Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Giữ vững vai trò của Đảng trong hiện tại và tương lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.66 KB, 26 trang )

Mục lục
Lời mở đầu...................................................................................................................2
A. Vai trò của Đảng .....................................................................................................3
a. Cơ sở lý luận.........................................................................................................4
b. Cơ sở thực tiễn......................................................................................................5
i. Vai trò của Đảng qua thực tiễn lịch sử..............................................................5
ii. Vai trò của Đảng trong giai đoạn hiện nay......................................................8
B. Giữ vững vai trò của Đảng trong thời gian tới......................................................10
I. Vai trò của Đảng trong giai đoạn mới................................................................10
b. Giữ vững và nâng cao vai trò của Đảng trong thời gian tới..............................14
1. Giữ vững vai trò của Đảng.............................................................................14
ii. Nâng cao vai trò của Đảng.............................................................................18
Kết luận......................................................................................................................26

1


Lời mở đầu
Tám mươi ba năm qua, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, nhân dân ta đã vượt qua muôn vàn khó
khăn, gian khổ, giành độc lập dân tộc, đấu tranh chống ngoại xâm, thống nhất đất
nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, trước những tình thế khó khăn
có lúc tưởng chừng không vượt qua nổi, Đảng ta đã thể hiện rõ bản lĩnh chính trị
vững vàng, tính kiên định cách mạng, tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, lãnh đạo
đất nước chẳng những đứng vững mà còn vươn lên, kinh tế có bước phát triển,
chính trị ổn định, đối ngoại mở rộng, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Thực tiễn đã khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là không thể thay thế và là
nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Điều này đã lý giải cho
sự hình thành đạo lý, lẽ sống của người dân Việt Nam, đó là luôn tuyệt đối tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; coi mục tiêu, lý tưởng sống, chiến đấu của Đảng


là mục tiêu, lý tưởng sống, chiến đấu của chính mình và sẵn sàng chiến đấu hy sinh
bảo vệ Đảng, Tổ quốc, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Hơn bao giờ hết, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, trước
những thời cơ, vận hội, nhưng cũng đầy thách thức, người dân Việt Nam lại càng ý
thức đầy đủ và sâu sắc hơn về vị trí, vai trò và tính tất yếu của sự lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước và xã hội. Điều đó thể hiện niềm tin sắt son, kiên định của nhân
dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và là nguồn cổ vũ, động viên, là lá chắn vững
chắc nhất để bảo vệ Đảng trong việc lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua những
khó khăn, thử thách và nhất định sẽ đem lại những thành công to lớn hơn. Giữ vững
vai trò của Đảng là trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người dân Việt Nam ta.
Lịch sử đã chứng minh, quy luật vận động, phát triển của nước ta là dựng
nước luôn luôn đi đôi với giữ nước, xây dựng luôn luôn đi đôi với bảo vệ Tổ quốc.
Đảng ta đã có nhiều kinh nghiệm trong lãnh đạo cách mạng, nhân dân rất kiên
cường và đã trải qua nhiều khó khăn, thử thách. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc
ta đã giành được độc lập, tự do, thống nhất đất nước; dưới sự lãnh đạo của Đảng,
nhất định nhân dân ta sẽ giành thắng lợi trong công cuộc đổi mới đất nước, xây
dựng thành công một nước Việt Nam dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội như sinh thời Bác Hồ hằng mong muốn.

2


A. Vai trò của Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện,
đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước
Việt Nam Dân chủ cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam),
đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xoá bỏ chế độ thực dân, phong kiến,
hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc
đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng

thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc.
Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh,
xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công
chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp
thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và
thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng
đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung
dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên
tắc : tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ
Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp
và pháp luật.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào nhân dân để xây
dựng Đảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Đảng
lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng lãnh
đạo, tôn trọng và phát huy vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể chính trị - xã hội.
Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong
sáng của giai cấp công nhân, góp phần tích cực vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới.
Đảng Cộng sản Việt Nam được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo cách mạng của
Đảng.
3



a. Cơ sở lý luận
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 và bản sửa
đổi bổ sung 2001 đều dành hẳn một điều trong chương chế độ chính trị, để nói về
vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 2013 được công bố rộng rãi và lấy ý
kiến đóng góp của toàn dân không những đã tiếp tục khẳng định mà còn bổ sung,
phát triển điều 4 chương I về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã
hội .
Thứ nhất là, bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Vì là Đảng của
giai cấp công nhân, nên Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công
nhân. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng thể hiện ở chỗ: mục tiêu, lý tưởng của
Đảng là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng
là tập trung dân chủ. Đảng liên hệ mật thiết với quần chúng; lấy tự phê bình và phê
bình làm quy luật phát triển. Đảng ta không chỉ là Đảng của giai cấp công nhân mà
còn là Đảng của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Lợi ích của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc là thống nhất với nhau. Đảng không
có lợi ích nào khác ngoài việc phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Thứ hai là, vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà
nước và xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, tồn tại, hoạt động vì lợi ích của
giai cấp công nhân và dân tộc, Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phục vụ
Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Toàn Đảng và cán bộ, đảng viên đã phấn đấu vì lợi ích
của nhân dân, biết bao nhiêu cán bộ, đảng viên đã anh dũng hy sinh trong lao tù đế
quốc, trên chiến trường chống ngoại xâm. Đảng viên đã trở thành tấm gương sáng
để nhân dân noi theo, phấn đấu. Nhân dân đã tin Đảng, đi theo Đảng, thừa nhận sự
lãnh đạo của Đảng, thừa nhận Đảng là của chính mình.
Thứ ba là, Hiến pháp năm 2013 bổ sung nội dung mới, yêu cầu về trách

