Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

Luận văn thực trạng quản lý rủi ro dịch vụ thẻ quốc tế tại sở giao dịch ngân hàng NHTMCP ngoại thương (vietcombank) việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (548.69 KB, 106 trang )

1

CHƯƠNG 1:
QUẢN LÝ RỦI RO DỊCH VỤ THẺ QUỐC TẾ CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1 Những khái niệm chung về thẻ ngân hàng
1.1.1 Khái niệm về thẻ thanh toán của ngân hàng
Thẻ ngân hàng là phương tiện thanh tốn khơng dùng tiền mặt, ra đời từ
phương thức mua bán chịu hàng hoá bán lẻ và phát triển gắn liền với sự ứng
dụng công nghệ tin học trong lĩnh vực ngân hàng. Thẻ ngân hàng là cơng cụ
thanh tốn do ngân hàng phát hành thẻ cấp cho khách hàng sử dụng thanh toán
hàng hoá dịch vụ hoặc rút tiền mặt trong phạm vi số dư tiền gửi của mình hoặc
hạn mức tín dụng được cấp. Thẻ ngân hàng còn dùng để thực hiện các dịch vụ
thông qua hệ thống giao dịch tự động hay còn gọi là hệ thống tự phục vụ
ATM.
Theo “Quy chế phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng” ban
hành kèm theo quyết định số 371/1999 QĐ/NHNN ngày 19/10 năm 1999 thì
thẻ ngân hàng là cơng cụ thanh toán do ngân hàng phát hành cấp cho khách
hàng sử dụng theo hợp đồng ký kết giữa ngân hàng phát hành thẻ và chủ thẻ.
Thẻ ngân hàng luôn được làm bằng Plastic theo kích cỡ tiêu chuẩn quốc
tế và bao gồm các yếu tố: nhãn hiệu thương mại của thẻ, tên và logo của nhà
phát hành thẻ, số thẻ, ngày hiệu lực và tên của chủ thẻ. Ngoài ra trên thẻ cịn
có thể có tên cơng ty phát hành thẻ hoặc thêm một số yếu tố khác theo tiêu
chuẩn của Tổ chức hoặc tập đoàn thẻ quốc tế…..


2

1.1.2 Lịch sử phát triển thẻ ngân hàng:
Để có được các sản phẩm đa dạng như hiện nay, lĩnh vực thẻ ngân hàng
đã trải qua nhiều giai đoạn thử nghiệm và phát triển. Tuy nhiên, xét về mặt


thời gian, kinh doanh thẻ là một ngành kinh doanh tương đối mới mẻ, ra đời
và bắt đầu phát triển từ những năm đầu thế kỷ 20 cho tới nay.
Thẻ ngân hàng được hình thành tại Mỹ từ thói quen cho khách hàng
mua chịu của các chủ tiệm bán lẻ trên cơ sở uy tín của khách đối với cửa hàng.
Thơng thường các chủ tiệm theo dõi khách hàng một cách riêng rẽ, ghi rõ các
khoản mà mỗi khách hàng sẽ phải thanh tốn và chấp nhận cho khách hàng trả
tiền sau vì họ tin tưởng vào khả năng thanh toán của người mua. Tuy nhiên
vốn của các cửa hàng thường không đủ lớn, dần dần các chủ tiệm nhận thấy
mình khơng có đủ khả năng cho khách hàng nợ và trả tiền sau liên tục như
vậy. Chính yếu tố này đã góp phần giúp các tổ chức tài chính hình thành ý
tưởng về sản phẩm thẻ. Với năng lực về tài chính, khả năng quay vòng vốn và
kinh nghiệm kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng, các tổ chức ngân hàng
tài chính có đủ khả năng cung cấp cho khách hàng những khoản vay miễn lãi
trong một thời gian nhất định.
Vào những năm 1914, tổ chức chuyển tiền Western Union của Mỹ lần
đầu tiên cung cấp cho các khách hàng đặc biệt của mình dịch vụ thanh tốn trả
chậm. Cơng ty này phát hành những tấm kim loại có chứa các thông tin in nổi
thực hiện hai chức năng:
 Nhận diện và phân biệt khách hàng
 Cung cấp và cập nhật dữ liệu về khách hàng, bao gồm các thông
tin về tài khoản và các giao dịch thực hiện.


3

Các tổ chức khác cũng nhận ra giá trị của loại hình dịch vụ nói trên và
chỉ trong một thời gian ngắn sau đó rất nhiều đơn vị như nhà ga, khách sạn
cũng như các cửa hàng trên khắp nước Mỹ đã lựa chọn cung cấp dịch vụ trả
chậm cho khách hàng của mình. Trong số đó, tập đồn xăng dầu của Mỹ cho
ra đời tấm thẻ mua xăng đầu tiên vào năm 1924 cho phép người dân sử dụng

thẻ này để mua xăng dầu tại các cửa hàng trên tồn quốc.
Tiếp theo các tổ chức cung cấp hàng hóa dịch vụ, các ngân hàng nhanh
chóng bước vào thị trường thẻ với mục tiêu nhanh chóng nhân rộng hình thức
thanh tốn này trên cơ sở mối quan hệ sẵn có giữa các đơn vị cung câp hàng
hóa dịch vụ trên cả nước với hệ thống đại lý rộng khắp của ngân hàng.Với tốc
độ phát triển rất nhanh chỉ vài năm sau đó hơn 100 ngân hàng trên nước Mỹ
cùng thực hiện cung cấp dịch vụ thanh toán trả chậm, tiền thân của thẻ tín
dụng sau này. Tuy nhiên cùng với sự phát triển sản phẩm quá nhanh các ngân
hàng cũng như các tổ chức tài chính cũng đã gặp những bài học xương máu và
buộc phải xem lại chiến lược kinh doanh của đơn vị mình.
Vào năm 1950, Diners Club phát hành tấm thẻ tín dụng đầu tiên được
làm bằng chất liệu Plastic. Sau này Frank NcNamara, người sáng lập ra Diners
Club kể lại là ông đã từng trải qua một trường hợp rất lúng túng khi ông đi ăn
tại một cửa hiệu ở New York nhưng quên mang theo ví. Chính việc phải cam
kết thanh tốn sau đó đã gợi lên ý tưởng kinh doanh thẻ đối với Frank
NcNamara.
Sau Diners Club, vào năm 1958, công ty American Express cũng tham
gia vào thị trường thẻ ngân hàng và đã thiết lập thành cơng tên tuổi của mình
trong lĩnh vực mới mẻ này. Cũng giống như các đối thủ cạnh tranh, American
Express chú trọng phát triển thẻ trong lĩnh vực giải trí và du lịch, hai lĩnh vực


