Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Luận văn đầu tư vào tài sản vô hình trong các doanh nghiệp việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.48 KB, 61 trang )

Đề án mơn học

GVHD: Th.S. Lương Hương Giang

LỜI NĨI ĐẦU
Việt Nam đã thay đổi rất nhiều sau 20 năm với thành tích tăng trưởng
cao và rất nhiều người dân Việt Nam đã thốt khỏi cảnh đói nghèo. Với tư
cách một quốc gia, Việt Nam ngày càng nhận được sự nể trọng và có ảnh
hưởng ngày càng lớn hơn trong cộng đồng quốc tế. Song vẫn còn những vấn
đề cần phải giải quyết: năng lực sản xuất cịn nhỏ lẻ, cơng nghệ yếu kém lạc
hậu, chất lượng nguồn nhân lực chưa cao… Bên cạnh đó, có những vấn đề
nhận thức cần phải nghiên cứu làm sáng tỏ từ đó mới có thể định hướng hoạt
động trong thực tiễn. Một trong những vấn đề đó là hoạt động đầu tư vào tài
sản vơ hình trong doanh nghiệp hiện nay.
Chính vì vậy, em đã nghiên cứu đề tài “Đầu tư vào tài sản vơ hình
trong các doanh nghiệp Việt Nam. Thực trạng và giải pháp” nhằm làm rõ
những vấn đề đang được đặt ra hiện nay.
Trong khuôn khổ hạn hẹp của bài viết, chắc hẳn sẽ khó lịng đề cập đầy
đủ các khía cạnh của vấn đề đưa ra, và những sai sót là khơng thể tránh khỏi.
Chính vì vậy em xin chân thành cảm ơn sự đóng góp ý kiến quý báu từ thầy
cô cùng các bạn. Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới cô giáo
Lương Hương Giang - người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo em trong suốt
quá trình thực hiện đề tài này.
Xin chân thành cám ơn!

SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C

1


Đề án môn học



GVHD: Th.S. Lương Hương Giang

CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TÀI
SẢN VÔ HÌNH TRONG DOANH NGHIỆP
I. Khái niệm về đầu tư, đầu tư vào tài sản vơ hình
1. Khái niệm về đầu tư.
1.1 Khái niệm về đầu tư
Đầu tư là một trong những hoạt động quan trọng nhất của nền kinh tế. Nó là
một thành tố khơng thể thiếu được trong nền sản xuất. Nó cũng là mối quan tâm
của bất kỳ doanh nghiệp nào muốn gia tăng lợi nhuận; bất kỳ cá nhân, gia đình nào
muốn gia tăng thu nhập, đời sống vật chất và tinh thần. Vậy đầu tư là gì?
Có khá nhiều khái niệm về đầu tư được các nhà kinh tế học đưa ra. P.A.
Samuelson cho rằng, đầu tư là hoạt động tạo ra tư bản thực sự. Đầu tư có thể
dưới dạng vơ hình như đầu tư cho giáo dục nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, nghiên cứu phát minh. Theo ơng, trong lĩnh vực tài chính, đầu tư có ý
nghĩa hồn tồn khác. Cịn theo Pierce Conso, đầu tư có thể xem xét theo
cách tiếp cận khác nhau như theo quan điểm kinh tế, tài chính và kế toán.
Theo cuốn “từ điển kinh tế”, đầu tư bao gồm đầu tư tài chính và đầu tư tài sản
vật chất. Đầu tư tài sản vật chất là hoạt động chi dùng vốn vào việc mua sắm
các tài sản vật chất như nhà xưởng, máy móc thiết bị (tài sản cố định) và các
tài sản tồn trữ (hàng tồn kho). Đầu tư tài sản vật chất tạo ra những tài sản mới
cho nền kinh tế, trong khi đầu tư tài chính chỉ thuần túy là việc chuyển quyền
sở hữu những tài sản hiện có từ chủ này sang chủ khác.
Có thể thấy khái niệm đầu tư được hiểu khá rộng. Theo nghĩa rộng, đầu
tư có thể hiểu là sự hy sinh nguồn lực hiện tại để đạt được một hay tập hợp
mục đích (mục tiêu) của nhà đầu tư trong tương lai. Theo khái niệm này, đầu
tư là khoản chi trong hiện tại, bao trùm nhiều lĩnh vực như đầu tư tài chính,
đầu tư thương mại, đầu tư tài sản vật chất và phi vật chất…nhiều cấp độ như


SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C

2


Đề án môn học

GVHD: Th.S. Lương Hương Giang

cấp độ nền kinh tế, ngành, địa phương, doanh nghiệp và các cá nhân. Do đó,
mục tiêu của đầu tư cũng được hiểu là đa lĩnh vực như mục tiêu chính trị,
kinh tế, văn hóa – xã hội và cũng có thể là một mục tiêu nhân đạo đơn
thuần… của chủ đầu tư.
Theo nghĩa hẹp, đầu tư là việc chi dùng vốn và các nguồn lực khác trong
hiện tại nhằm thu về một kết quả lớn hơn nguồn lực đã chi ra để đạt kết quả
đó, duy trì và tạo thêm những tài sản mới, năng lực mới cho nền kinh tế và
cho chủ đầu tư trong tương lai. Định nghĩa này đã chỉ rõ phạm vi đầu tư là các
tài sản (vật chất và vơ hình) và giúp phân biệt hoạt động đầu tư với hoạt động
mua sắm tiêu dùng, vì những hoạt động loại này không nhằm đem lại kết quả
trực tiếp lớn hơn sau chu kỳ đầu tư. Phạm trù đầu tư theo nghĩa hẹp cũng giúp
phân biệt hoạt động đầu tư với việc các tổ chức, doanh nghiệp phải chi một
khoản tiền khá lớn cho các hoạt động mang tính thường xun nhằm đảm bảo
cho q trình sản xuất được diễn ra liên tục. Như vậy, đầu tư là hoạt động rất
cần thiết để tái sản xuất tài sản của nền kinh tế và của chủ đầu tư. Với sự phân
tích trên, đầu tư theo nghĩa hẹp cịn được hiểu là đầu tư phát triển.
1.2. Phân loại đầu tư
Phần trên, ta đã thấy có rất nhiều cách tiếp cận với hoạt động đầu tư. Vì
thế, cũng có rất nhiều cách để phân loại hoạt động đầu tư.
- Theo bản chất của các đối tượng đầu tư: Đầu tư vào tài sản hữu hình,

đầu tư vào tài sản vơ hình.
- Theo phân cấp quản lý: Đầu tư dự án nhóm A, đầu tư dự án nhóm B,
đầu tư dự án nhóm C.
- Theo lĩnh vực hoạt động của kết quả đầu tư: Đầu tư phát triển sản xuất
kinh doanh, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng.
- Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư: Đầu tư cơ bản, đầu tư
vận hành.

SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C

3


Đề án môn học

GVHD: Th.S. Lương Hương Giang

- Theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái sản
xuất xã hội: Đầu tư thương mại, đầu tư sản xuất.
- Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư:
Đầu tư ngắn hạn, đầu tư dài hạn.
- Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư: đầu tư gián tiếp, đầu tư trực tiếp.
- Theo nguồn vốn trên phạm vi quốc gia: Đầu tư bằng nguồn vốn trong
nước, đầu tư bằng nguồn vốn nước ngồi.
-Theo quan điểm mục đích và tính chất của hoạt động đầu tư: Đầu tư tài
chính, đầu tư thương mại, đầu tư phát triển.
1.3. Đặc điểm của đầu tư phát triển.
Hoạt động đầu tư phát triển có 5 đặc điểm chủ yếu sau:
Quy mơ tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát

triển thường rất lớn. Đầu tư phát triển là một hoạt động quan trọng của nền
kinh tế. Nó là một bộ phận của tăng trưởng kinh tế. Khi quy mơ đầu tư tăng,
nó tạo đà cho kinh tế tăng trưởng. Vậy nguồn lực để thực hiện đầu tư phát
triển là từ đâu? Đó là vốn. Bản chất đầu tư phát triển được thể hiện ở vốn.
Vậy vì sao cần phải có một nguồn vốn lớn dành cho đầu tư phát triển?
Vốn đầu tư phát triển là biểu hiện bằng tiền tồn bộ những chi phí đã chi
ra để tạo năng lực sản xuất (tăng thêm tài sản cố định và tài sản lưu động) và
các hoạt động đầu tư khác. Nguồn vốn này dùng để chi cho đầu tư xây dựng
cơ bản, chi bổ sung cho các hoạt động đầu tư phát triển. Trong đó, chi xây
dựng cơ bản đóng vai trị quan trọng nhất. Nó là nguồn để xây dựng mới, mở
rộng, xây dựng lại, hoặc khôi phục năng lực sản xuất của tài sản cố định trong
nền kinh tế quốc dân. Ví dụ như tạo thêm những cơng trình nhà máy, dây
chuyền sản xuất, thiết bị máy móc mới, diện tích khai hoang, trồng rừng;
những cơng trình thuỷ lợi, giao thông vận tải, truyền thông bưu điện; hay như
sửa chữa, nâng cấp cầu đường, mua sắm, xây dựng lắp đặt trang thiết bị. Việc
chi vốn này đẩy mạnh hoạt động sản xuất của cả nền kinh tế. Chính vì vậy,
nguồn vốn cần thiết cho hoạt động này rất lớn. Thực tế, nó chiếm trên 80%
SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C

4


Đề án môn học

GVHD: Th.S. Lương Hương Giang

tổng vốn đầu tư phát triển của một nước đang phát triển như Việt Nam. Ngồi
ra cịn có nguồn vốn chi bổ sung. Đó là các khoản đầu tư dùng để mua sắm
nguyên vật liệu, thuê mướn lao động. Nguồn vốn này dùng để vận hành các
cơng trình xây dựng cơ bản làm gia tăng tài sản quốc gia.

Vốn chi cho đầu tư phát triển khác bao gồm tất cả các khoản đầu tư
nhằm gia tăng năng lực sản xuất của xã hội: trình độ dân trí, trình độ lao
động, chất lượng mơi trường. Cụ thể chi cho các cơng trình vì sức khỏe cộng
đồng, phòng chống tệ nạn xã hội, giáo dục, y tế. Các nguồn vốn này đều vì sự
tăng trưởng và phát triển ổn định của một quốc gia. Để đưa nền kinh tế tăng
trưởng nhanh trước hết nhất thiết phải có nguồn lực lớn mạnh. Do vậy, muốn
đưa đất nước đi lên cần phải có những giải pháp cho việc huy động, quản lý
và sử dụng vốn hợp lý.
Lao động cần sử dụng cho các dự án rất lớn, đặc biệt đối với các dự án
trọng điểm quốc gia. Do đó, cơng tác tuyển dụng, đào tạo, sử dụng, và đãi ngộ
cần tuân thủ một kế hoạch định trước, sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu từng
loại nhân lực theo tiến độ đầu tư, đồng thời, hạn chế đến mức thấp nhất những
ảnh hưởng tiêu cực do vấn đề “hậu dự án” tạo ra như việc bố trí lại lao động,
giải quyết lao động dôi dư…
Tài nguyên, vật tư là những thành tố không thể thiếu đảm bảo cho quá
trình hoạt động bình thường của dự án. Nhưng điều quan trọng là cần phải có
hướng sử dụng sao cho vừa duy trì được cân bằng sinh thái, tránh khai thác
cạn kiệt vừa mang lại lợi ích cho chủ đầu tư.
Một đặc điểm quan trọng khác của đầu tư phát triển là thời kỳ đầu tư
kéo dài. Thời kỳ đầu tư tính từ khi khởi cơng thực hiện dự án cho đến khi
hoàn thành và thực hiện dự án. Trong đặc điểm trên, ta thấy rằng những dự án
đầu tư phát triển thường có quy mơ rất lớn. Q trình chuẩn bị, thực hiện và
vận hành kết quả đầu tư cần có một khoản thời gian nhất định. Ví dụ thời gian
xây dựng mới một con đường quốc lộ cần ít nhất là 2 đến 3 năm, bao gồm các
thủ tục về mặt pháp lý, giải phóng mặt bằng, thi cơng cơng trình, nghiệm thu
SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C

5



Đề án mơn học

GVHD: Th.S. Lương Hương Giang

cơng trình... Thực tế có những cơng trình xây dựng phải mất tới hàng chục
năm: xây một tòa nhà cao tầng, xây nhà máy lớn, cơng trình thủy điện…
Thời kỳ đầu tư kéo dài là cần thiết đối với một dự án. Nhưng vấn đề
quan trọng là cần bao nhiêu thời gian. Điều này cần phải được nghiên cứu kỹ
và có tính tốn, tránh chạy theo thành tích mà đề ra những khoảng thời gian
phi thực tế, ảnh hưởng đến chất lượng công trình. Ngồi ra, như chúng ta đã
biết, nguồn vốn dành cho đầu tư phát triển thường nằm khê đọng trong suốt
q trình thực hiện đầu tư. Tiến độ cơng trình chậm bao nhiêu, thời gian hoàn
vốn chậm bấy nhiêu. Điều đó làm giảm hiệu quả đầu tư. Do vậy, việc đảm
bảo thời gian thực hiện dự án cũng là yêu cầu phải được đặt lên hàng đầu.
Thời gian vận hành các kết quả đầu tư thường kéo dài. Thời gian vận
hành các kết quả đầu tư được tính từ khi cơng trình đưa vào hoạt động cho
đến khi hết thời hạn sử dụng và đào thải cơng trình. Đây là một đặc điểm rất
riêng của đầu tư phát triển. Thứ nhất, những sản phẩm của đầu tư phát triển
đều là bộ phận của nền sản xuất. Nó tạo ra của cải vật chất cho xã hội, tạo đà
tăng trưởng cho nền kinh tế, nên thời gian sử dụng dài. Thứ hai, quy mơ của
các cơng trình rất lớn, nên cần có một khoảng thời gian tương đối để thu hồi
vốn và có lợi nhuận. Trên thực tế có rất nhiều cơng trình đã tồn tại vài chục
năm, hàng trăm năm, thậm chí hàng thế kỷ như thủy điện sơng Đà, cầu Long
Biên, phố cổ Hội An.... Do tính chất này, nên trong suốt q trình vận hành,
nó chịu ảnh hưởng nhiều của các nhân tố bên ngoài, và đa phần là có ảnh
hưởng tiêu cực đến sự thành cơng của dự án.
Các nhân tố tự nhiên, kinh tế, xã hội ảnh hưởng lớn đến quá trình
thực hiện và vận hành kết quả đầu tư, nhất là đối với các công trình xây
dựng. Các cơng trình xây dựng nói chung thường có quy mơ lớn và phát huy
tác dụng ngay tại địa phương xây dựng. Do vậy quá trình đầu tư cũng như

thời gian vận hành các cơng trình này chịu nhiều tác động của điều kiện tự
nhiên, kinh tế, xã hội của vùng. Xây dựng một cơng trình ở nơi có khí hậu
nhiệt đới gió mùa khác với xây dựng ở vùng hanh khô, hay xây dựng công
SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C