nhiệm của tổ chức Đảng và đảng viên. Khoản 2 Điều 4 quy định cụ thể trách nhiệm
của Đảng đối với nhân dân, đó là “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với
nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước
nhân dân về những quyết định của mình”. Điều này vừa thể hiện bản chất của Đảng
Cộng sản chân chính, vừa là điều kiện cho sự lãnh đạo của Đảng, vừa thể hiện trách
nhiệm của Đảng trước nhân dân cũng như trách nhiệm của nhân dân đối với Đảng
và xây dựng Đảng. Một Đảng mà không gắn bó mật thiết với nhân dân, không chịu
sự giám sát của nhân dân, không chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết
định của mình thì không phải là một Đảng cách mạng chân chính, không phải “là
đạo đức, là văn minh” và càng không thể lãnh đạo được nhân dân.

4


Đồng thời, Khoản 3, Điều 4 Hiến pháp cũng quy định “Các tổ chức của Đảng
và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật”. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, pháp luật là tối thượng nên không chỉ tổ chức
của Đảng mà mọi đảng viên đều phải có trách nhiệm nghiêm chỉnh chấp hành Hiến
pháp và pháp luật.
Tinh thần và lời văn của điều nói trên cho thấy: Vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước và xã hội được khẳng định và hiến định trong Hiến pháp, trong
chương đầu tiên nói về chế độ chính trị ở Việt Nam. Cùng với Lời nói đầu, điều quy
định nêu trên đã thể hiện rõ tính chất của chính thể Việt Nam là chính thể xã hội
chủ nghĩa. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là lý tưởng, mục tiêu của cách mạng
Việt Nam, đang tiếp tục được thực hiện trong sự nghiệp đổi mới vì dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng văn minh. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội
chính là thực hiện trọng trách lịch sử đó trước nhân dân và dân tộc.
Điều 4 đã thể chế hóa quan điểm của Đảng, làm rõ bản chất, tính chất của
Đảng Cộng sản Việt Nam, không chỉ là đội tiên phong của giai cấp công nhân mà

còn của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích không
chỉ của giai cấp công nhân mà còn của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam.
Việc quy định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Hiến
pháp và pháp luật là cực kỳ quan trọng. Tuy nhiên để xứng đáng với trọng trách là
Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội, điều quan trọng hơn là Đảng phải
đẩy mạnh tự đổi mới, tự chỉnh đốn, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, củng cố
lòng tin của nhân dân đối với Đảng, thể hiện Đảng "là đạo đức, là văn minh", thực
hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc: "Đảng ta là một Đảng
cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng,
thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch,
phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân."
b. Cơ sở thực tiễn
i. Vai trò của Đảng qua thực tiễn lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời cho đến nay đã có lịch sử hoạt động,
đấu tranh cách mạng oanh liệt hơn 80 năm và đã liên tục cầm quyền gần 70 năm, từ
sau thắng lợi cách mạng tháng Tám năm 1945, Đảng chính thức ở vào địa vị cầm
quyền.
Vai trò của Đảng, những công lao to lớn của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh
đối với nhân dân và dân tộc Việt Nam, ảnh hưởng và uy tín của Đảng trong lòng
dân, trong dân tộc và trong phong trào cách mạng thế giới là không có gì phủ nhận
được.
5


Thực tiễn lịch sử từ khi Đảng ra đời, từ khi Đảng thực hiện trọng trách của
mình lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân và dân tộc Việt Nam làm cách mạng
giải phóng dân tộc, đánh đuổi đế quốc thực dân và phong kiến giành chính quyền về
tay nhân dân và lập nên chế độ dân chủ cộng hòa đầu tiên ở Việt Nam, cho đến nay,
Đảng khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới vì dân giàu, nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước trên con đường độc lập dân tộc và chủ

nghĩa xã hội đã xác nhận vị trí, vai trò, ảnh hưởng và uy tín của Đảng trong xã hội
Việt Nam.
- Sự ra đời của Đảng năm 1930 là bước ngoặt vĩ đại đối với lịch sử dân tộc;
với ý thức hệ tiêu biểu của thời đại, với Cương lĩnh và đường lối cách mạng đúng
đắn do Đảng vạch ra dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đảng đã giải quyết thành công cuộc khủng hoảng về tư tưởng lý luận và
đường lối chính trị cứu nước từ giữa thế kỷ XIX đến những năm 30 của thế kỷ XX.
Đảng đã vạch ra con đường cách mạng để giải phóng dân tộc, đưa dân tộc từ nô lệ
tới độc lập tự do.
- Cách mạng tháng Tám, 1945 do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã
giành được thắng lợi, đã đánh đổ đế quốc thực dân phong kiến, giành lại độc lập
chủ quyền, lập nên chế độ dân chủ cộng hòa. Đây là một trong những cuộc cách
mạng điển hình của thế kỷ XX, Đảng lãnh đạo cả dân tộc làm nên kỳ tích đó khi
Đảng mới có 15 tuổi với lực lượng chưa đầy 5.000 đảng viên.
Lịch sử và truyền thống cách mạng của Đảng đã gắn liền với lịch sử và
truyền thống dân tộc, làm rạng rỡ dân tộc Việt Nam bởi khai sinh ra một thời đại
mới - thời đại Hồ Chí Minh, kỷ nguyên mới - kỷ nguyên Độc lập tự do, độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
- Đảng lãnh đạo xây dựng chế độ mới ngay khi nước Cộng hòa non trẻ mới ra
đời, thù trong giặc ngoài, tình thế hiểm nguy, ngàn cân treo trên sợi tóc, vượt qua
mọi thác ghềnh để bảo vệ thành quả cách mạng, vừa kháng chiến vừa kiến quốc
trong suốt chín năm trường kỳ chống Pháp, làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ, lập
lại hòa bình ở miền Bắc và tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam,
đánh bại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên miền Bắc với Điện Biên Phủ
trên không đã đi vào lịch sử như một huyền thoại ở thế kỷ XX, tiến đến giải phóng
hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đánh thắng hai đế quốc to, cả chủ nghĩa
thực dân cũ lẫn chủ nghĩa thực dân mới.
Những chặng đường và những mốc son chói lọi đó là bằng chứng lịch sử về
sức mạnh, sức sống của dân tộc Việt Nam, gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt đầy
bản lĩnh của Đảng, của Hồ Chí Minh. Dân tộc anh hùng, Đảng quang vinh và Bác