4

có tốc độ phát triển nhanh chóng tại Mỹ và châu Âu trong thời kỳ sau chiến
tranh thế giới.
Đến trước năm 1970, khái niệm thẻ tín dụng đã được mọi người biết
đến và nhanh chóng được đón nhận. Năm 1966, ngân hàng Bank of American
chính thức trao quyền phát hành thẻ BankAmerican của mình cho các ngân
hàng khác thơng qua việc ký các hợp đồng đại lý, khởi đầu cho giai đoạn tăng

tốc trong phát triển dịch vụ thẻ. Người dân đi du lịch nhiều hơn trên nước Mỹ
và cả nước ngồi mà khơng cịn lo lắng tới việc phải có sẵn tiền để thanh tốn.
Thẻ tín dụng lúc này không chỉ mặc định dành cho những đối tượng giàu có
và nổi tiếng mà trở thành một phương tiện thanh tốn thơng dụng. Thương
hiệu BankAmerican với một loạt sản phẩm có ba màu xanh, trắng, vàng đặc
trưng ngày càng trở nên quen thuộc với người tiêu dùng. Bằng việc ký hợp
đồng đại lý và cho các ngân hàng khác hưởng phí thanh tốn chuyển đổi,
Bank of American đã nhanh chóng tăng được lượng thẻ phát hành cũng như
ký kết hợp đồng chấp nhận thẻ với các ĐVCNT trên khắp nước Mỹ và mở
rộng ra thế giới. Tới năm 1977, thẻ của ngân hàng Bank of American thực sự
được chấp nhận trên tồn cầu và thay vì tên BankAmerican, tên thẻ Visa ra
đời với màu sắc đặc trưng vẫn là xanh lam, trắng và vàng.
Cũng vào năm 1966, 3 nhóm ngân hàng lớn phía đơng nước Mỹ quyết
định hợp tác thành lập tập đồn kinh doanh tín dụng riêng, có tên là Interbank
Card Association (ICA). Sau này ICA được đổi thành MasterCard. ICA ban
hành các quy định về cấp phép giao dịch, thanh toán bù trừ, các biện pháp
Marketing, bảo mật và các vấn đề liên quan tới luật pháp nhằm vận hành cơng
việc một cách có hiệu quả.


5

Năm 1968, ICA bắt đầu chiến lược mở rộng kinh doanh trên phạm vi
tồn cầu thơng qua việc liên kết với ngân hàng Banco National của Mexico.
Sau đó ICA tiếp tục tìm kiếm các đối tác tại thị trường châu Âu và cho ra đời
thẻ Eurocard. Cũng vào năm 1968, ICA kết nạp thêm thành viên là một số
ngân hàng tại Nhật nhằm từng bước thâm nhập và nắm bắt thị trường Đông Á
này.
Như vậy thẻ ngân hàng ra đời từ nhu cầu thanh toán và phát triển dựa
trên nền tảng công nghệ cũng như chiến lược thay thế tiền mặt trong lưu

thông. Thực tế cho thấy, thẻ ngân hàng là một phát triển tất yếu trong lĩnh vực
tài chính ngân hàng đồng thời đã và đang phản ánh sự phát triển của khoa học
công nghệ và văn minh xã hội. Tiếp thu và ứng dụng những thành tựu của thế
giới về khoa học kỹ thuật, nhất là về công nghệ thơng tin, hệ thống thẻ ngày
càng hồn thiện và phát triển. Cùng với mạng lưới thành viên và khách hàng
phát triển hàng ngày, các TCTQT đã xây dựng hệ thống xử lý giao dịch và
trao đổi thơng tin tồn cầu về phát hành, thanh toán, cấp phép, tra soát, khiếu
kiện và quản lý rủi ro. Với doanh số giao dịch hàng trăm tỷ USD mỗi năm, thẻ
ngân hàng đang cạnh tranh quyết liệt cùng tiền mặt và séc trong hệ thống
thanh tốn tồn cầu. Đây là thành cơng đáng kể đối với một ngành kinh doanh
mới chỉ có vài thập kỷ hình thành và phát triển.
1.1.3 Phân loại thẻ ngân hàng
Trên thị trường thẻ quốc tế hiện nay có rất nhiều tiêu thức để phân loại
thẻ nhưng chủ yếu các tổ chức thẻ sử dụng theo 2 phương thức chính: Phân
loại theo cơng nghệ sản xuất và phân loại theo tính chất thanh tốn của thẻ.


6

1.1.3.1. Nếu căn cứ theo công nghệ sản xuất chia thành 2 loại: thẻ
từ và thẻ thông minh:
* Thẻ từ: là loại thẻ mà các thông tin của chủ thẻ vừa được dập nổi ở
mặt trước của thẻ vừa được mã hoá trong bằng từ ở mặt sau của thẻ, các thơng
tin này phải đảm bảo chính xác và khớp với nhau. Thẻ từ hiện nay đang chiếm
phần lớn trong tổng số lượng thẻ đang sử dụng trên thị trường. Nhược điểm
của thẻ từ là số lượng các thông tin được mã hố khơng nhiều và mang tính cố
định nên khơng thể áp dụng kỹ thuật mã hố an tồn và có thể bị ăn cắp thơng
tin bằng các thiết bị nối với máy vi tính. Loại thẻ này ngày càng ít được sử
dụng vì cơng nghệ in đơn giản, dễ bị làm giả. Hiện nay các công nghệ thẻ mới
như thẻ từ, thẻ thông minh ngày càng được sử dụng rộng rãi.

* Thẻ thông minh (Smart card): Đây là thế hệ mới nhất của thẻ, có đặc
tính bảo mật và an toàn rất cao, dựa trên kỹ thuật vi xử lý tin học, gắn vào thẻ
một chip điện tử có cấu tạo như một máy tính hồn hảo. Thơng thường một
tấm thẻ thông minh được gắn chip điện tử để thay thế cho dải băng từ sau thẻ.
Cũng có trường hợp thẻ thơng minh có cả Chip điện tử và băng từ. Chip điện
tử độc lập với thẻ và được gắn trên bề mặt của thẻ, về bản chất gồm 2 loại
chip: chip bộ nhớ và chip xử lý dữ liệu. Chip bộ nhớ lưu trữ toàn bộ các thơng
tin cần thiết phục vụ cho cơng tác thanh tốn thẻ trong mỗi lần sử dụng còn
chip xử lý dữ liệu có khả năng bổ sung, xố bỏ hoặc điều chỉnh các thông tin
trong bộ nhớ. Thẻ thông minh gắn chip xử lý dữ liệu có khả năng vừa lưu trữ
các thơng tin về chủ thẻ, điểm thưởng tích luỹ đồng thời lưu trữ cả số liệu về
những lần giao dịch của chủ thẻ tại ĐVCNT. Tính năng vượt trội này của thẻ
thơng minh giúp cắt giảm chi phí xử lý đối với ngân hàng và các trung gian
thanh toán bởi việc đối chiếu thông tin tài khoản và thông tin của chủ thẻ cũng


