp cận với những đề tài nghiên
cứu khoa học cấp quốc tế. thành phố sẽ có cơ hội tiếp cận gần hơn với các doang nghiệp bên
ngoài, các thành tựu khoa học thế giới….
Như vậy, có thể thấy với mục tiêu đa dạng hóa nguồn tài chính cho đào tạo đại học,
thành phố hà nội sẽ không chỉ kích thích các doanh nghiệp đầu tư vào giáo dục nhằm mục
đích lợi nhuận mà hơn thế nữa, sự phát triển của doanh nghiệp, sự tiến bộ của nguồn nhân lực
chất lượng cao, của nghiên cứu khoa học…. tất cả sẽ thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế
địa phương trong thời gian sắp tới.


×