Hồ vĩ đại đã làm cho Việt Nam đứng vào hàng ngũ các dân tộc tiên phong trên thế
giới chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân.

6


Và từ sau ngày đại thắng, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc đến
nay, vượt qua bao khó khăn thử thách, có lúc sóng gió hiểm nghèo, Đảng đã lãnh
đạo nhân dân vượt qua khủng hoảng, tiến hành đổi mới thành công, tạo nên Thế và
Lực của Việt Nam như hiện nay.
Có được những thành tựu và chiến công như thế, là nhờ có công sức đóng
góp hy sinh của toàn dân và toàn Đảng, thậm chí cả máu xương của biết bao anh
hùng chiến sỹ, lớp lớp thế hệ nối tiếp nhau, sự hy sinh cả sức người sức của của
đồng bào trọn lòng tin theo Đảng. Không một lực lượng nào, ngoài Đảng Cộng sản
Việt Nam đã đóng được vai trò lãnh đạo, dẫn dắt cả dân tộc Việt Nam trên con
đường giải phóng để phát triển và hiện đại hóa như vậy. Cũng không có một lực
lượng nào tỏ rõ đức hy sinh phấn đấu trung thành với dân tộc và nhân dân như
Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng tồn tại và hoạt động chỉ vì độc lập tự do hạnh phúc
của nhân dân. Không một lực lượng tổ chức nào tỏ rõ sức chiến đấu, năng lực trí tuệ
và bản lĩnh chính trị như Đảng Cộng sản Việt Nam để theo đuổi đến cùng lý tưởng
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nêu cao chân lý “không có gì quý hơn
độc lập tự do,” làm tất cả chỉ vì hạnh phúc, quyền sống, quyền tự do và làm chủ của
nhân dân như Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là một Đảng cách mạng chân chính, là
đạo đức, là văn minh.
Lịch sử và nhân dân đã thừa nhận sự thật ấy. Thực tiễn cũng cho thấy, nhân
dân tin cậy và ký thác cho Đảng cả cuộc sống, tương lai, triển vọng của mình. Uy
tín và ảnh hưởng của Đảng là rộng lớn, sâu sắc và bền chặt trong lòng dân, trong ký
ức của lịch sử đã thành truyền thống, trong hiện tại và tương lai với quan hệ máu
thịt giữa Đảng với dân làm nên sức mạnh bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng và bảo vệ
dân. Nhân dân gần gũi, gắn bó với Đảng, thừa nhận và tin cậy Đảng, coi Đảng là

Đảng của mình.
Cách mạng không chỉ có thuận lợi và thành công mà cũng có không ít khó
khăn, thất bại. Đảng như một cơ thể sống, cũng có khi vấp phải khuyết điểm sai
lầm. Mặc dù vậy, nhân dân vẫn thừa nhận Đảng, vẫn tin và theo Đảng, bởi Đảng có
đủ dũng khí và bản lĩnh sửa chữa sai lầm, vượt qua yếu kém, tự phê phán, tự đổi
mới để tự phát triển. Và, Đảng dựa vào dân để xây dựng Đảng, xây dựng chính
quyền Nhà nước, xây dựng các đoàn thể, xây dựng và phát triển dân chủ. Nhân dân
đoàn kết một lòng, nhân dân giúp Đảng trong xây dựng, đổi mới và chỉnh đốn
Đảng, làm cho Đảng trong sạch vững mạnh, đủ sức lãnh đạo, dẫn dắt cả dân tộc đi
tới, thực hiện lý tưởng và mục tiêu đã vạch ra.
Qua mọi thời kỳ lịch sử, Đảng vững mạnh trưởng thành là nhờ có dân, dân
có cuộc sống ấm no tự do hạnh phúc, dân tộc có tương lai triển vọng, vượt qua tình
trạng lạc hậu kém phát triển, từng bước chấn hưng và hiện đại hóa là nhờ có Đảng.
Đảng tin dân và vì dân nên dân theo Đảng, tin Đảng, thừa nhận Đảng là lực lượng
tiên phong, dẫn dắt, lãnh đạo cả dân tộc đi tới tương lai.
7