7

như việc cập nhật thông tin liên quan tới thẻ giờ đây đã được thực hiện ngay
tại ĐVCNT. Tuy nhiên do sử dụng công nghệ mới nên giá thành cao, hệ thống
máy móc chấp nhận thanh tốn thẻ này cũng đắt nên sử dụng còn chưa phổ
biến như thẻ từ. Việc phát hành và chấp nhận thanh toán thẻ này mới chỉ phổ
biến ở các nước phát triển dù các tổ chức thẻ quốc tế vẫn khuyến khích các
ngân hàng thành viên phát hành và thanh toán lại thẻ này nhằm giảm tỷ lệ rủi
ro do giả mạo thẻ.
Thẻ từ và thẻ thơng minh đều có thể được in theo kiểu dập nổi và in
chìm.
 Thẻ in nổi (Embossed Card): Là loại thẻ mà trên bề mặt thẻ được
dập nổi các thơng tin cần thiết.
 Thẻ in chìm (Unembossed Card): Là loại thẻ mà thông tin của

thẻ và chủ thẻ được in chìm trên bề mặt thẻ.
1.1.3.2. Nếu căn cứ vào tính chất thanh tốn có thể chia thành thẻ
tín dụng quốc tế (Credit card) và thẻ ghi nợ (Debit card).
Thẻ tín dụng quốc tế (Credit card) là phương thức thanh tốn khơng
dùng tiền mặt cung cấp cho nguời sử dụng khả năng chi tiêu trước trả tiền sau.
Tại thời điểm khách hàng thanh tốn hàng hóa dịch vụ ngân hàng sẽ đứng ra
tạm ứng thanh toán cho đơn vị cung cấp hàng hố dịch vụ và sau đó sẽ tiến
hành thu hồi khoản tiền này từ khách hàng sau một khoảng thời gian nhất định
theo thoả thuận giữa ngân hàng và chủ thẻ (gọi là kỳ sao kê). Khoảng thời
gian kể từ khi thẻ đuợc dùng để thanh toán hàng hoá dịch vụ tới lúc chủ thẻ
phải trả tiền cho ngân hàng có độ dài tuỳ thuộc vào từng loại thẻ tín dụng của
từng tổ chức thẻ khác nhau. Nếu chủ thẻ thanh tốn tồn bộ số dư nợ vào ngày


8

đến hạn, thời gian này sẽ trở thành thời gian ân hạn và chủ thẻ hoàn toàn được
miễn lãi đối với số dư nợ cuối kỳ. Tuy vậy nếu hết thời gian này mà chủ thẻ
vẫn chưa thanh toán hoặc chưa thanh toán hết dư nợ cuối kỳ cho ngân hàng thì
chủ thẻ sẽ phải chịu những khoản phí và lãi chậm trả trên số dư nợ còn lại.
Sau khi thanh toán hết dư nợ phát sinh trong kỳ, hạn mức tín dụng của chủ thẻ
sẽ được khơi phục như ban đầu. Đây chính là tính chất tuần hồn của thẻ tín
dụng
Ngân hàng và các tổ chức tài chính phát hành thẻ tín dụng cho khách
hàng dựa trên uy tín và khả năng đảm bảo chi trả của từng khách hàng. Khả
năng đảm bảo chi trả được xác định dựa trên các tiêu chí như: thu nhập, tình
hình chi tiêu, uy tín, mối quan hệ sẵn có với các tổ chức tài chính, tài sản thế
chấp … của khách hàng. Khi sử dụng thẻ, thay bằng tiền mặt, chủ thẻ xuất
trình thẻ của mình tại các điểm cung ứng hàng hóa dịch vụ có chấp nhận thẻ
để thanh tốn.

Ngồi các sản phẩm thẻ tín dụng quốc tế thơng thường như Visa vàng,
chuẩn; Master vàng, chuẩn để đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng, các tổ
chức thẻ quốc tế cịn đưa ra một sản phẩm thẻ tín dụng đặc biệt phục vụ những
khách hàng có thu nhập rất cao, có khả năng tài chính vững vàng và có mức
chi tiêu lớn. Đó là thẻ thanh tốn (Charge card). Khi sử dụng thẻ thanh toán
khách hàng được hưởng một hạn mức tín dụng đặc biệt cao hoặc khơng bị chi
phối bởi hạn mức tín dụng nhưng chủ thẻ sẽ phải thanh tốn tồn bộ số tiền
phát sinh cho ngân hàng vào ngày đến hạn.
Thẻ ghi nợ (Debit card): Giống như thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ cũng là một
phương tiện thanh tốn khơng dùng tiền mặt, nó cho phép khách hàng tiếp cận
với số dư tài khoản mình qua hệ thống kết nối trực tuyến để thanh toán hàng


9

hoá dịch vụ tại các ĐVCNT hoặc thực hiện các giao dịch liên quan tới tài
khoản tại các máy ATM. Mức chi tiêu của chủ thẻ phụ thuộc chủ yếu vào số
dư trong tài khoản, ngân hàng giữ vai trò cung cấp dịch vụ cho chủ thẻ và thu
phí dịch vụ. Đối với thẻ ghi nợ, giữa ngân hàng và khách hàng khơng diễn ra
q trình cho vay tín dụng, khơng có việc phân loại khách hàng nên khách
hàng chỉ cần có tài khoản tại ngân hàng đều có thể tiếp cận với sản phẩm thẻ
ghi nợ của ngân hàng. Chính vì vậy về mức độ có thể thay thể tiền mặt thẻ ghi
nợ chiếm ưu thế vượt trội so với thẻ tín dụng.
Thẻ ATM là hình thức phát triển đầu tiên của thẻ ghi nợ, cho phép
khách hàng có thẻ tiếp cận trực tiếp tới tài khoản tại ngân hàng từ máy rút tiền
tự động. Chủ thẻ có thể thực hiện nhiều giao dịch khác nhau tại máy ATM bao
gồm: rút tiền, chuyển khoản, xem số dư tài khoản, in sao kê, xem các thông tin
quảng cáo….. Cùng với sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ, hệ
thống ATM hiện đại ngày nay còn cho phép chủ thẻ gửi tiền vào tài khoản
của mình ngay tại các máy ATM, đổi séc qua máy rút tiền tự động, thực hiện

nộp hồ sơ cho một khoản vay cũng như tự mình thực hiện nhiều các dịch vụ
ngân hàng khác. Cùng với thẻ ATM, hệ thống ATM đã cung cấp cho khách
hàng sử dụng thẻ khả năng giao dịch ngoài giờ làm việc, ngoài trụ sở ngân
hàng và khả năng tự phục vụ.
Theo thời gian, các tổ chức đã chủ động kết nối hệ thống ATM với nhau
tạo nên một mạng ATM khu vực, cho phép khách hàng có thể thực hiện giao
dịch tại nhiều máy ATM hơn. Hiện nay hai hệ thống ATM lớn nhất trên thế
giới là Cirrus của MasterCard và Plus của Visa, sẵn sàng cho phép thẻ của
ngân hàng và những tổ chức tín dụng khác kết nối, tạo nên một mạng lưới
rộng khắp toàn cầu.


