Phân tích bài thơ "Chí khí anh hùng" của
Nguyễn Du
Bài làm
Những cuốn truyện Kiều từ lâu đã đi sâu vào tiềm thức của những
người dân Việt Nam. Đó là một thời kì thối nát của một giai đoạn XHPK
đẩy những con người tài hoa vào con đường đau khổ. Đoạn trích "Chí khí
anh hùng" đã xây dựng lên một hình tượng người anh hùng Từ Hải "đầu
đội trời chân đạp đất" thể hiện ước mơ về một người anh hùng uy phong
lẫm liệt có những phẩm chất phi thường.
Cuộc đời tưởng như hoàn toàn bế tắc khi rơi vào lầu xanh lần thứ
hai nhưng Từ Hải đã xuất hiện và cứu Kiều ra khỏi chốn lầu xanh và đưa
nàng về làm tri kỉ. Nếu những cuộc chia tay trước đây: Kiều chia tay vs
Kim Trọng khi cuộc tình vừa mới chớm nở để mở ra tương lai đen tối,
chia tay vs Thúc Sinh trong tâm trạng cô đơn vò võ đầy nỗi thất vọng thì
cuộc chia tay lần ba này lại hứa hẹn cho một sự nghiệp vĩ đại mới đang
mở ra trước mắt. Đoạn trích "Chí khí anh hùng" từ câu 2213 đến 2230
diễn tả cuộc chia tay của Từ Hải với Kiều để lên đường lập nghiệp lớn.
Tình yêu của Kiều không thể che khuất đi được ước mơ và hoài bão của
người anh hùng. Từ Hải dã dứt khoát lên đường tiếp tục cái sự nghiệp lớn
lao còn đang dang dở
"Nửa năm hương lửa đang nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong."
"hương lửa" thời xưa, nam nữ khi thề nguyền tình yêu thủy chung thường
thắp đèn trâm hương để cáo cúng trời đất thần linh bốn phương ở đây là
tình cảm của Kiếu và Từ Hải đang tốt đẹp thì bốn phương trời xa vẫy gọi,
"thoắt đã động lòng bốn phương" đấng trượng phu. "lòng bốn phương" có
nghĩa là cả thiên hạ, ngày xưa khi sinh con trai người ta thường làm cung
bằng cây dâu tên bằng cỏ bồng bắn ra bốn phương tượng trưng cho mong
muốn sau này người con trai làm lên sự nghiệp lớn. Động từ nhanh
"thoắt" mạnh mẽ, quyết đoán mạnh mẽ cho ta thấy hình ảnh của người
anh hùng Từ Hải cái thế với ý chí mạnh mẽ không chút đắn đo níu kéo
hứa hẹn cho một tương lai tốt đẹp rực rỡ. Ngay cuộc sống êm đềm gối
chăn hạnh phúc và "hương lửa đương nồng" cũng không thể níu giữ. Một
cái nhìn vời vợi "trời bể mênh mang". Đó là cái nhìn mang tầm vóc vũ
trụ, cái nhìn của không gian rộng lớn để thỏa sức vùng vẫy của một anh
hùng chí lớn như Nguyễn Công Trứ từng thổ lộ
"Chí làm trai nam bắc tây đông,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể."
Người anh hùng ra đi với một thái độ ung dung thong thả không vướng
bận "thanh gươm yên ngự thẳng rong" chàng coi việc ra đi này như một
công việc bình thường không có gì là to tát. Thấy Từ Hải ra đi Kiều cũng
lấy chữ "tòng" làm trọng mà tòng phu là một trong ba nét đẹp căn bản của
phụ nữ thời xưa mà xin được đi theo để đỡ đần dù không phải là việc gì
lớn lao
"Nàng rằng : "Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi."
ngằn gọn trong câu văn nhưng lại thể hiện một quyết tâm rất cao. Chữ
"tòng" ở đây không chỉ là một nghĩa vụ đối vs Kiều mà ngụ ý muốn tiếp
sức chia sẻ nhiệm vụ nặng nề. Ca dao cũng có câu thể hiện tấm lòng
người phụ nữ muốn gắn bó với chồng
"Đi đâu cho thiếp theo cùng
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam."
Như vậy là không chỉ thấy một nàng Kiều mà còn vô vàn nàng Kiều khác
cũng muốn đi theo chồng đến mọi nơi để chia sẻ tâm tư nỗi lòng của
nhau. Từ Hải đối vs Kiều biết bao tình nghĩa nhưng dù vậy cũng không
thể để cho nước mắt của người vợ đẹp níu giữ bước chân anh hùng. Từ
Hải trách nhẹ Kiều
Từ rằng : "Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?"
Hai người đã là "tâm phúc tương tri" hiểu nhau sâu sắc thì sao nàng lại
giữ những nếp suy nghĩ và nông cạn của người phụ nữ bình thường. Từ
Hải trách Kiều "chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình" hình thức thì như
trách nhưng thực chất là đặt niềm tin vào Kiều, nàng là vợ của người anh
hùng thì phải vượt xa những suy nghĩ của phụ nữ bình thường. Đã là tri kỉ
thì Kiều phải hiểu được khát vọng trong lòng nàng và còn phải hết lòng
ủng hộ.