Đảng làm cho dân giác ngộ và Đảng lãnh đạo để nhân dân thực sự trở thành
chủ thể, làm chủ xã hội. Bởi thực tế lịch sử đó, Đảng thực hiện vai trò lãnh đào Nhà
nước và xã hội như thực hiện một trọng trách lịch sử mà dân tộc và nhân dân giao
phó, ủy thác.
Đảng đã lãnh đạo và cầm quyền với tất cả sự xứng đáng và chính đáng, được
thừa nhận, được ủng hộ, được giúp đỡ, được bảo vệ, được tin tưởng bởi tuyệt đại đa
số nhân dân. Phẩm chất xứng đáng và có tất cả tính chính đáng để lãnh đạo, cầm
quyền - đó là ưu thế nổi bật của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ đó, có thể nói, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà
nước và xã hội được đảm bảo về địa vị pháp lý, được quy định bởi trách nhiệm
pháp lý, được tạo dựng, phát triển và bảo vệ bởi sức mạnh đoàn kết, dân chủ, đồng
thuận của toàn dân, cho nên Đảng xứng đáng và chính đáng đảm nhận trọng trách

lãnh đạo, tổ chức và hoạt động của Đảng là hợp hiến, hợp pháp.
ii. Vai trò của Đảng trong giai đoạn hiện nay
Trải qua lịch sử đấu tranh cách mạng, nhất là trải nghiệm thực tiễn lãnh đạo
và cầm quyền, Đảng đã có bước trưởng thành, tích lũy được nhiều kinh nghiệm và
đúc rút được những bài học quý giá.
Trước tình hình mới và yêu cầu mới hiện nay, Đảng đã xác định, phải làm
cho Đảng ngang tầm nhiệm vụ, phải ra sức nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu cũng như bản lĩnh cầm quyền của Đảng. Xây dựng Đảng được coi là then chốt,
là nhiệm vụ hàng đầu, quan trọng nhất trong nhiệm kỳ khóa XI.
Gần đây, Hội nghị Trung ương 4, khóa XI đã ban hành Nghị quyết về “một
số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay.” Trong những vấn đề cấp bách
đặt ra đối với Đảng hiện nay, tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức lối
sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo
quản lý các cấp, kể cả ở cấp cao là vấn đề cấp bách nhất, xuyên suốt, bao trùm. Sự
suy thoái đó làm giảm sút nghiêm trọng lòng tin của đảng viên, của quần chúng
nhân dân đối với Đảng. Nếu không đẩy lùi sự suy thoái đó thì sinh mệnh của Đảng,
sự tồn vong của chế độ sẽ bị thách thức.
Trong thời điểm Đảng đang tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết, đang
diễn ra cuộc chỉnh đốn tự phê bình và phê bình ở tất cả các cấp, các tổ chức Đảng
thì toàn Đảng toàn dân hiện nay lại đang đóng góp ý kiến cho bản dự thảo sửa đổi
Hiến pháp 1992, trong đó nổi lên vấn đề về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước và xã hội.
Đa số ý kiến đều tán thành việc hiến định vai trò, thẩm quyền, trách nhiệm
của Đảng ở điều 4 bản Hiến pháp sửa đổi. Song cũng có không ít người đề nghị xóa
bỏ điều 4, áp dụng mô hình đa Đảng, đa nguyên chính trị.

8


Đã thảo luận thì ý kiến, quan điểm khác nhau, trái nhau cũng là chuyện bình

thường. Chân lý chỉ sáng tỏ qua thực tiễn, qua thảo luận tranh luận, đối thoại trên
tinh thần dân chủ, tôn trọng, lắng nghe nhau, “văn hóa là biết lắng nghe”
(Likhachov).
Song không nên quên một thực tế là, những khi Đảng gặp khó khăn và suy
yếu thì đó là lúc xuất hiện những luồng dư luận, ý kiến hoặc hoài nghi, hoặc công
kích, phê phán Đảng nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng.
Thực tế đó cho thấy, việc Đảng ra sức xây dựng chỉnh đốn đội ngũ của mình,
làm cho Đảng trong sạch vững mạnh là hết sức quan trọng và trở nên cấp bách. Nếu
Đảng mạnh và có uy tín rộng lớn trong dân, trong xã hội, nội bộ Đảng đoàn kết
thống nhất, lãnh đạo cấp cao của Đảng vững vàng, sáng suốt về phương hướng và
bản lĩnh, quan hệ giữa Đảng với dân gắn bó mật thiết thì vai trò lãnh đạo của Đảng
sẽ giữ vững được. Điều quan trọng, cốt tử nhất là ý Đảng thuận với lòng dân. Có sự
ủng hộ, giúp đỡ của dân, của toàn dân tộc thì không khó khăn nào không thể vượt
qua.
Từ thực tế như vậy, cần nhất lúc này là an dân, làm yên lòng dân bằng cách
quan tâm tới đời sống của dân, làm cho dân phấn khởi yên ổn làm ăn, đảm bảo
những điều kiện cho dân có sự an toàn, bình ổn để phát triển. Được sự ủng hộ của
dân với một đa số tuyệt đối thì sự tồn tại, phát triển và thực thi chương trình hành
động của Đảng, Nhà nước với xã hội sẽ thuận lợi.
Nếu để xảy ra sự phân tâm và phân liệt trong tư tưởng, tổ chức và hành động
của Đảng thì Đảng không thể đứng vững, không thể có sức sống. Nếu lại mất
phương hướng và mắc sai lầm về nguyên tắc thì Đảng sẽ bị thách thức cả sinh mệnh
lẫn sự tồn vong.
Hơn 20 năm về trước, chính biến ở Liên Xô, Đông Âu, làm cho chế độ xã
hội chủ nghĩa tan vỡ, hệ thống xã hội chủ nghĩa sụp đổ, tan rã, thể chế và quyền lực
thay đổi, làm đảo lộn trật tự xã hội, gây nên sự điêu đứng trong tình cảnh sống của
dân. Tất cả bắt đầu trực tiếp, khởi phát từ sai lầm chính trị nguy hiểm là từ bỏ điều 6
trong Hiến pháp Xô Viết, chấp nhận đa nguyên ý thức hệ, đa đảng phái, kể cả Đảng
đối lập. Vào thời điểm đó, Đảng Cộng sản Liên Xô còn từ bỏ cả nguyên tắc tập
trung dân chủ, làm cho Đảng nhanh chóng mất sức chiến đấu, mất vai trò lãnh đạo,