10

Ngồi hai loại thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ nói trên, một hình thức thẻ
ngân hàng đang ngày càng trở nên phổ biến là thẻ liên kết. Thẻ liên kết là sản
phẩm của một ngân hàng hay tổ chức tài chính kết hợp với một bên thứ ba và
thơng thường tên, nhãn hiệu thương mại hoặc logo của bên thứ ba này cũng
đồng thời xuất hiện trên tấm thẻ. Ngồi những đặc điểm sẵn có của thẻ ngân
hàng thơng thường, thẻ liên kết có sức hấp dẫn hơn với khách hàng bởi chính
những lợi ích phụ trội do bên thứ ba đem lại. Ví dụ thẻ Visa Co-brand do ngân
hàng Standard Chartered và tập đoàn thời trang Espirit phát hành mang lại cho
chủ thẻ những tiện ích phụ trội riêng biệt như được chăm sóc sắc đẹp miễn
phí, giảm giá 20% cho tất cả các mặt hàng hiệu Espirit trong 3 tháng đầu tiên,
chương trình điểm thưởng tích luỹ theo lượng tiền thanh toán bằng thẻ….
1.1.3.3. Nếu căn cứ vào phạm vi sử dụng của thẻ có thể chia thành
thẻ trong nước và thẻ quốc tế.
Thẻ trong nước: là thẻ do các ngân hàng, tổ chức tín dụng phát hành sử
dụng thay thế tiền mặt để thanh toán hàng hoá dịch vụ và rút tiền mặt trong
phạm vi quốc gia. Thơng thường đó là thẻ ghi nợ nội địa của các ngân hàng

thương mại phát hành sử dụng tại hệ thống máy ATM và mạng lưới các
ĐVCNT của ngân hàng phát hành và ngân hàng đại lý, ngân hàng liên kết với
ngân hàng phát hành đó.
Thẻ quốc tế: là thẻ mang thương hiệu của các tổ chức thẻ quốc tế do các
ngân hàng, tổ chức tín dụng phát hành. Thẻ quốc tế có thể được sử dụng trên
phạm vi quốc tế, tại bất kỳ các ĐVCNT hoặc máy ATM có mang biểu tượng
chấp nhận thanh tốn thẻ đó. Để phát hành thẻ quốc tế, ngân hàng phát hành
thẻ phải đăng ký và được chấp nhận làm thành viên của Tổ chức thẻ quốc tế
đó, tuân thủ chặt chẽ các quy định trong việc phát hành và thanh toán thẻ do


11

Tổ chức thẻ quốc tế đó ban hành. Có 2 loại thẻ quốc tế là thẻ ghi nợ quốc tế và
thẻ tín dụng quốc tế.
1.1.4. Các chủ thể tham gia trong hoạt động dịch vụ thẻ quốc tế của
ngân hàng thương mại
Hoạt động phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng có sự tham
gia chặt chẽ của 5 thành phần cơ bản là: Tổ chức thẻ quốc tế, ngân hàng phát
hành thẻ, ngân hàng thanh toán thẻ, chủ thẻ và các đơn vị chấp nhận thẻ
(ĐVCNT). Mỗi chủ thể đóng vai trị quan trọng khác nhau trong việc phát huy
tối đa tính năng phương tiện thanh tốn hiên đại không dùng tiền mặt của thẻ
ngân hàng.
1.1.4.1. Tổ chức thẻ quốc tế (TCTQT):
Tổ chức thẻ quốc tế là đơn vị đứng đầu quản lý mọi hoạt động và thanh
toán thẻ trong mạng lưới của mình. Đây là hiệp hội các tổ chức tài chính, tín
dụng lớn có mạng lưới hoạt động rông khắp và đạt được sự nổi tiếng với
thương hiệu và các sản phẩm đa dạng: tổ chức thẻ Visa, tổ chức thẻ
MasterCard, công ty thẻ American Express, công ty thẻ JCB, công ty thẻ
Diners Club, công ty Mondex…. Tổ chức thẻ quốc tế đưa ra những quy định

cơ bản về hoạt động phát hành, sử dụng và thanh tốn thẻ, đóng vai trị trung
gian giữa các tổ chức và các công ty thành viên trong việc điều chỉnh và cân
đối các lượng tiền thanh toán giữa các công ty thành viên.
1.1.4.2. Ngân hàng phát hành:
Ngân hàng phát hành là ngân hàng được tổ chức thẻ quốc tế hoặc công
ty thẻ trao quyền phát hành thẻ mang thương hiệu của những tổ chức và công
ty này. Ngân hàng phát hành là ngân hàng có tên in trên thẻ do ngân hàng đó


12

phát hành thể hiện đó là sản phẩm của mình. Ví dụ như ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam được phép phát hành thẻ Visa, MasterCard, American
Express phát hành các loại thẻ quốc tế có tên Vietcombank Visa,
Vietcombank MasterCard, Vietcombank MasterCard MTV, Vietcombank
connect24 Visa và Vietcombank American Express.
Ngân hàng phát hành quy định các điều khoản, điều kiện sử dụng thẻ
đối với khách hàng. Ngân hàng có quyền ký kết hợp đồng đại lý với bên thứ
ba là một ngân hàng hoặc một tổ chức tài chính tín dụng khác trong việc thanh
toán và phát hành thẻ quốc tế. Trong trường hợp này ngân hàng phát hành tận
dụng được ưu thế của bên thứ ba về kinh nghiệm, khả năng thâm nhập thị
trường và những ưu thế về vị trí địa lý, tuy nhiên cũng phải chịu chấp nhận rủi
ro về tài chính bởi ngân hàng đứng ra bảo lãnh cho bên thứ ba làm ngân hàng
đại lý của mình trong việc phát hành thẻ. Bên thứ ba khi ký kết hợp đồng đại
lý với ngân hàng phát hành được gọi là ngân hàng đại lý phát hành. Nếu tên
của ngân hàng đại lý xuất hiện trên tấm thẻ của khách hàng thì nhất thiết ngân
hàng đại lý đó phải là thành viên chính thức của tổ chức thẻ hoặc cơng ty thẻ
quốc tế.
1.1.4.3. Ngân hàng thanh toán:
Ngân hàng thanh toán là ngân hàng chấp nhận các loại thẻ như một

phương tiện thanh tốn thơng qua việc ký kết hợp đồng chấp nhận thẻ với các
điểm cung ứng hàng hoá dịch vụ trên địa bàn. Ngân hàng thanh toán sẽ cung
cấp cho các ĐVCNT thiết bị phục vụ cho việc thanh toán thẻ, hướng dẫn đơn
vị cách thức vận hành, chấp nhận thanh toán thẻ cũng như quản lý và xử lý
những giao dịch thẻ tại các đơn vị này. Thông thường ngân hàng thanh toán sẽ
thu từ các ĐVCNT một mức phí chiết khấu cho việc chấp nhận thanh tốn thẻ