6


Đề án mơn học

GVHD: Th.S. Lương Hương Giang

trình ở nơi có địa chất ổn định khác với xây dựng ở nơi hay xảy ra động đất.
Do vậy nhà đầu tư cần có tính tốn hợp lý vừa để đảm bảo tính kiên cố của
cơng trình, vừa có thể giảm được chi phí cho doanh nghiệp. Tiếp đến, sự phát
triển kinh tế của vùng có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định đầu tư và quy mơ
của doanh nghiệp. Nó ảnh hưởng đến việc mặt hàng của doanh nghiệp có khả
năng phát triển trong điều kiện kinh tế vùng hay không? Lấy ví dụ về việc mở
con đường ở nơng thơn - kinh tế còn hạn chế - và ở thành phố - kinh tế phát
triển. Ở nông thôn liệu nhu cầu đi lại đã đủ lớn để xây dựng con đường đó
chưa? Nếu như nó được xây dựng có cần thiết phải xây con đường lớn không?
Điều này buộc nhà đầu tư phải cân nhắc. Ngược lại ở thành phố, nhu cầu giao
thông rất lớn, cần phải mở thêm đường để giảm bớt lưu lượng xe trên nhũng
con đường khác, tránh ùn tắc... Điều kiện xã hội của vùng cũng có ảnh hưởng
lớn tới cơng trình. Việc xây dựng nhà máy liệu có đảm bảo an ninh khơng,
sản phẩm của nhà máy có phù hợp với văn hóa địa phương hay không?.... Do
những ảnh hưởng trên đây, nên doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ càng môi
trường đầu tư để quyết định sản xuất mặt hàng gì, cơng suất bao nhiêu là hợp
lý.
Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao. Đầu tư nói chung và đầu tư phát triển

nói riêng mang một đặc điểm quan trọng: độ rủi ro cao. Nguồn lực cần cho
đầu tư phát triển là rất lớn. Việc thu hồi vốn liệu có gặp thuận lợi hay khơng?
Cùng một nguồn vốn đó, nhà đầu tư có thể đa dạng hóa đầu tư. Điều này sẽ
làm giảm thất bại hơn là việc dồn vốn cho một dự án. Hơn thế nữa, thời gian
hoàn thành dự án dài, vốn bị khê đọng trong cơng trình. Trong khoản thời
gian đó, chủ đầu tư rất có thể gặp khó khăn khi một chính sách mới ban hành
khơng có lợi cho cơng trình, hay những biến động về giá cả... Do đo rủi ro là
một vấn để được các nhà đầu tư rất quan tâm.
Rủi ro trong đầu tư cũng có rất nhiều nguyên nhân. Tựu chung lại ta có
thể xét rủi ro trên hai phương diện sau: Rủi ro chủ quan và rủi ro khách quan.
Rủi ro chủ quan: nguyên nhân thuộc về phía các chủ đầu tư. Có thể do chủ
SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C

7


Đề án môn học

GVHD: Th.S. Lương Hương Giang

đầu tư yếu kém về mặt trình độ, đã lựa chọn các phương án khơng hợp lý; do
trình độ quản lý thấp, chất lượng sản phẩm không đạt yêu cầu... Rủi ro khách
quan: Có thể do thay đổi pháp luật; biến động của thị trường (giá cả nguyên
vật liệu, mặt hàng liên quan); máy móc hư hỏng....
Để thực hiện đầu tư tốt, nhà đầu tư cần phải nghiên cứu, phân loại các rủi
ro có thể gặp trong suốt q trình đầu tư:
- Rủi ro chính trị: do sự thay đổi về thuế theo hướng bất lợi khiến cho
dòng lợi nhuận của chủ đầu tư giảm trong tương lai. Hay Nhà nước ban hành
các chính sách giới hạn thương mại, hạn ngạch thuế quan khiến các doanh
nghiệp phải giảm sản lượng, tăng chi phí. Điều này ảnh hưởng đến những tính

tốn trước khi ra quyết định đầu tư. Từ đó, cơng trình có nguy cơ giảm lợi
nhuận, thua lỗ....
- Rủi ro trong quá trình xây dựng hồn thành cơng trình: Rủi ro khi chi
phí xây dựng vượt q dự tốn. Như vậy cơng trình sẽ gặp khó khăn trong
việc xin cấp phép nguồn vốn bổ sung. Nó ảnh hưởng nhiều đến tiến độ thi
cơng cơng trình, ít thì có thể là một vài tháng, nhiều có thể vài năm, thậm chí
cơng trình bị hủy, gây lãng phí nguồn lực. Rủi ro phát sinh cũng có thể là
khơng hồn thành cơng trình đúng thời hạn, không giải tỏa được dân cư...
- Rủi ro về kỹ thuật vận hành: Khi các thiết bị trong quá trình thực hiện
đầu tư gặp vấn đề. Điều này có thể gây thiệt hại kinh tế rất lớn. Ví dụ nguyên
liệu đang trong giai đoạn chế biến quan trọng, nếu máy móc bị hỏng tồn bộ,
ngun liệu đó khơng thể sử dụng được. Thiệt hại của chủ đầu tư ngoài giá trị
sản phẩm đó, cịn các yếu tố liên quan khác: chi phí khắc phục máy móc,
chậm giao sản phẩm cho khách hàng, kế hoạch làm việc của lao động....
Ngoài ra, ta cịn có các loại rủi ro khác như: rủi ro về môt trường xã hội;
rủi ro kinh tế vĩ mơ (lạm phát, tỷ giá hối đối), vi mơ (cung, cầu)... Với những
thiệt hại mà rủi ro đem lại cho các hoạt động đầu tư phát triển, đòi hỏi các nhà
đầu tư phải có những nghiên cứu để nhận diện, đánh giá rủi ro, phịng tránh
rủi ro. Từ đó mới đi tới quyết định đúng đắn.
SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C

8


Đề án môn học

GVHD: Th.S. Lương Hương Giang

2. Khái niệm về đầu tư tài sản vơ hình
2.1. Khái niệm về đầu tư tài sản vơ hình

Tài sản vơ hình là những tài sản thể hiện ra bằng những lợi ích kinh tế,
chúng khơng có cấu tạo vật chất, mà tạo ra những quyền và những ưu thế đối
với người sở hữu và thường sinh ra thu nhập cho người sở hữu chúng. Nói
một cách nơm na tài sản vơ hình là tất cả những gì khơng thể dùng giác quan
cảm nhận được nhưng lại có thể mang lại giá trị thặng dư được tính thành
tiền.
Bên cạnh những đặc điểm chung của tài sản và tài sản cố định trong
doanh nghiệp, tài sản vơ hình có những đặc điểm chủ yếu sau:
- Có hình thái vật chất khơng rõ ràng
- Rất khó đánh giá chính xác giá trị của một tài sản cố định vơ hình vì nó
khơng tồn tại dưới dạng vật chất có thể đo đếm dễ dang. Sự đánh giá đúng
hay sai trị giá của tài sản cố định vơ hình phụ thuộc chủ yếu vào cảm nhận và
ý kiến chủ quan của người đánh giá. Tuy nhiên, sự phát triển của các thị
trường tài chính, thị trường về quyền sở hữu công nghiệp đã tạo ra điều kiện
hình thành các mức giá thị trường của tài sản vơ hình. Giá trị của những tài
sản vơ hình này được thể hiện bằng những khoản chi phí để mua tài sản đó
thơng qua các văn bản sở hữu được luật pháp thừa nhận như: khế ước, giấy
chứng nhận sở hữu, hợp đồng…
- Các tài sản vơ hình chỉ có lợi ích khi nó tạo ra lợi thế thương mại,
chẳng hạn như sự yêu thích của người tiêu dùng hay người sử dụng.
2.2. Phân loại tài sản vơ hình.
Tài sản vơ hình bao gồm danh tiếng, tinh thần và văn hóa ứng xử của đội
ngũ nhân lực, bí quyết kinh doanh và bí quyết kỹ thuật, sáng chế, giải pháp kỹ
thuật, kiểu dáng cơng nghệ, nhãn hiệu hàng hóa và các thành quả vơ hình
khác.

SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C

9



Đề án môn học

GVHD: Th.S. Lương Hương Giang

- Các sáng chế, phát minh, cơng thức, quy trình, mơ hình, kỹ năng
(know-how).
- Bản quyền và các tác phẩm văn học, âm nhạc, nghệ thuật.
- Thương hiệu, tên thương mại, nhãn hiệu hàng hoá.
- Quyền kinh doanh (franchise), giấy phép (license), hợp đồng.
- Phương pháp, chương trình, hệ thống, thủ tục, khảo sát, nghiên cứu, dự
báo, dự toán, danh sách khách hàng, các số liệu kỹ thuật.
- Các thứ “tương tự” khác. Một thứ được gọi là “tương tự” nếu nó tạo ra
giá trị khơng phải nhờ vào các “thuộc tính vật chất”, mà nhờ vào “nội dung trí
tuệ hoặc các quyền tài sản vơ hình khác của nó”.
II. Nội dung đầu tư vào tài sản vơ hình của doanh nghiệp
1. Hoạt động đầu tư phát triển nguồn lực.
Nguồn nhân lực là nguồn lực con người, là một trong những nguồn lực
quan trọng của sự phát triển kinh tế xã hội. Nguồn nhân lực được hiểu như là
nơi sinh sản, nuôi dưỡng và cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển.
Nó là một yếu tố tham gia trực tiêp vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, là
tổng thể những con người cụ thể tham gia vào quá trình lao động.
Chất lượng nguồn nhân lực là trạng thái nhất định của nguồn nhân lực,
thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất bên trong của
nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát
triển kinh tế và đời sống người dân trong một xã hội nhất định. Chất lượng
nguồn nhân lực ảnh hưởng mạnh đến năng suất lao động, đến sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp, nguồn nhân lực có vị trí quan trọng. Đó là yếu tố
duy nhất đưa lại lợi ích kinh tế, làm tăng của cải cho doanh nghiệp. Trong q

trình sản xuất kinh doanh phải có 3yếu tố cơ bản là: tư liệu lao động, đối
tượng lao động và lao động; nếu khơng có con người thì yếu tố tư liệu lao
động và đối tượng lao động chỉ là vật chết, chính yếu tố lao động mới làm

SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C

10


Đề án môn học

GVHD: Th.S. Lương Hương Giang

sống lại tư liệu sản xuất thông qua việc đưa chúng tham gia vào quá trình sản
xuất. Người lao động là yếu tố cách mạng nhất của quá trình sản xuất. Mặt
khác, nguồn nhân lực có chất lượng cao góp phần làm tăng năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp, tăng thu hút đầu tư. Do vậy cần phải đầu tư phát triển
nguồn nhân lực.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực là hoạt động đầu tư nâng cao chất
lượng nguồn lực con người, đó là quá trình trang bị kiến thức nhất định về
chuyên mơn nghiệp vụ cho người lao động, để họ có thể đảm nhận được một
cơng việc nhất định; đó cũng là quá trinh cải thiện, nâng cao chất lượng điều
kiện làm việc của người lao động.
Như vậy, nội dung đầu tư phát triển nguồn nhân lực bao gồm:
- Đầu tư cho hoạt động đào tạo đội ngũ nguồn nhân lực
- Đầu tư cho cơng tác chăm sóc sức khoẻ, y tế
- Cải thiện môi trường, điều kiện làm việc
- Trả lương đúng và đủ cho người lao động.
Đầu tư cho hoạt động đào tạo đội ngũ lao động: Hoạt động đào tạo:
chính quy, dài hạn, ngắn hạn, bồi dưỡng nghiệp vụ… Giáo dục cơ bản cung

cấp những kiến thức cơ bản để phát triển năng lực cá nhân. Giáo dục nghề và
giao dục đại học (đào tạo) vừa giúp cho người học có kiến thức đồng thời
cung cấp tay nghề, kỹ năng, chun mơn. Với mỗi trình độ nhất định, người
được đào tạo biết được họ sẽ phải đảm nhận những cơng việc gì, u cầu kỹ
năng cũng như chun mơn nghề nghiệp phải như thế nào?
Vai trị của hoạt động giáo dục đối với việc nâng cao chất lượng lao động
được cụ thể như sau:
Tăng tích luỹ vốn con người đặc biệt là tri thức và sẽ giúp cho việc sáng
tạo ra công nghệ mới, tiếp thu công nghệ mới. Do đó, thúc đẩy q trình tăng
trưởng dài hạn của doanh nghiệp.
Tạo ra một lực lượng lao động có trình độ, có khả năng làm việc với
năng suất cao, là cơ sở thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững.
SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C

11


Đề án môn học

GVHD: Th.S. Lương Hương Giang

Giúp bổ sung các dịch vụ y tế.
Đầu tư dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ cải thiện chất lượng lao động:
Sức khoẻ có tác động đến chất lượng lao động cả hiện tại và tương lai. Người
có sức khoẻ tốt có thể mang lại những lợi nhuận trực tiếp hoặc gián tiếp bằng
việc nâng cao sức bền bỉ, dẻo dai và khả năng tập trung cao. Vì vậy nhanh
chóng tiếp thu kiến thức, kỹ năng qua giáo dục – đào tạo.
Trả lương đúng và đủ cho người lao động: Làm cho người lao động
nhận thức đúng đắn công việc và vai trị của mình trong doanh nghiệp.
Lương phù hợp với khả năng khiến người lao động vững tâm và phấn

đấu hơn trong công việc.
Như vậy, đầu tư vào các hoạt động trên có tác động hỗ trợ nhau, bổ sung
cho nhau trong việc cải thiện chất lượng nguồn nhân lực .
2. Hoạt động đầu tư nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học và
công nghệ.
Cùng với đà phát triển của cơ chế thị trường hiện nay, nhu cầu của con
người càng đa dạng, địi hỏi cao khơng những về mặt số lượng mà cịn về mặt
chất lượng. Vì vậy, doanh nghiệp muốn có một chỗ đững vững chắc trên thị
trường và nâng cao khả năng với các doanh nghiệp khác thì doanh nghiệp
phải khơng ngừng cải tiến, đổi mới sản phẩm, đổi mới phương thức sản xuất,
đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm. Vì vậy, hoạt động đàu
tư nghiên cứu khoa học là thực sự quan trọng, đóng vai trị quyết định sự sống
cịn của doanh nghiệp.
Đầu tư nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ có thể là đầu tư nghiên
cứu cơng nghệ mới hoặc là đầu tư mua sắm công nghệ từ nước ngồi.
Mua cơng nghệ tức là cơng nghệ thuộc quyền sở hữu độc quyền của
doanh nghiệp, doanh nghiệp là người duy nhất có quyền quyết định về cơng
nghệ đó. Từ đó doanh nghiệp có khả năng sản xuất ra sản phẩm hoặc dịch vụ
hiệu quả nhất, tốt nhất, tạo lợi thế cạnh tranh cao nhất cho doanh nghiệp. Tuy
nhiên trong thực tế các doanh nghiệp nước ta hiện nay thực thi điều này là rất
SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C