cầm quyền, Đảng nhanh chóng trở thành một tổ chức mà hành động ngược lại,
không vì dân, chỉ vì mình (vì lợi ích nhóm ở thượng tầng). Thực tế biến dạng phũ
phàng đó bộc lộ ra, đáng để cho chúng ta rút kinh nghiệm, tự mình cảnh báo chính
mình về những nguy cơ tiềm ẩn có thể xảy ra.
Ghi vào điều 4 trong Hiến pháp về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước và xã hội đã khó, chứng thực trong thực tiễn về Đảng phát huy vai trò như thế
nào, trong lãnh đạo Nhà nước và xã hội còn khó khăn gấp bội. Khó mấy cũng phải
làm cho bằng được, làm cho dân tin vào phẩm chất xứng đáng và tư cách lãnh đạo,
9


cầm quyền chính đáng của Đảng theo Hiến pháp và pháp luật, theo thể chế dân chủpháp quyền.

B. Giữ vững vai trò của Đảng trong thời gian tới
I.

Vai trò của Đảng trong giai đoạn mới

Trên cơ sở xác định được vị trí cầm quyền, trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã
khẳng định được vai trò lãnh đạo đối với đất nước và dân tộc. Vai trò lãnh đạo của
Đảng được thể hiện ở những điểm sau:
Về tư tưởng chính trị: Trong bối cảnh phức tạp của tình hình trong nước và
sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu, Đảng vẫn
xác định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X cụ thể
hóa: “Đổi mới không phải là xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và
phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư
tưởng của Đảng, và kim chỉ nam cho hành động cách mạng”. Nhờ xác định được hệ
tư tưởng và đường lối đúng đắn, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, trên cơ sở vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh mà Đảng đã dẫn dắt đất nước và dân tộc vượt qua mọi khó khăn, thử
thách, giành được những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Về kinh tế: Trong thời kỳ đổi mới, Đảng không ngừng đổi mới nhận thức và
tư duy lý luận về kinh tế. Từ tư duy kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang tư duy kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan niệm về mô hình kinh tế tổng
quát trong suốt thời ký quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là bước đột phá lý luận cơ bản và sáng tạo của
Đảng, là thành quả lý luận quan trọng qua 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm
1991, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế
giới.
Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là: Các
thành phần kinh tế, hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng
của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh
tranh lành mạnh. Quan hệ phân phối đảm bảo công bằng và tạo động lực cho phát
triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế,
đồng thời theo mức đóng góp vốn của các nguồn lực khác và phân phối thông qua
hệ thống an sinh xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Kết quả bước đầu về phát triển kinh tế thị trường đã tạo nên những thành quả
quan trọng: Kinh tế Nhà nước từng bước phát huy vai trò chủ đạo, hệ thống doanh
nghiệp Nhà nước bước đầu được tổ chức lại và cổ phần hóa. Kinh tế tập thể bước
10


đầu được đổi mới, các hình thức hợp tác kiểu mới hình thành. Kinh tế tư nhân tăng
nhanh về số lượng, từng bước nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, giải quyết
việc làm, đóng góp ngày càng lớn vào GDP. Kinh tế nước ngoài được khuyến khích
phát triển, góp phần quan trong vào mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Các loại thị
trường đang hình thành và ngày càng phát triển.

Về văn hóa – xã hội: Quan điểm chỉ đạo xuyên suốt của Đảng trong thời kỳ
đổi mới là: gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã
hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước đi, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Bên cạnh đó, Đảng
xác định phát triển văn hóa đồng bộ và tương xứng với tăng trưởng kinh tế và tiến
bộ xã hội; xây dựng văn hóa và con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ là quốc
sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ là đầu tư cho
phát triển. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Thực hiện tốt các quan điểm chỉ đạo đó, sau gần 30 năm đổi mới, lĩnh vực
văn hóa – xã hội có sự chuyển biến tích cực. Các giá trị văn hóa và truyền thống tốt
đẹp của dân tộc được phát huy. Các di sản văn hóa được bảo tồn, thiết chế văn hóa
cơ sở được đầu tư xây dựng. Những nhân tố và giá trị mới của văn hóa và con
người Việt Nam từng bước được định hình trong đời sống xã hội. Phong trào “Toàn
dân xây dựng đời sống văn hóa” và các phong trào xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp
nghĩa trở thành nét đẹp trong đời sống xã hội. Giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa
ngày càng mở rộng, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam
ra toàn thế giới. Nước ta trở thành điểm sáng về giáo dục toàn dân và xóa đói giảm
nghèo. Năm 2007, Việt Nam được Liên hợp quốc tặng thưởng bằng khen về thành
tích xóa đói, giảm nghèo. Năm 2010, phổ cập giáo dục trên quy mô toàn quốc. Đến
nay, nước ta cơ bản hoàn thành mục tiêu thiên niên kỷ. Tỷ lệ nghèo đói còn dưới
7% theo tiêu chuẩn quốc tế.
Về đối ngoại: Sự chuyển biến tư duy quan trọng trong lĩnh vực đối ngoại là
quan điểm “thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế”. Trước xu thế
toàn cầu hóa kinh tế, Đảng chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, “chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh
vực khác” theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế,
bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an
ninh quốc gia, giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường. Thông điệp
ngoại giao là “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực và