13

của đơn vị, nó có thể tính phần trăm trên giá trị mỗi giao dịch hoặc tính theo
tổng giá trị giao dịch thẻ. Mức chiết khấu cao hay thấp phụ thuộc vào từng
ngân hàng và vào mối quan hệ chiến lược của ngân hàng với ĐVCNT.
Trên thực tế rất nhiều ngân hàng vừa là ngân hàng phát hành vừa là
ngân hàng thanh toán thẻ. Với tư cách là ngân hàng phát hành, khách hàng của
họ là chủ thẻ còn với tư cách là ngân hàng thanh toán, khách hàng là các đơn
vị cung ứng hàng hố dịch vụ có ký kết hợp đồng chấp nhận thẻ.
1.1.4.4. Chủ thẻ:
Chủ thẻ là những cá nhân hoặc người được uỷ quyền (nếu là thẻ do
công ty uỷ quyền sử dụng đối với thẻ tín dụng quốc tế ) được ngân hàng phát
hành thẻ, có tên in nổi trên thẻ và sử dụng thẻ theo những điều khoản, điều
kiện ngân hàng quy định. Theo thơng lệ mỗi chủ thẻ chính có thể phát hành
thêm thẻ phụ, cả thẻ chính và thẻ phụ cùng chi tiêu chung một tài khoản. Chủ
thẻ phụ cũng có trách nhiệm thanh toán các khoản phát sinh trong kỳ nhưng
chủ thẻ chính là người có trách nhiệm thanh tốn cuối cùng đối với ngân hàng.
Chủ thẻ sử dụng thẻ của mình để thanh tốn hàng hố, dịch vụ tại các đơn vị
cung ứng hàng hố, dịch vụ có chấp nhận thẻ (ĐVCNT), các điểm ứng tiền
mặt thuộc hệ thống ngân hàng hoặc sử dụng thẻ để thực hiện các giao dịch tại
máy rút tiền tự động. Đối với thẻ tín dụng, sau một khoảng thời gian nhất định
tuỳ theo quy định của từng ngân hàng phát hành, chủ thẻ sẽ nhận được sao kê

(statement). Sao kê là bảng thông báo chi tiết các giao dịch chi tiêu sử dụng
thẻ của chủ thẻ trong kỳ sao kê, số dư nợ cuối kỳ, ngày đến hạn thanh toán
cũng như số tiền thanh toán tối thiểu mà khách hàng phải thanh toán trong kỳ
cho ngân hàng và các thông báo liên quan đến việc sử dụng thẻ. Căn cứ vào
các thông tin trên sao kê, nếu khơng có gì thắc mắc chủ thẻ sẽ thực hiện việc


14

thanh toán sao kê cho ngân hàng phát hành thẻ, ngược lại chủ thẻ có quyền
khiếu nại đối với các thơng tin, các giao dịch khơng chính xác hoặc khơng
thực hiện gửi tới ngân hàng yêu cầu được giải đáp. Cịn đối với thẻ ghi nợ
quốc tế thì ngay khi chủ thẻ chi tiêu thì số tiền chi tiêu đó sẽ debit trực tiếp
ngay vào tài khoản của chủ thẻ.
1.1.4.5. Đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT):
Các đơn vị cung ứng hàng hoá dịch vụ ký kết hợp đồng chấp nhận thẻ
như một phương tiện thanh toán được gọi là đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT).
Các ngành kinh doanh của các ĐVCNT trải rộng từ những cửa hiệu bán lẻ đến
các nhà hàng ăn uống, khách sạn, sân bay.... Tại nhiều nước trên thế giới khi
thẻ ngân hàng đã trở thành một phương thức thanh tốn thơng dụng, chúng ta
có thể nhìn thấy những biểu trưng của thẻ xuất hiện rộng rãi tại các cửa hàng.
Ở Việt Nam, các ĐVCNT tập trung chủ yếu tại các ngành hàng, dịch vụ phục
vụ cho người nước ngồi như hàng thủ cơng mỹ nghệ, nhà hàng, khách sạn,
du lịch, các đại lý bán vé máy bay. Mặc dù phải trả cho ngân hàng thanh tốn
một tỷ lệ phí chiết khấu nhất định nhưng bù lại các đơn vị chấp nhận thẻ thơng
qua đó thu hút được một khối lượng khách hàng lớn, bán được nhiều hàng hơn
qua đó góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như lợi nhuận
của đơn vị.
Để trở thành ĐVCNT của một ngân hàng nhất thiết đơn vị đó phải có
tình hình tài chính tốt và có năng lực kinh doanh. Cũng như các ngân hàng

phát hành thẩm định khách hàng trước khi phát hành thẻ, ngân hàng thanh
toán cũng tiến hành đánh giá lựa chọn đơn vị chấp nhận thẻ. Chỉ có những đơn
vị có hiệu quả kinh doanh cao, có khả năng thu hút được nhiều giao dịch thanh


15

tốn thẻ thì ngân hàng mới có thể thu hối được vốn đầu tư cho các đơn vị đó
và có lãi.
1.1.5. Các hoạt động dịch vụ thẻ quốc tế của ngân hàng thương mại
Có thể mơ hình hóa chu trình hoạt động kinh doanh thẻ theo sơ đồ sau
Sơ đồ 1-1 : Quy trình sử dụng và thanh tốn thẻ

Đơn vị chấp
nhân thẻ

1- mua hàng hóa dịch vụ

Chủ thẻ
9
thanh
tốn

2hóa
đơn
giao
dịch

8
Sao kê


6 - gửi dữ liệu

Ngân hàng
phát hành

7 – báo nợ

Tổ chức thẻ
quốc tế

4 - gửi dữ liệu
5 - báo có

3tạm
ứng

Ngân hàng
thanh toán

1.1.5.1. Hoạt động phát hành:
Hoạt động phát hành của ngân hàng bao gồm việc quản lý và triển khai
toàn bộ quá trình phát hành thẻ, sử dụng thẻ và thu nợ khách hàng. Ba q
trình này có vai trị quan trọng như nhau, có liên quan chặt chẽ đến việc phục
vụ khách hàng và quản lý rủi ro cho ngân hàng. Các tổ chức tài chính, các
ngân hàng phát hành thẻ phải xây dựng các quy định về việc sử dụng thẻ và
thu hồi nợ: số tiền thanh toán tối thiểu, ngày sao kê, thời gian ân hạn, các loại
phí và lãi, hạn mức tín dụng tối đa, tối thiểu, các chính sách ưu đãi đối với chủ
thẻ…….