12


Đề án mơn học

GVHD: Th.S. Lương Hương Giang

khó, mặt khác việc mua cơng nghệ thường gặp rủi ro lớn vì chưa hẳn công

nghệ là tốt nhất. Nếu trong tương lai doanh nghiệp chưa kịp khấu hao hết
cơng nghệ thì đã xuất hiện cơng nghệ mới tốt hơn…chính vì thế mà người ta
thường chỉ mua những cơng nghệ ít biến động, sản xuất hàng hố đặc biệt,
hay với cơng nghệ xuất hiện lần đầu trong một loại sản phẩm dịch vụ cấp
thiết, nhu cầu thị trường là rất lớn.
Mua quyền sử dụng cơng nghệ: doanh nghiệp thường áp dụng hình thức
này bởi hình thức này có ít rủi ro hơn và tốn ít chi phí hơn. Tuy nhiên doanh
nghiệp phải chấp nhận đối thủ của mình cũng sở hữu cơng nghệ như mình và
sức ép cạnh tranh là rất lớn. Nhưng ít ra nó cũng giúp cho doanh nghiệp có
những lợi thế hơn so với những sản phẩm khơng có cơng nghệ đó hoặc lợi thế
giá thành do cơng nghệ giúp khai thác tối đa những nguồn lực mà đối thủ
không có.
Và ngồi ra doanh nghiệp cịn có thể đầu tư vào nghiên cứu phát minh ra
cơng nghệ mới hay có sự cải tiến trong việc sử dụng hay tăng năng lực sản
xuất của doanh nghiệp.
Đầu tư nghiên cứu hoặc mua cơng nghệ địi hỏi một lượng vốn lớn và độ
rủi ro cao. Công nghệ được sử dụng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản
phẩm tạo ra. Vì vậy, đầu tư vào khoa học công nghệ cần phải đầu tư một cách
cẩn trọng. Hiện nay khả năng đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và triển khai
khoa học và công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam còn khá khiêm tốn. Cùng
với đà phát triển của kinh tế đất nước và doanh nghiệp, trong tương lai tỷ lệ
chi cho hoạt động đầu tư này sẽ càng tăng, tương ứng với nhu cầu và khả
năng của doanh nghiệp.
3. Hoạt động đầu tư Marketing
Hoạt động marketing là một trong những hoạt động quan trọng của
doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp là một chủ thể kinh
doanh, một cơ thể sống của đời sống kinh tế. Cơ thể đó cần có sự trao đổi chất
với mơi trường bên ngồi – thị trường. Q trình trao đổi chất đó càng diễn ra
SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C


13


Đề án môn học

GVHD: Th.S. Lương Hương Giang

thường xuyên, liên tục, với quy mơ càng lớn thì cơ thể đó càng khoẻ mạnh.
Ngược lại, sự trao đổi đó diễn ra yếu ớt thì cơ thể đó có thể quặt quẹo và chết
yểu. Chỉ có marketing mới có vai trị quyết định và điều phối sự kết nối với
thị trường, có nghĩa là đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
hướng theo thị trường, biết lấy thị trường – nhu cầu và ước muốn của khách
hàng làm chỗ dựa vững chắc nhất cho mọi quyết định kinh doanh. Như vậy
đầu tư vào hoạt động marketing, doanh nghiệp sẽ tăng cường được vị thế của
mình, ngồi ra doanh nghiệp cịn xác định được các bước đi tiếp theo trong kế
hoạch chiến lược của mình.
Đầu tư cho hoạt động marketing bao gồm:
- Đầu tư cho hoạt động quảng cáo: là hoạt động đầu tư vào những hình
thức truyền thơng khơng trực tiếp, phi cá nhân, được thực hiện thông qua các
phương tiện truyền tin phải trả tiền và các chủ thể quảng cáo phải chịu chi
phí. Theo quan điểm của nhà quản lý, quảng cáo là phương sách có tính chất
chiến lược để đạt được hoặc duy trì một lợi thế cạnh tranh trên thị trường.
Trong nhiều trường hợp, đầu tư cho quảng cáo là một sự đầu tư dài hạn .
- Xúc tiến thương mại
- Xây dựng thương hiệu…
Đầu tư cho các hoạt động marketing cần chiếm một tỷ trọng hợp lý trong
tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp.
4. Đầu tư vào tài sản vơ hình khác
Tài sản vơ hình khác: Bao gồm những loại tài sản vơ hình khác chưa qui
định phản ánh ở trên như: quyền đặc nhượng; quyền thuê nhà; quyền sử dụng

hợp đồng; công thức và cách pha chế, kiểu mẫu, thiết kế và vật mẫu; tài sản
vơ hình đang triển khai…

SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C

14


Đề án mơn học

GVHD: Th.S. Lương Hương Giang

III. Vai trị của đầu tư tài sản vơ hình đối với sự phát triển của doanh
nghiệp
Như trên chúng ta thấy, hoạt động đầu tư vào tài sản vơ hình là nội dung
cực kỳ quan trọng trong chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Nhất là đối
với các doanh nghiệp dịch vụ và cơng nghệ thì để tồn tại và phát triển cần
phải xây dựng được một thương hiệu mạnh.
Vậy đầu tư vào tài sản hữu hình có tác động thế nào đến sự phát triển của
doanh nghiệp, chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu.
Đầu tư vào tài sản vơ hình tác động tới tới đầu tư vào tài sản hữu
hình. Một khi doanh nghiệp đã đầu tư tốt vào tài sản vô hình, xây dựng cho
mình được một thương hiệu mạnh, có uy tín với người tiêu dùng thì điều đó
sẽ góp phần làm tăng doanh thu cũng như lợi nhuận cho doanh nghiệp. Từ đó
doanh nghiệp sẽ có vốn để đầu tư ngược trở lại tài sản hữu hình thơng qua
việc mở rộng quy mô sản xuất, mua sắm trang thiết bị mới, xây dựng thêm
các nhà xưởng…
Bên cạnh đó, nếu doanh nghiệp xây dựng được một đội ngũ nhân lực có
khả năng và kinh nghiệm, có tâm huyết với cơng việc thì điều này đã trở
thành một lợi thế cạnh tranh lơn cho doanh nghiệp. Hay khi doanh nghiệp

triển khai nghiên cứu một cơng nghệ mới thành cơng, có tác dụng nâng cao
năng suất lao động, cải tiến chất lượng sản phẩm thì nó sẽ giúp nâng cao mức
lợi nhuận của doanh nghiệp, tạo cơ sở cho doanh nghiệp đầu tư trở lại tài sản
hữu hình.
Mặc dù đầu tư vào tài sản vơ hình có thể tác động tích cực song cũng có
thể tác động tiêu cưc tới hoạt động đầu tư vào tài sản hữu hình. Nếu doanh
nghiệp khơng xác định được tỉ trọng đầu tư hợp lí vào tài sản vơ hình thì sẽ
gây cản trở cho việc đầu tư vào tài sản hữu hình. Vì nguồn lực của các doanh
nghiệp là hạn chế, nhất là đối với những doanh nghiệp Việt Nam như hiện
nay- chủ yếu là những doanh nghiệp nhỏ, lẻ, quy mơ vốn thấp. Chính vì vậy,
nếu khơng sử dụng nguồn vốn hạn chế đó một cách có hiệu quả, phân bổ hợp
SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C