có trách nhiệm của các tổ chức quốc tế”, tích cực tham gia giải quyết các vấn đề
toàn cầu, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển.
Thành tựu nổi bật trong hoạt động đối ngoại là: Phá thế bao vây, cấm vận
của các thế lực thù địch, mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa , đa
11


dạng hóa. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Hiện nay, Việt Nam đã ký Hiệp
ước đối tác chiến lược hoặc đối tác toàn diện với hầu hết các nước lớn như: Mỹ,
Trung Quốc, Nhật Bản, Đức, Pháp, Anh, Ấn Độ, Ý, Hàn Quốc… Đẩy mạnh hợp tác
quốc tế trên các lĩnh vực: văn hóa – xã hội, khoa học – công nghệ, giáo dục – đào
tạo và các lĩnh vực khác. Giải quyết hòa bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển,
đảo và các nước liên quan như Trung Quốc và các nước ASEAN. Xúc tiến quan hệ
thương mại, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn,
khoa học – công nghệ và kinh nghiệm quản lý của các nước phát triển; khai thác
hiệu quả các khuôn khổ đã ký kết, đặc biệt là khu vực mậu dịch tự do song phương
và đa phương. Tranh thủ ODA, thu hút FDI, mở rộng thị trường ngoài nước, chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã thu hút hàng chục tỷ USD vốn
ODA, khoảng 250 tỷ USD đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tiến một bước dài trong hội
nhập kinh tế quốc tế thông qua việc gia nhập các diễn đàn kinh tế AFTA, APEC,
WTO.
Về an ninh – quốc phòng: Trong bối cảnh mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
vẫn được Đảng xác định là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Tuy nhiên, khái niệm và nội hàm “bảo vệ Tổ quốc” được xác định đầy đủ hơn: Bảo
vệ tổ quốc không chỉ là bảo vệ lãnh thổ, biên giới, hải đảo, vùng trời, vùng biển mà
còn là bảo vệ chế độ xã gội chủ nghĩa, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ Đảng,
Nhà nước, nhân dân; bảo vệ kinh tế, văn hóa dân tộc, bảo vệ sự nghiệp đổi mới…;
khẳng định sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết
toàn dân với nền tảng là “thế trận lòng dân”, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại.

Thành tựu cơ bản, bao trùm về an ninh – quốc phòng là giữ vững độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, đảm bảo sự lãnh đạo của
Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã
hội. Thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ củng cố an ninh quốc phòng với chống “diễn
biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ; vô hiệu hóa hoạt động của các đối tượng phản động
trong và ngoài nước lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, nhân quyền để gây mất
ổn định. Quan tâm xây dựng, phát triển tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước;
xây dựng lực lượng vũ trang, đặc biệt là quân đội và công an theo hướng chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Xây dựng được thế trận quốc phòng toàn quốc gắn
với thế trận an ninh nhân dân.
Đổi mới hệ thống chính trị xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Trong những năm đổi mới, Đảng quan tâm chỉ đạo đổi mới hệ thống chính
trị, chú trọng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân; đảm bảo quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công và phối hợp giữa các cơ quan lập pháp, tư pháp và hành pháp. Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam là Liên minh chính trị của đoàn thể nhân dân và các cá nhân tiêu
12


biểu của các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo; là cơ sở chính trị
của chính quyền nhân dân. Nhân dân là người làm chủ xã hội thông qua nhà nước
và thông qua cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, làm chủ thông qua
hình thức tự quản.
Việc đổi mới hệ thống chính trị và xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân,
do dân và vì dân đã đạt được những kết quả bước đầu. Quốc hội đẩy mạnh xây
dựng luật pháp, từng bước hoàn thiện cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động
theo hình thức nhà nước pháp quyền XHCN. Nền hành chính quốc gia được cải
cách một bước. Bộ máy Chính phủ và chính quyền địa phương được kiện toàn một
bước. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên từng bước đổi mới về tổ chức và
phương thức hoạt động cho phù hợp với tình hình mới.