16

Về cơ bản hoạt động phát hành thẻ gồm các nội dung chính sau đây:
 Tổ chức các hoạt động tiếp thị để đưa sản phẩm vào thị trường.
 Thẩm định khách hàng phát hành thẻ
 Cấp hạn mức tín dụng đối với thẻ tín dụng
 Thiết kế và tổ chức mua thẻ trắng
 In nổi, mã hóa thẻ và tạo số PIN cho khách hàng.
 Quản lý thông tin khách hàng
 Quản lý hoạt động sử dụng thẻ của khách hàng
 Quản lý tình hình thu nợ của khách hàng
 Cung cấp dịch vụ khách hàng
 Tổ chức thanh toán bù trừ với các tổ chức thẻ quốc tế
Triển khai hoạt động phát hành thẻ, ngồi việc hưởng phí phát hành thẻ
thu được từ chủ thẻ, các ngân hàng phát hành cịn được hưởng khoản phí trao
đổi do ngân hàng thanh tốn chia sẻ từ phí thanh tốn thơng qua các tổ chức
thẻ quốc tế. Đây là phần lợi nhuận cơ bản của các tổ chức tài chính, ngân hàng
phát hành thẻ. Trên cơ sở nguồn thu này, các tổ chức tài chính, ngân hàng phát
hành thẻ đưa ra được những chế độ miễn lãi và ưu đãi khác cho khách hàng
nhằm thu hút khách hàng cũng như khuyến khích chi tiêu thẻ.
1.1.5.2. Hoạt động thanh tốn
Cùng với phát hành, hoạt động thanh tốn thẻ đóng vai trị quyết định
đến sự phát triển của dịch vụ thẻ. Việc triển khai hoạt động thanh tốn thẻ của
một ngân hàng khơng chỉ là thu lợi nhuận từ nguồn phí chiết khấu tính trên giá


17

trị giao dịch thanh toán bằng thẻ từ các ĐVCNT mà còn là mong muốn cung

cấp cho khách hàng một dịch vụ hoàn chỉnh, tạo cơ sở thuận lợi cho việc sử
dụng thẻ. Đối với tổ chức thẻ quốc tế và các thành viên, việc khuyến khích
hoạt động thanh tốn thẻ thơng qua mở rộng ĐVCNT có ý nghĩa rất quan
trọng.
Thứ nhất: Hoạt động thanh toán một loại thẻ nhất định nào đó được mở
rộng trên một thị trường, điều đó có nghĩa là chủ thẻ có thể sử dụng thẻ một
cách dễ dàng và thuận tiện hơn. Khi mà nhu cầu du lịch, giải trí của người dân
nói chung ngày càng tăng thì việc phát triển thị trường thanh tốn thẻ ra nước
ngồi càng trở nên cấp thiết. Số lượng ĐVCNT lớn, có mặt tại khắp các thị
trường tiềm năng và các ngành hàng kinh doanh đồng nghĩa rằng thẻ ngân
hàng được chấp nhận thanh toán tại nhiều nơi hơn, dễ dàng hơn, thuận tiện
hơn và mang lại lợi ích nhiều hơn cho cả chủ thẻ, các ĐVCNT và sau đó là
các ngân hàng phát hành và thanh tốn thẻ.
Thứ hai: Khơng chỉ mở rộng thị trường thanh tốn bằng cách ký kết hợp
đồng thanh toán với các ĐVCNT mới, một ngân hàng thanh toán thẻ đặc biệt
quan tâm tới viêc duy trì mối quan hệ với các ĐVCNT sẵn có, thể hiện trong
cơng tác chăm sóc khách hàng. Nếu khơng có những chính sách thích hợp,
những dịch vụ hỗ trợ tốt, tạo điều kiện cho các ĐVCNT có thể chấp nhận
thanh toản thẻ một cách dễ dàng, được ngân hàng báo có đúng cam kết sau khi
đã trừ đi tỷ lệ phí chiết khấu, các ngân hàng khác sẽ tranh thủ cơ hội này để
chào những dịch vụ hoàn hảo hơn tới các ĐVCNT. Như vậy khách hàng trong
hoạt động thanh toán sẽ giảm đi, mục tiêu thu lợi của các ngân hàng sẽ bị ảnh
hưởng sâu sắc.


18

Hiện nay hoạt động thanh toán thẻ trên thị trường quốc tế đã phát triển
ở mức độ rất cao với trên hàng trăm nghìn ĐVCNT tại hơn 200 quốc gia,,
chấp nhận thẻ mang các thương hiệu nổi tiếng thế giới như Visa, MasterCard,

American Express,, Diners Club, JCB và nhiều loại thẻ quốc tế và ngân hàng
nội địa khác. Tại Việt nam tuy thẻ ngân hàng còn mới mẻ nhưng nhằm đáp
ứng nhu cầu thanh toán của một lượng lớn khách nước ngoài cũng như thị
trường nội địa càng phát triển, số lượng các ngân hàng thanh tốn thẻ tính đến
năm 2006 đã đạt khoảng 17 ngân hàng với mạng lưới hơn 5000 ĐVCNT trên
tồn quốc. Hoạt động thanh tốn thẻ của các ngân hàng bao gồm các hoạt
động chủ yếu sau:
 Xây dựng và quản lý hệ thống thông tin khách hàng ĐVCNT
 Quản lý hoạt động của mạng lưới ĐVCNT.
 Tổ chức thanh toán các giao dịch sử dụng thẻ cho các ĐVCNT
 Cung cấp dịch vụ khách hàng
 Tổ chức tập huấn kiến thức thanh toán thẻ cho nhân viên các
ĐVCNT
 Cung cấp trang thiết bị , vật tư phục vụ cho cơng tác thanh tốn
thẻ.
1.1.5.3. Hoạt động quản lý rủi ro
Hoạt động kinh doanh thẻ của ngân hàng phải đối mặt với nhiều loại rủi
ro khác nhau: thẻ giả, đánh cắp thông tin khách hàng, giao dich giả mạo ...
Những rủi ro đó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận, uy tín của ngân hàng phát
hành thẻ và gây phiền nhiễu cho chủ thẻ, chính vì vậy ngân hàng cần có sự
quan tâm đặc biệt đến hoạt động quản lý rủi ro. Bộ phận quản lý rủi ro tại các


19

ngân hàng có hoạt động kinh doanh thẻ được coi là bộ phận xương sống trong
hoạt động thẻ bao gồm các chức năng chính sau:


Ngăn ngừa và điều tra các hành vi sử dụng thẻ giả mạo.




Quản lý danh mục các tài khoản liên quan tới những thẻ đã được

thông báo mất cắp, thất lạc.


Xây dựng các kế hoạch theo dõi việc bảo mật phôi thẻ, thẻ đã in,

thẻ hỏng, thẻ bị thu hồi.


Cập nhật thông tin trên các Danh sách thẻ mất cắp, thất lạc của

Tổ chức thẻ quốc tế.


Hợp tác với các cơ quan có thẩm quyền liên quan trong việc điều

tra , xử lý các hành vi vi pham hợp đồng, giả mạo.