15


Đề án mơn học

GVHD: Th.S. Lương Hương Giang

lí vào từng danh mục đầu tư thì nếu đầu tư quá nhiều vào tài sản vơ hình thì sẽ
ảnh hưởng tới hiệu quả đầu tư vào tài sản hữu hình.
Bên cạnh đó, bất cứ một doanh nghiệp nào nếu chỉ tìm mọi cách để đánh
bóng thương hiệu của mình trong con mắt người tiêu dùng( tức đầu tư vào tài
sản vơ hình- thương hiệu) mà không đổi mới, cải tiến chất lượng sản phẩm,
mở rộng quy mơ sản xuất thì tất yếu sẽ dẫn tới việc phá sản, thất bại trong nền
kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, khi mà sản phảm đang
ngày càng phong phú đa dạng cả về chủng loại và chất lượng và yêu cầu của
người tiêu dùng thì ngày càng khắt khe hơn. Do đó, nếu doanh nghiệp khơng
có chiến lược đầu tư tốt cho tài sản vơ hình thì sẽ gây khó khăn, ảnh hưởng

tiêu cực tới việc đầu tư vào tài sản hữu hình.
Mặt khác, nếu doanh nghiệp sai lầm trong việc đầu tư vào tài sản vơ
hình- ví dụ như tốn quá nhiều chi phí trong việc nghiên cứu triển khai một
công nghệ không phù hợp, hoặc chiến lược tiếp thị, quảng cáo sản phẩm gây
tác dụng ngược, phản cảm trong cơng chúng thì điều đó sẽ làm xấu đi hình
ảnh của doanh nghiệp, giảm doanh thu cũng như thị phần của doanh nghiệp
và điều đó sẽ tác động trực tiếp tới việc đầu tư vào tài sản hữu hình của doanh
nghiệp đó.
Đầu tư vào tài sản vơ hình tác động tới hoạt động của doanh nghiệp.
Như chúng ta đã biêt, tài sản vơ hình là thành phần khơng thể thiếu của doanh
nghiệp, là phần xương sống của doanh nghiệp. Vậy hoạt động đầu tư vào tài
sản vơ hình có tác động thế nào đến hoạt động của doanh nghiệp. Chúng ta có
thể thấy:
Đầu tư vào tài sản vơ hình là không thể thiếu đối với hoạt động một
doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Trước đây khi chúng ta duy trì cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp thì các doanh nghiệp chỉ cần đầu tư vào tài sản
hữu hình bởi vì mỗi doanh nghiệp đã được giao định mức sản xuất, còn việc
tiêu thụ sản phẩm là do Nhà Nước quản lý. Do vậy một doanh nghiệp có thể
tồn tại hay khơng là phụ thuộc vào Nhà nước. Cịn hiện nay, một doanh
SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C

16


Đề án môn học

GVHD: Th.S. Lương Hương Giang

nghiệp muốn tồn tại khơng chỉ có cơ sở vật chất để sản xuất ra sản phẩm (tức
tài sản hữu hình) mà nó cịn phải có vị trí trên thị trường. Tức là sản phẩm

doanh nghiệp phải được người tiêu dùng biết đến, lựa chọn và có một vị thế
nhất định trong con mắt của người tiêu dùng. Để làm được điều đó thì doanh
nghiệp cịn phải đầu tư vào tài sản vơ hình, tạo nên hình ảnh cho doanh
nghiệp mình.
Đầu tư vào tài sản vơ hình một cách hợp lý có tác động tích cực đến
hoạt động của doanh nghiệp.Nếu doanh nghiệp khơng để ý đầu tư vào tài sản
hữu hình thì sẽ khó có chỗ đứng trên thị trường. Bởi vì chúng ta đang hoạt
động trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển
thì phải khẳng định được hình ảnh của mình. Xu thế ngày nay đó là các doanh
nghiệp tăng cường cho việc đầu tư vào tài sản vơ hình nhiều. Điều quan trọng
là các doanh nghiệp phải định vị sản phẩm của mình trên thị trường để có
được chiến lược đầu tư đồng bộ giữa tài sản hữu hình và tài sản vơ hình nhằm
mang lại hiệu quả tốt nhất.

SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C

17


Đề án môn học

GVHD: Th.S. Lương Hương Giang

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN VƠ HÌNH
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM GIAI ĐOẠN

2002-2007
I. Tình hình đầu tư vào tài sản vơ hình theo nội dung đầu tư
1. Tình hình đầu tư phát triển nguồn nhân lực

Thứ nhất, về đầu tư cho hoạt động đào tạo đội ngũ nguồn nhân lực.
Hiện nay, hoạt động đào tạo này đang theo hướng cầu của thị trường lao
động.
Với việc hoàn thiện Luật doanh nghiệp, mỗi năm có hàng chục ngàn cơ
sở sản xuất kinh doanh được thành lập với nhiều loại hình sở hữu và hình
thức hoạt động. Theo Tổng cục thống kê, đến nay đã có trên 240.000 doanh
nghiệp đăng ký hoạt động với số lao động làm việc đạt gần 12 triệu người. Để
nâng cao năng lực cạnh tranh, các doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực của mình, dẫn tới nhu cầc về lao động qua đào tạo nghề cũng
như của các ngành kinh tế là rất lớn. Nhận thức được vai trò của việc đầu tư
cho hoạt động này, để đáp ứng được nhu cầu nhân lực kỹ thuật cho các doanh
nghiệp, công tác dạy nghề đã từng bước được đổi mới và phát triển. Có thể
nêu một số kết quả đạt được:
Hệ thống dạy nghề đã bắt đầu được đổi mới, chuyển từ hệ thống dạy
nghề hai cấp trình độ đào tạo sang hệ thống dạy nghề với ba cấp trình độ: sơ
cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề, coi trọng dạy nghề trình độ cao
đáp ứng nhu cầu.
Mạng lưới các cơ sở dạy nghề được phát triển theo quy hoạch rộng khắp
trên toàn quốc, đa dạng về loại hình sở hữu và đào tạo. Đến nay trong cả nước
có 2052 cơ sở dạy nghề. Số lượng dạy nghề tư thục tăng nhanh, đã có một số

SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C

18


Đề án môn học

GVHD: Th.S. Lương Hương Giang


cơ sở dạy nghề có vốn đầu tư nước ngồi. Hiện có 789 cơ sở dạy nghề ngồi
cơng lập.
Năng lực đào tạo của các cơ sở dạy nghề đã được nâng lên. Quy mơ đào
tạo nghề tăng nhanh, năm 2007 ước tính tuyển sinh được 1.436.500 người,
trong đó trung cấp nghề là 151.000 và cao đẳng nghề là 29.500 người.
Cơ cấu ngành nghề được đào tạo đã từng bước được điều chỉnh theo cơ
cấu ngành nghề trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của các doanh nghiệp.
Các cơ sở dạy nghề đã mở rộng thêm nhiều ngành nghề mà doanh nghiệp có
nhu cầu.
Chất lượng và hiệu quả dạy nghề có từng bước chuyển tích cực. Hàng
năm tỷ lệ học sinh tốt nghiệp đạt trên 95%; trong đó loại khá giỏi chiếm 29%;
khoảng 70% học sinh tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm ngay sau khi tốt
nghiệp ở một số nghề và một số cơ sở dạy nghề tại doanh nghiệp, tỷ lệ này
đạt trên 90%. Qua điều tra của tổng cục dạy nghề tại gần 3.000 doanh nghiệp,
đa số lao động qua đào tạo nghề đang làm việc trong các doanh nghiệp đã
được sử dụng có hiệu quả. Đa số lao động qua đào tạo nghề được các doanh
nghiệp sử dụng phù hợp với trình độ đào tạo cua họ (khoang 85% so với số
lao động qua đào tạo nghề đang làm việc tại doanh nghiệp). Theo đánh giá
của người sử dụng lao động, khoảng 30% số lao động qua đào tạo nghề có kỹ
năng nghề đạt loại khá trở lên.
Nhìn chung dạy nghề đã từng bước đáp ứng nhu cầu lao động kỹ thuật
trực tiếp trong sản xuất của doanh nghiệp; lao động Việt Nam đã đảm nhiệm
được hầu hết những vị trí quan trọng trong các ngành sản xuất, kể cả các
ngành địi hỏi kỹ thuật cao, cơng nghệ phức tạp, góp phần tăng năng suất lao
động, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hoá.
Việc dạy nghề được phát triển với các mơ hình dạy nghề năng động, linh
hoạt gắn đào tạo với sử dụng lao động theo hướng cầu của thị trường lao động
để đáp ứng nhu cầu nhân lực của doanh nghiệp. Đặc biệt mơ hình dạy nghề tại
doanh nghiệp được triển khai trong những năm qua đã đạt được những kết
SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C