Về công tác xây dựng Đảng: Nhận thức lý luận về công tác xây dựng Đảng
được nâng lên một bước với việc xác định đầy đủ hơn bản chất của Đảng và xác
định rõ hơn nền tảng tư tưởng của Đảng cũng như vai trò lãnh đạo của Đảng. Bên
cạnh đó, nội dung công tác xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền, xây
dựng nhà nước pháp quyền, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế được
nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn. Đảng khẳng định: Xây dựng Đảng là nhiệm vụ
then chốt có ý nghĩa sống còn trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng; thường xuyên tự
đổi mới, tự chỉnh đốn là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Giữ vững bản chất
cách mạng và khoa học của Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức.
Do nhận thức và quan điểm đúng đắn đó nên trong bối cảnh tình hình thế
giới có nhiều diễn biến phức tạp, các thế lực thù địch tấn công toàn diện vào Đảng
và chế độ, Đảng vẫn vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội; từng bước nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy, thống nhất tư tưởng trên những
vấn đề cơ bản của công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới. Kiên quyết đấu tranh bảo vệ quan điểm,
đường lối đúng đắn của Đảng; phê phán các quan điểm sai trái, các luận điệu phản
động, dân chủ cực đoan, chủ nghĩa cơ hội. Từng bước sắp xếp, kiện toàn hệ thống
tổ chức của Đảng và Nhà nước theo hướng tinh gọn. Đổi mới công tác đánh giá cán
bộ trên cơ sở lấy hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị làm thước đo phẩm chất,
năng lực của cán bộ. Từng bước đổi mới phương thức lãnh đạo trên cơ sở lãnh đạo
coi trọng thể chế hóa nghị quyết, lãnh đạo xây dựng luật và pháp lệnh, khắc phục
tình trạng bao biện, làm thay.
Thực tiễn lịch sử 85 năm qua đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng
là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. ĐCSVN là lực
lượng chính trị duy nhất đã lãnh đạo Cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác: Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, thắng lợi 30 năm kháng chiến chống thực dân
13



Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất
nước cùng với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử sau gần 30 năm tiến hành
công cuộc đổi mới. Đây là bằng chứng sinh động và cơ sở khoa học khẳng định vai
trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội là chính đáng, hợp lòng dân và
hợp pháp. Có thể nói, vị trí cầm quyền và lãnh đạo của Đảng là không “thiên tư,
thiên vị”.
b. Giữ vững và nâng cao vai trò của Đảng trong thời gian tới
1. Giữ vững vai trò của Đảng
Hiến pháp 1980, 1992 và 2013 của Việt Nam đã ghi nhận Đảng Cộng sản
Việt Nam là lực lượng lãnh đạo xã hội, lãnh đạo Nhà nước. Đấy là sự ghi nhận
xứng đáng công lao và vai trò không thể thay thế được của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong lịch sử dân tộc. So với tất cả các nước trên thế giới, Đảng Cộng sản Việt
Nam hiện nay là đảng duy nhất trên thế giới có vị thế cao nhất mà một đảng chính
trị có thể có được: là đảng duy nhất trong xã hội; là duy nhất lãnh đạo, cầm quyền
được ghi nhận vào Hiến pháp.
Tự hào với lịch sử hào hùng của Đảng - như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói
là “pho lịch sử bằng vàng” - cũng đồng thời phải trả lời câu hỏi đặt ra cho sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay là làm thế nào để tiếp tục duy trì và
được xã hội thừa nhận vị trí cũng như vai trò là đảng duy nhất cầm quyền, duy nhất
lãnh đạo xã hội, đất nước?
Thực tiễn lịch sử thế giới nói chung và phong trào cộng sản nói riêng cho
thấy một đảng có công lao to lớn trong lãnh đạo đất nước phát triển, chiến thắng
chủ nghĩa phát xít, có lịch sử lâu dài, ra đời sớm hơn Đảng ta 3 thập kỷ, có thời gian
cầm quyền liên tục tới 73 năm như Đảng Cộng sản Liên Xô vẫn có thể bị mất quyền
lãnh đạo và suy sụp. Đấy là bài học mà những người Cộng sản không được quên.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, phải thừa nhận hiện nay có một số hiện
tượng nói lên vai trò lãnh đạo của Đảng lúc này, lúc khác, ở lĩnh vực này hay lĩnh
vực kia chưa tốt, làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, là nguyên nhân
có thể làm suy yếu vị thế lãnh đạo của Đảng. Có thể kể một vài hiện tượng như:

1. Có những lĩnh vực còn thiếu vắng vai trò lãnh đạo của Đảng. Đó là khu
vực doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp ngoài nhà nước Theo số liệu thống kê của
Ban Tổ chức Trung ương, năm 2013 ở hai trung tâm kinh tế lớn của đất nước, thành
phố Hồ Chí Minh có 0,8% doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước có tổ chức đảng,
trung bình 16 đảng viên/tổ chức; Hà Nội có 3,9% có tổ chức đảng, trung bình hơn
25 doanh nghiệp ngoài nhà nước mới có 1 doanh nghiệp có tổ chức đảng, trung bình
20 đảng viên/tổ chức. Ngay cả trong nhiều doanh nghiệp lớn của Nhà nước, vai trò
của tổ chức Đảng cũng còn yếu, dẫn đến tình trạng doanh nghiệp làm ăn thua lỗ,
thất thoát, lãng phí, vi phạm pháp luật, mà Vinashin là một điển hình.
14


Điều này đặt ra câu hỏi, tại sao hiện nay tổ chức đảng khó phát triển được
trong doanh nghiệp, chưa có ảnh hưởng cần thiết đối với các doanh nghiệp trong
khi đất nước đang cần phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN?
2. Bộ máy nhà nước cồng kềnh, hiệu lực, hiệu quả còn kém, tham nhũng còn
nhiều, không ít người lãnh đạo trong bộ máy nhà nước ở Trung ương và địa phương
có dấu hiệu vi phạm pháp luật, tư cách người đảng viên (như người từng đứng đầu
cơ quan Thanh tra nhà nước bị báo chí phanh phui gần đây) nhưng tổ chức đảng
không kịp thời phát hiện, xử lý? Điều này đặt ra câu hỏi: sức chiến đấu của tổ chức
đảng ở nhiều nơi vì sao không phát huy được?
Đối với một đảng cầm quyền, để bộ máy nhà nước cồng kềnh, chi tiêu cho
bộ máy thì lớn nhưng kém hiệu lực, hiệu quả, quan chức tham nhũng là điều nguy
hiểm nhất, sẽ khiến đảng mất quyền lãnh đạo nhà nước và đất nước. Những biến
động chính trị, lật đổ nhiều chính phủ ở các nước Đông Nam Á trong các năm gần
đây đều dưới khẩu hiệu chống tham nhũng, là những bài học không thể coi thường.
Với một Đảng Cộng sản, điều này càng nguy hiểm vì đảng sẽ đánh mất đi hình ảnh
và biểu tượng về tính tiền phong, gương mẫu, phẩm hạnh đạo đức trong sáng
của Đảng Cộng sản.
3.Tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước trong những năm qua có xu hướng