Tổ chức tập huấn cho nhân viên ĐVCNT và chủ thẻ về các biện

pháp phòng ngừa giả mạo.
Kinh doanh thẻ ngân hàng càng phát triển thì lĩnh vực quản lý rủi ro
càng được đầu tư nhiều hơn. Các chuyên gia trong lĩnh vực này thường là
những người có kinh nghiệm và thực sự am hiểu về thẻ và cơng nghệ vì chỉ có
vậy họ mới có thể ngăn ngừa, dự đốn và phát hiện các hành vi giả mạo trong

lĩnh vực thẻ.
1.1.5.4. Marketing và dịch vụ khách hàng
Cũng như những ngành nghề kinh doanh khác, kinh doanh thẻ ngân
hàng đòi hỏi chú trong đáng kể vào công tác Marketing và dịch vụ khách
hàng. Về lý thuyết, Marketing và dịch vụ khách hàng trong kinh doanh thẻ là
khái niệm tương đối rộng, bao gồm toàn bộ các phương thức để tìm kiếm


20

khách hàng (ĐVCNT và chủ thẻ), giúp họ tiếp cận, quyết định và lựa chọn
phương thức thanh toán phi tiền mặt này và trở thành khách hàng lâu dài của
ngân hàng
Hoạt động Marketing bao gồm các hoạt động cơ bản sau:


Tiếp xúc với các đơn vị cung ứng hàng hóa dịch vụ có tiềm năng

cho hoạt động thẻ, thuyết phục ký kết họ ký hợp đồng chấp nhận thanh toán
thẻ.


Cung cấp dịch vụ cho các ĐVCNT : lắp đặt thiết bị đọc thẻ,

hướng dẫn quy trình nghiệp vụ chấp nhận thẻ, bảo trì bảo dưỡng máy móc
thiết bị thanh tốn thẻ


Tiến hành việc quảng cáo cho các ĐVCNT nói chung hoặc các


ĐVCNT tiềm năng cùng với chương trình quảng cáo, khuyếch trương thẻ


Nâng cao tính trung thành của các ĐVCNT bằng cách xếp hạng,

tính điểm phục vụ hoặc lượng giá trị giao dịch tại đơn vị để từ đó có chính
sách giảm phí, tỷ lệ chiết khấu cho chủ thẻ và ĐVCNT


Tiếp xúc với các khách hàng là cá nhân, doanh nghiệp có tiềm

năng sử dụng thẻ, thuyết phục họ ký kết hợp đồng sử dụng thẻ thông qua
những tiện ích của thẻ ngân hàng nói chung và các ưu thế về dịch vụ ngân
hàng cung cấp.


Duy trì mối liên hệ với chủ thẻ, khuyến khích tiêu dùng của chủ

thẻ thơng qua việc xây dựng các chương trình khuyến mại, điểm thưởng
Tuy nhiên yếu tố quan trọng và đóng vai trị quyết định trong hoạt động
Marketing chính là yếu tố con người. Các cán bộ Marketing phải là người vừa


21

vững về nghiệp vụ thẻ,thông hiểu về thị trường thẻ và có khă năng nghiệp vụ
Marketing
1.2. Quản lý rủi ro dịch vụ thẻ quốc tế của ngân hàng thương mại
1.2.1. Rủi ro trong dịch vụ thẻ quốc tế của Ngân hàng thương mại
1.2.1.1 Khái niệm

Trong thuật ngữ tài chính, rủi ro liên quan đến khả năng mất mát tài
chính của ngân hàng. Rủi ro gắn liền với bất cứ hoạt động tài chính nào và
cũng như bản thân các giao dịch tài chính nó cần được quản lý một cách đúng
mực. Các ngân hàng có thể phải đối mặt với các tổn thất lớn nếu không quản
lý chặt các rủi ro.
Rủi ro trong dịch vụ thẻ là các tổn thất về vật chất hoặc phi vật chất có
liên quan tới hoạt động kinh doanh thẻ, bao gồm hoạt động phát hành và hoạt
động thanh toán thẻ. Đối tượng chịu rủi ro là ngân hàng, chủ thẻ hoặc đơn vị
chấp nhận thẻ.
1.2.1.2. Các hình thức rủi ro dịch vụ thẻ quốc tế của ngân hàng
thương mại.
1.2.1.2.1. Rủi ro trong hoạt động phát hành thẻ
a. Đơn phát hành thẻ giả mạo (Fraudulent Applications):
Ngân hàng có thể phát hành thẻ cho khách hàng có đơn xin phát hành
thẻ với các thơng tin giả mạo do không thẩm định kỹ các thông tin khách hàng
cung cấp trên hồ sơ xin phát hành thẻ. Thông tin khơng chính xác dẫn đến
những khó khăn cho ngân hàng khi muốn liên hệ với chủ thẻ và đặt ngân hàng
trước nguy cơ tổn thất tín dụng khi chủ thẻ sử dụng thẻ nhưng khơng có đủ


22

khả năng thanh tốn hoặc chủ thẻ cố tình lừa đảo để chiếm dụng tiền của ngân
hàng.
b. Thẻ giả:
Thẻ giả là thẻ do các tổ chức hoặc cá nhân làm giả căn cứ vào các thơng
tin có được từ việc đánh cắp các dữ liệu trên băng từ của thẻ thật từ các thẻ
mất cắp, thất lạc. Thẻ có thể được làm giả dưới các hình thức: Thơng tin dập
nổi trên thẻ bị sửa lại, thẻ bị mã hóa lại băng từ, thẻ trắng nhưng đã được mã
hóa băng từ hoặc thẻ bị làm giả hoàn toàn dựa trên các dữ liệu của thẻ thật.

Thẻ giả được sử dụng sẽ gây tổn thất cho ngân hàng phát hành bởi vì theo quy
định của tổ chức thẻ quốc tế, ngân hàng phát hành chịu hoàn toàn trách nhiệm
với mọi giao dịch mang mã số BIN của Ngân hàng phát hành. Đây là loại hình
rủi ro có tỷ lệ cao, thường được tội phạm thẻ sử dụng rộng rãi, phổ biến nhất.


Thẻ bị dập nổi lại: là loại thẻ giả mà các thông tin trên thẻ

được dập lại bằng công nghệ đơn giản trên nền phôi thẻ bị mất cắp, thất
lạc.Các thông tin an ninh trên thẻ giồng như thẻ thật nhưng có thể dể dàng
kiểm tra và phát hiện bằng mắt thường. Có thể phát hiện thẻ giả khi đối chiếu
thơng tin in nổi ở mặt trước thẻ với các thông tin in chìm trên băng chữ lý mặt
sau của thẻ hoặc với dữ liêu trên băng từ khi đọc thẻ qua máy EDC.


Thẻ bị thay đổi thông tin trên thẻ: Tội phạm dùng thẻ thật

khơng cịn giá trị lưu hành để thay đổi các thông tin trên thẻ. Thường sử dụng
các cơng nghệ đơn giản, có thể dễ dàng kiểm tra bằng mắt thường. Phát hiện
giả mạo bằng cách kiểm tra so sánh thông tin in nổi trên thẻ với các thông tin
được in trên băng chữ ký mặt sau của thẻ hoặc với dữ liệu trên băng từ khi đọc
thẻ qua máy EDC.