Sự chung thủy của Từ Hải thể hiện ở việc hứa sẽ quay lại đón nàng
một khi công thành danh toại lúc đấy sẽ chính thức đón nàng nghi gia
"Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia."
Đó là lời hứa danh dự của một đấng trượng phu phi thường có niềm tin
vào chí khí. Vs Từ Hải bốn phương đang vẫy gọi là chiến công đang chờ
đón là một ngày mai hiển hách với "mười vạn tinh binh". Chàng muốn
cho Kiều có một cuộc sống hạnh phúc và chàng cũng tự tin vào tài năng
của mình sẽ đem đến điều đó như cách mà nhà thơ Đào Tiềm thời Tấn tự
tin
"Thiếu thời tráng thả lệ,
Vũ kiếm độc hành du."
Sẽ có một ngày nào đó chàng trở về mà bóng cờ rợp đầy đường, hình ảnh
chân thực mang tính phóng đại và kì vĩ "mười vạn tinh binh" :thế lực lớn
mạnh, "rõ mặt phi thường" tạo nên sự nghiệp xuất chúng hơn hẳn người
thường niềm tin sắt đá vào bản thân, "rước nàng nghi gia" dón nàng trở
về theo đúng những nghi thức của một vị phu nhân chân chính. Từ Hải
khẳng định mình sẽ làm nên những điều kỳ vĩ lớn lao và dành tặng Kiều
một cuộc sống hạnh phúc như một người phu nhân đích thực. Bây giờ
người anh hùng trong tay không có gì nên Từ Hải không muốn thấy một
tiểu thư khuê các như Kiều phải chịu khổ cùng mình
"Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu."
"bốn bể không nhà" buổi đầu lập nghiệp không thể tránh khỏi những khó
khăn về vật chất. Kiều mà đi theo thì biết là "đi đâu" ta thấy Từ Hai mặc
dù lo nghĩ nghiệp lớn nhưng cũng rất suy nghĩ cho Kiều sợ nàng phải
chịu khổ.Mà người anh hùng cũng không hề hứa xuông nơi trời biển nào
mà chắc chắn bằng cách đưa ra một mốc thời gian cụ thể
"Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì."
"một năm sau" khẳng định bản lĩnh của mình sẽ làm nên sự nghiệp trong
một thời gian ngắn. Từ ý nghĩ, đến dáng vẻ, hành động và lời nói của Từ
Hải trong lúc chia biệt đều thể hiện Từ là người rất tự tin trong cuộc sống.
Chàng tin rằng chỉ trong khoảng một năm chàng sẽ lập công trở về với cả
một cơ đồ lớn.Trong đoạn trích, tác giả đã sử dụng kết hợp nhuần nhuyễn
từ Hán Việt và ngôn ngữ bình dân, dùng nhiều hình ảnh ước lệ và sử
dụng điển cố, điển tích. Đặc biệt, nhân vật Từ Hải được Nguyễn Du tái
tạo theo khuynh hướng lí tưởng hoá. Mọi ngôn từ, hình ảnh và cách miêu
tả, Nguyễn Du đều sử dụng rất phù hợp với khuynh hướng này.Về từ
ngữ, tác giả dùng từ trượng phu, đây là lần duy nhất tác giả dùng từ này
và chỉ dùng cho nhân vật Từ Hải. Không chút vấn vương, bi lụy, không
dùng dằng, quyến luyến như trong các cuộc chia tay bình thường khác,
Từ Hải có cách chia tay mang đậm dấu ấn anh hùng của riêng mình. Lời
chia tay mà cũng là lời hứa chắc như đinh đóng cột; là niềm tin sắt đá vào
chiến thắng trong một tương lai rất gần. Hai câu thơ cuối đoạn đã khẳng
định thêm quyết tâm ấy
"Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
" gió mây bằng đã đến kì dặm khơi" thiên Tiêu dao du trong sách Trang
Tử (Nam Hoa kinh) có truyện ngụ ngôn kể rằng chim bàng là một giống
chim rất lớn, đập cánh làm rung nước trong ba nghìn dặm, cưỡi gió mà
bay lên chín ngàn dặm. Chim bàng trong thơ văn thường tượng trưng cho
khát vọng của những người anh hùng có bản lĩnh phi thường khao khát
làm nên sự nghiệp lớn. Ý cả câu: Đã đến lúc chim bàng bay lên cùng gió
mây, lúc thời cơ của người anh hùng. Hình ảnh kì vĩ lớn lao của điển tích
"cách chim bằng" Nguyễn Du đã thể hiện vẻ đẹp lớn lao và sức mạnh
sánh tựa vũ trụ của người anh hùng đại diện cho khát vọng về công lý của
con người mà Nguyễn Du đã kì công xây dựng trong tác phẩm. Động từ
"quyết lời" thể hiện phong cách mạnh mẽ của đấng trượng phu trong chia
ly từ biệt.