19


Đề án môn học

GVHD: Th.S. Lương Hương Giang

quả bước đầu. Đến nay, cả nước có 143 cơ sở dạy nghề thuộc các doanh
nghiệp; hầu hết các tổng công ty, các tập đồn kinh tế mạnh đều có trường
dạy nghề để chủ động tạo nguồn nhân lực cho xã hội. Các doanh nghiệp, nhất
là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, doanh nghiệp tư nhân có quy
mơ lớn đã tổ chức dạy nghề, bổ túc nghề, bồi dưỡng kỹ năng, chuyển giao
công nghệ cho người lao động theo yêu cầu của doanh nghiệp. Nhiều doanh
nghiệp cũng đã đào tạo nghề tại chỗ khá tốt, không những đáp ứng được nhu
cầu về tác động kỹ thuật phù hợp với cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề sản
xuất kinh doanh và trình độ cơng nghệ của doanh nghiệp, mà cịn chia sẻ trách
nhiệm đối với Nhà nước, thực hiện xã hội hoá trong đào tạo nghề nhằm nâng
cao chất lượng và tay nghề của đội ngũ lao động nước ta.
Ngoài việc tuyển dụng lao động có tay nghề, đào tạo nâng cao kỹ năng
nghề cho lao động sau khi tuyển dụng là một vấn đề cần thiết. Qua khảo sát
gần 10.000 lao động trong các doanh nghiệp; có 36,6% số lao động được đào
tạo, đào tạo lại sau khi tuyển dụng để phù hợp với công nghệ sản xuất của
doanh nghiệp. Điều này khơng có nghĩa là dạy nghề chưa đáp ứng được mà vì
để thích ứng với cơng nghệ, nên các doanh nghiệp vẫn phải đào tạo lại cho
phù hợp.
Điều đáng chú ý là trong thời gian qua, bước đầu đã có sự gắn kết giữa
nhà trường và doanh nghiệp trong dạy nghề, như: Thành phố Hồ Chí Minh có
10 trung tâm đào tạo cơng nghệ thơng tin liên kết với nước ngoài; trung tâm
thiết kế điện tử EDTC hợp tác với tập đoàn Cadence; trung tâm đào tạo Java

với tập đồn Sanmicrosgten. Nhiều cơng ty tập đồn lớn đã có kế hoạch tìm
nhân tài ngay từ khi những đối tượng này còn ngồi trên ghế nhà trường, như:
từ năm 2000, công ty Unilever đã thường niên tổ chức ngày hội quản trị viên
tập sự, thu hút khoang 2.000 sinh viên; Proter & Gamble co chương trinh
Careercamp, huấn luyện nghề nghiệp và học bổng học tập; công ty
Pricewaterhousr Coopers tổ chức ngày hội giao lưu với sinh viên năm cuối.

SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C

20


Đề án môn học

GVHD: Th.S. Lương Hương Giang

Tuy nhiên, việc dạy nghề theo địa chỉ và tại doanh nghiệp vẫn còn những
tồn tại, hạn chế như: cơ cấu nganh, nghề đào tạo vẫn chưa phù hợp với cơ cấu
ngành nghề của yêu cầu; chưa bổ sung thường xuyên các nghề đào tạo mới,
thiếu lao động kỹ thuật cao cung cấp cho các doanh nghiệp thuộc các ngành
kinh tế mũi nhọn, kinh tế trọng điểm. Chất lượng dạy nghề vẫn còn thấp chưa
phù hợp với sự thay đổi nhanh công nghệ sản xuất của doanh nghiệp. Mối
quan hệ trường và doanh nghiệp chưa chặt chẽ cả về pháp lý và trách nhiệm
xã hội.
Hàng năm có khoảng 200.000 sinh viên tốt nghiệp ra trường song chỉ
một phần nhỏ có thể đáp ứng được nhu cầu tuyển dụng nhân lực trung, cao
cấp của thị trường lao động. Nguồn lao động chất lượng cao, hiện vừa thiếu
về số lượng, vừa thiếu về chất lượng, gần 70% lao động chưa qua đào tạo,
một bộ phận lao động đã qua đào tạo hoặc sử dụng không đúng ngành nghề
đào tạo hoặc phải đào tạo lại mới có thể đào tạo trong các doanh nghiệp, thiếu

nghiêm trọng lao động dịch vụ cao cấp (tài chính, ngân hàng…). Mặt khác,
hầu hết lao động của nước ta còn mang thói quen, tập quán sản xuất nhỏ,
thiếu năng động và sáng tạo, ý thức kỷ luật tác phong công nghiệp kém, kiến
thức kỹ năng làm việc theo nhóm hạn chế, ngại phát huy sáng kiến và chia sẻ
kinh nghiệm làm việc.
Nguồn nhân lực bậc cao mới chỉ đáp ứng được 30 – 40% nhu cầu của các
công ty. Nhiều doanh nghiệp có đủ khả năng tài chính muốn mở rộng sản
xuất, kinh doanh nhưng nguồn lao động hiện hành không thể đáp ứng được
nhu cầu, còn việc tuyển dụng người lao động chất lượng cao từ bên ngồi khó
khăn. Do thiếu lao động nên một người phải đảm nhiệm công việc nhiều hơn
dẫn đến chất lượng công việc giảm.
Điều kiện, môi trường làm việc: Các doanh nghiệp chưa ý thức được
tầm quan trọng của công tác quản lý và phát triển nguồn nhân lực, thiếu hẳn
cơ chế tổ chức rõ ràng để thu hút và giữ chân nhân tài dẫn tới hiện tượng chảy
máu chất xám. Lúng túng trong việc xử lý những tranh chấp lao động phát
SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C

21


Đề án môn học

GVHD: Th.S. Lương Hương Giang

sinh do khung pháp lý chưa hoàn thiện, do cơ chế và quá trình giải quyết
tranh chấp chưa thật rõ ràng, chưa phát huy vai trò của các tổ chức trung gian.
Về hệ thống giao dịch việc làm, chủ yếu vẫn là hình thức trực tiếp giữa người
lao động và người sử dụng lao động (chiếm trên 80% tổng số giao dịch).
Chế độ đãi ngộ và trả lương: Cách trả lương của một số doanh nghiệp
khơng theo tiêu chí rõ ràng và khơng theo kết quả công việc nên hạn chế về

mức độ cống hiến của nhân viên trong doanh nghiệp. Cách chính sách về tiền
lương, tiền cơng nói chung chưa phản ánh được giá trị theo quy luật của thị
trường, chưa khuyến khích người lao động phát huy hết khả năng và chưa
thực hiện được chức năng kích cầu để sản xuất phát triển.
Theo số liệu thu thập được, thì đến năm 2005 mới chỉ có 20,8% số doanh
nghiệp tham gia đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động, còn thấp hơn tỷ lệ
năm 2004 là 23,1%; trong đó doanh nghiệp nhà nước là 99,0%; doanh nghiệp
ngoài quốc doanh 10,7%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi 81,0%. Nếu
so với số doanh nghiệp có từ 10 lao động trở lên (là doanh nghiệp bắt buộc
phải đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động) thì cũng chỉ đạt 40,0% (năm
2004 là 45,6%). Trong đó; doanh nghiệp nhà nước thực hiện 100%; doanh
nghiệp ngồi quốc doanh 23,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngồi 87,3%,
Như vậy vẫn cịn 60,0% số doanh nghiệp thuộc diện bắt buộc nhưng chưa
thực hiện Luật Lao động quy định về bảo hiểm xã hội cho người lao động.
Ðiều đáng lưu ý hơn là tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động so với
tổng quỹ lương vốn đã thấp, song lại có xu hướng thấp dần, năm 2004 là
8,68%; năm 2005 còn 7,37% (kể cả bảo hiểm y tế, kinh phí cơng đồn và bảo
hiểm xã hội).
Bên cạnh đó, chế độ tiền lương tiền thưởng cho người lao động vẫn còn
rất nhiều bất cập. Trong khi tiền lương hiện nay được điều chỉnh với xu
hướng tăng lên một cách chậm chạp thì giá cả lại ngày càng leo thang, trong
đó lương thực thực phẩm – vốn là mặt hàng thiết yếu của người lao động thì

SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C

22


Đề án môn học


GVHD: Th.S. Lương Hương Giang

lại là mặt hàng có tỉ lệ tăng giá cao nhất hiện nay. Chính điều đó đã gây ra rất
nhiều khó khăn cho đời sống của người lao động.
2. Tình hình đầu tư nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học và
công nghệ.
Ban chỉ đạo công nghệ thông tin quốc gia đã làm một cuộc khảo sát việc
ứng dụng công nghệ thông tin tại 217 doanh nghiệp và những con số có được
đã khiến mọi người khơng khỏi bất ngờ. Hiện các doanh nghiệp Việt Nam
mới chỉ đầu tư khoản chi phí rất nhỏ bé là 0,05- 0,08% doanh thu cho công
nghệ thông tin, trong khi ở Mỹ con số trung bình là 1,5%. Chính sách đầu tư
cho cơng nghệ thơng tin của doanh nghiệp còn nhiều bất cập.
Đa phần doanh nghiệp chỉ đầu tư một lần cho hệ thống thông tin và nâng
cấp các ứng dụng, do đó đầu tư đã thấp và hiệu quả của nó cịn thấp hơn.
Cuộc khảo sát còn cho thấy đến thời điểm này vẫn có những doanh nghiệp
chưa có một ứng dụng cơng nghệ thơng tin nào. Khối doanh nghiệp nhà nước
cịn 10%, trong khi các thành phần doanh nghiệp khác thì có đến 60% chưa
đưa công nghệ thông tin vào công việc của mình. 40% doanh nghiệp chưa
dám đầu tư mạnh vào cơng nghệ thơng tin vì khơng đủ nhân viên có trình độ
để quản lý và khai thác. Các doanh nghiệp tuy đã có nhận thức bước đầu về
tầm quan trọng của công nghệ thông tin nhưng số lượng các doanh nghiệp có
thể khai thác được sâu khả năng của cơng nghệ thơng tin mới chỉ dừng lại ở
con số ít ỏi.
Một doanh nghiệp phát biểu: “Nhiều nơi đã dùng máy tính làm các loại
văn bản từ khá lâu, nhưng máy tính có thể ứng dụng được vào cơng việc gì
nữa và làm như thế nào để thật sự hiệu quả, thì có lẽ đến 80% vẫn rất lúng
túng”.
Khơng có gì đáng ngạc nhiên khi chương trình quan trọng nhất, được sử
dụng rộng rãi nhất trong các doanh nghiệp là quản lý tài chính, kế tốn.
Khoảng 88% số doanh nghiệp áp dụng cơng nghệ thơng tin có sử dụng phần

mềm kế tốn tài chính, nhưng ngay cả đối với những doanh nghiệp đã ứng
SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C

23


Đề án môn học

GVHD: Th.S. Lương Hương Giang

dụng công nghệ thơng tin, chỉ có khoảng 20% các phần mềm thoả mãn được
yêu cầu của họ.
53% phần mềm cài đặt trên máy tính trong năm 2003 là phần mềm
khơng có bản quyền, gây tổn thất khoảng 7,5 tỷ USD cho các nhà sản xuất.
Việt Nam có tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm được công bố là 92%
theo điều tra của BSA, song mức thiệt hại về tài chính chỉ khoảng 40,8 triệu
USD, thua xa so với các nước trong khu vực và thế giới như Trung Quốc
(3.822,5 triệu USD), Hàn Quốc (1.633 triệu USD), Thái Lan (140,9 triệu
USD), hay Mỹ (1,96 tỷ USD).
Những năm gần đây, tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đang
ngày càng có chiều hướng gia tăng trên thế giới và ở Việt Nam.
Theo số liệu điều tra của Tổ chức Hải quan thế giới thì giá trị hàng giả,
hàng nhái của thế giới năm 2006 vào khoảng 500 tỷ USD, chiếm 5 - 7% giá
trị khối lượng hàng hóa thế giới.
Cũng theo thơng tin của vị Đại diện khu vực CA-TBD, Hội điện ảnh
(MPA) trong một cuộc hội thảo về thực thi quyền sở hữu trí tuệ được tổ chức
gần đây tại Hà Nội đã đưa ra dẫn chứng về việc xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ (bản quyền) của hơn 10 nước trong khu vực, trong đó tình trạng xâm
phạm ở mức cao nhất là Trung Quốc (trên 95%), Malaysia (90%), Thái Lan,
Philippins (xấp xỉ 80%)... và thấp nhất khu vực là Hàn Quốc (6%), Hồng

Công (9%), Australia (11%), Nhật Bản (12%).
Đầu tư vào bản quyền sáng chế: Tỷ lệ vi phạm bản quyền PM của Việt
Nam năm 2004 là 92% - là một trong những nước có tỷ lệ vi phạm bản quyền
phần mềm cao nhất thế giới với giá trị vi phạm 55 triệu USD.
Số bằng Việt Nam xin cấp bằng sáng chế cũng vô cùng thấp. Vào các
năm 2002, 2003, và 2004 lần lượt là 2, 7, và 2.
Trong khi đó năm 2005, Trung Q́c đang tiến mạnh về bằng sáng chế.
Các nhà khoa học Trung Quốc có 2.452 đơn xin cấp bằng sáng chế. So với
năm 2004, số lượng đơn của Trung Quốc tăng hơn 43%, khiến nước này từ vị
SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C

24


Đề án môn học

GVHD: Th.S. Lương Hương Giang

trí 13 vượt lên đứng thứ 10 trong các nước có số bằng sáng chế lớn nhất thế
giới.
Theo WIPO, vào năm 2005, đã có hơn 134. 000 đơn đăng ký cấp bằng
sáng chế thuộc các lĩnh vực, tăng 9,4% so với năm 2004. 5 quốc gia dẫn đầu
trong việc đăng ký bằng sáng chế vẫn không thay đổi là các nước Mỹ, Nhật,
Đức, Pháp và Anh.
Các nhà sáng chế và ngành công nghiệp của Mỹ đã nộp 45.111đơn xin
cấp bằng sáng chế, chiếm 33,6% tổng số đơn của năm 2005. Trong lúc Nhật,
đứng thứ hai, chiếm 18,8%.
Bên cạnh đó, theo thớng kê của WIPO, đây là năm thứ hai liên tiếp, tỉ lệ
đơn tăng cao nhất đến từ các nước Đông Bắc Á, tức Nhật Bản, Hàn Quốc và
Trung Quốc. Tất cả chiếm 24,1% tổng số đơn. Số đơn của Nam Hàn chiếm

3,5%, và Trung Quốc chiếm 1,8% trong tổng số đơn xin cấp bằng sáng chế.
Số đơn của một số nước Đông Nam Á năm 2005: Brunei: 13, Indonesia: 12,
Malaysia: 33, Philippines: 34, Singapore: 438, Thái Lan: 10.
"Tốc độ gia tăng từ các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc tiếp tục
trở thành những trường hợp đặc biệt. Điều đó phản ánh sự phát triển mạnh mẽ
của sức mạnh công nghệ ở các nước này. Từ năm 2000, đơn xin cấp bằng
sáng chế của các nước Nhật, Hàn Quốc, và Trung Quốc đã tăng lần lượt
162%, 200% và 212%," Ông Francis Gurry, Phó tổng giám đốc WIPO, nhận
xét

SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C

25


×