23



Thẻ giả mạo: Tội phạm làm thẻ giả dựa trên các thông tin


lấy được từ việc đánh cắp các dữ liệu của thẻ thật bằng các thủ đoạn khác
nhau. Loại giả mạo này thường liên quan đến tội phạm có tổ chức (vì u cầu
cơng nghệ cao hơn). Các giao dịch giả mạo được thực hiện từ thẻ giả khó phát
hiện và có thể được NHPH hoặc Tổ chức thẻ quốc tế cấp phép chuẩn chi giao
dịch. NHPH chỉ phát hiện ra khi khách hàng thật đến khiếu nại về những giao
dịch không được thực hiện.


Thẻ chỉ giả mạo băng từ: Là loại thẻ giả chỉ có băng từ

được mã hố dựa trên dữ liệu của thẻ thật nhưng khơng có các thơng tin dập
nổi và những đặc điểm bảo mật trên thẻ. Tội phạm sử dụng thẻ tại các
ĐVCNT thơng đồng có EDC, hoặc tại các điểm bán hàng tự động khơng được
kiểm sốt chặt chẽ. Loại hình thẻ giả mạo này thường có liên quan đến tội
phạm có tổ chức vì u cầu sử dụng cơng nghệ hiện đại hơn. Chúng ta có thể
phát hiện được thẻ giả bằng cách so sánh dữ liệu trên băng từ khi đọc thẻ qua
máy EDC với các thông tin dập nổi trên thẻ.


Thẻ bị làm giả hoàn toàn: Là loại thẻ giả hồn chỉnh với

băng từ được mã hố và trên phơi thẻ có đầy đủ những yếu tố như thẻ thật.
Phát hiện giả mạo bằng cách kiểm tra theo đúng quy trình chấp nhận thẻ. Thẻ
bị làm giả hồn tồn là sản phẩm thẻ giả tinh vi nhất, là hoạt động của tội
phạm thẻ có tổ chức. Thẻ rất hồn chỉnh với băng từ được mã hóa dựa trên
việc lấy cắp dữ liệu trên băng từ của thẻ thật và trên phơi thẻ có đầy đủ những
yếu tố như thẻ thật. Thẻ giả chỉ bị phát hiện nếu thực hiện đầy đủ chính xác
quy trình chấp nhận thanh tốn thẻ



Thẻ trắng: là loại thẻ mô phỏng đầy đủ chức năng của một

thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng, được sử dụng tại ĐVCNT cấu kết với tội phạm thẻ


24

hoặc tại các điểm bán hàng tự động không được kiểm sốt chặt chẽ. Do loại
hình này thực hiện với sự cấu kết thông đồng chặt chẽ của đơn vị chấp nhận
thẻ nên rất khó phát hiện. Thẻ trắng cũng đã được mã hóa nhưng khơng hề dập
nổi các thơng tin lên mặt trước của thẻ như: ngân hàng phát hành, số thẻ, ngày
hiệu lực, tên chủ thẻ…….
c. Thẻ mất cắp, thất lạc (Lost – Stolen Card):
Rủi ro xảy xa khi thẻ bị mất cắp, thất lạc và bị sử dụng trước khi chủ thẻ
thông báo cho ngân hàng phát hành để có các biện pháp chấm dứt sử dụng
hoặc thu hồi thẻ. Thẻ bị mất cắp thất lạc cũng có thể bị tội phạm thẻ sử dụng
làm thẻ giả như trường hợp thẻ giả (dập nổi, mã hóa lại băng từ bằng các
thông tin giả mạo). Đôi khi giả mạo có liên quan đến chủ thẻ cố tình báo mất
thẻ và sau đó sử dụng thẻ.
d. Chủ thẻ khơng nhận được thẻ do ngân hàng phát hành gửi (Never
Received Issue) :
Là trường hợp thẻ bị đánh cắp hoặc bị lợi dụng thực hiện giao dich
trong quá trình chuyển từ ngân hàng phát hành đến chủ thẻ. Việc xác định thẻ
bị ăn cắp trên đường mất nhiều thời gian do khoảng thời gian chủ thẻ nhận
được thẻ và gửi xác nhận cho ngân hàng thường kéo dài, đôi khi chủ thẻ khiếu
nại là khơng nhận được thẻ thì ngân hàng mới phát hiện được.
e.Tài khoản của chủ thẻ bị lợi dụng (Account Takeover):
Rủi ro này phát sinh khi ngân hàng phát hành nhận được những yêu cầu
thay đổi thông tin của chủ thẻ, đặc biệt là thay đổi địa chỉ của chủ thẻ. Do
không xác minh kỹ nên ngân hàng phát hành đã gửi thẻ về địa chỉ như yêu cầu



25

mà không đến tay chủ thẻ thật. Tài khoản của chủ thẻ thật đã bị người khác lợi
dụng sử dụng
1.2.1.2.2. Rủi ro trong hoạt động thanh toán thẻ
a.Đơn vị chấp nhận thẻ giả mạo:
Đơn vị chấp nhận thẻ cố tình đăng ký các thơng tin khơng chính xác với
ngân hàng thanh toán. Ngân hàng thanh toán sẽ chịu tổn thất khi không thu
được những khoản đã tạm ứng cho những ĐVCNT này trong trường hợp
ĐVCNT thông đồng với chủ thẻ hoặc cố tình tạo ra các háo đơn hoặc giao
dịch giả mạo để chiém dụng vốn của ngân hàng.
b.Đơn vị chấp nhận thẻ thơng đồng với chủ thẻ:
Có hai hình thức thông đồng của đơn vị chấp nhận thẻ:
 CPP – Common Purchase Point: Là hiện tượng một đơn vị chấp
nhận thẻ hoặc một địa điểm được xác định là lưu trữ dữ liệu thẻ và sử dụng
vào mục đích tạo các thẻ giả hoặc thực hiện các giao dịch giả mạo. Đơn vị
chấp nhận thẻ có thể nhận thức hoặc không nhận thức được hành vi này
 POC – Point of Compromise: Đơn vị chấp nhận thẻ thông đồng
với chủ thẻ chấp nhận thanh toán những thẻ giả (thẻ bị sửa đổi, thẻ trắng, thẻ
skimming…)
c. Thanh tốn hàng hóa dịch vụ bằng thẻ qua thư, điện thoại (Mail
order, telephone order):
Đơn vị chấp nhận thẻ cung cấp hàng hóa dịch vụ theo yêu cầu của chủ
thẻ qua thư hoặc điện thoại và thanh tốn trên cở các thơng tin như: loại thẻ,
số thẻ, ngày hiệu lực, tên chủ thẻ…… Đơn vị chấp nhận thẻ và ngân hàng



×