chậm lại, phát triển thiếu bền vững, không tương xứng với tiềm năng của đất nước,
có nguy cơ tụt hậu so với các nước trên thế giới và khu vực. Bên cạnh nguyên nhân
khách quan như suy thoái kinh tế thế giới, thì nguyên nhân chủ quan thuộc về sự
lãnh đạo, cầm quyền là chính. Điều này có thể dẫn đến câu hỏi: tầm nhìn, khả năng
đề ra chính sách, pháp luật, chiến lược phát triển và tổ chức thực hiện chính sách,
chiến lược của Đảng ra sao?
Bài học trên thế giới cho thấy nếu các đảng cầm quyền không có được những
chính sách thích hợp khiến kinh tế đất nước khó khăn, thậm chí suy thoái, là điều
nguy hiểm không kém tham nhũng, sẽ khiến đảng có thể bị mất tín nhiệm về năng
lực trí tuệ và năng lực tổ chức của đảng và do đó mất quyền lãnh đạo. Điều này đã
và đang xảy ra ở nhiều nước xung quanh chúng ta và là bài học xương máu cho
nhiều đảng cầm quyền và nhiều nhà lãnh đạo đất nước.
Từ kinh nghiệm của nhiều đảng cầm quyền trên thế giới thuộc các chế độ
chính trị xã hội khác nhau, từ kinh nghiệm thành công cũng như có lúc thiếu sót
trong 85 năm lãnh đạo nhân dân ta qua các giai đoạn cách mạng, soi vào những
nhược điểm trong lãnh đạo, cầm quyền của Đảng hiện nay để khẳng định: chỉ có
khắc phục được những yếu kém, Đảng mới làm tròn vai trò lãnh đạo, cầm quyền,
xứng đáng với vị trí cao nhất mà đất nước, xã hội trao cho.
Trong rất nhiều nghị quyết, từ nghị quyết các Đại hội Đảng tới các nghị
quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, Đảng đã chỉ ra các phương hướng,
giải pháp nhằm xây dựng Đảng: thực sự trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực
15


lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đại hội XI của Đảng nêu 8 phương hướng giải
pháp gồm: tăng cường xây dựng Đảng về chính trị; nâng cao hiệu quả công tác tư
tưởng, lý luận; rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân;
tiếp tục đổi mới, kiện toàn bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị; kiện toàn tổ chức
cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên; đổi mới công tác cán bộ, coi trọng
công tác bảo vệ chính trị nội bộ; đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám

sát; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Tiếp theo, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI đã nêu 3 nhiệm vụ cấp bách là:
đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của
một bộ phận cán bộ, đảng viên; xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp,
nhất là cấp chiến lược của Đảng; thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, mối
quan hệ giữa người đứng đầu với tập thể cấp ủy. Để thực hiện nhiệm vụ thứ nhất,
toàn Đảng đã tiến hành các đợt sinh hoạt phê bình, tự phê bình và thu được một số
kết quả tích cực.
Đó là những phương hướng, giải pháp đúng đắn.
Nhìn từ góc độ của đảng cầm quyền, có thể nhấn mạnh thêm, Đảng phải nắm
chắc 3 lĩnh vực cực kỳ quan trọng, đúng chức năng, nhiệm vụ của một đảng cầm
quyền là:
- Giám sát, kiểm soát được các chức danh lãnh đạo hệ thống chính trị, lãnh
đạo nhà nước do Đảng giới thiệu, bố trí, đặc biệt là các chức danh cao nhất của bộ
máy chính quyền các cấp (ở tầm quốc gia là Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ
tướng, Bộ trưởng; ở địa phương là Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân), bởi vì đây chính là các chức danh có tác động trực tiếp tới chính sách,
pháp luật và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước.
- Kiểm soát được quy trình hoạch định và nội dung của các chính sách, pháp
luật, chủ trương mang tính chiến lược của Nhà nước trên mọi mặt; kiểm soát được
sự phân bổ các nguồn lực của đất nước, bao hàm cả kiểm soát được chi tiêu tài
chính của Nhà nước.
-Tuyên truyền vận động các tầng lớp nhân dân ủng hộ chủ trương, chính sách
của Đảng và người của Đảng đang đảm nhiệm các chức vụ nhà nước và hệ thống
chính trị nói chung.
Để thực hiện được các chức năng, nhiệm vụ đó, điều quan trọng đầu tiên với
một đảng cầm quyền là phải thiết kế thể chế, bộ máy Đảng và Nhà nước hợp lý.
Trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền, phải bảo đảm Đảng lãnh đạo Nhà
nước, nhưng phù hợp với nguyên tắc của nhà nước pháp quyền. Các cơ quan của
Nhà nước, các chức vụ trong bộ máy nhà nước phải thực hiện quyền hạn của mình

một cách có hiệu lực, hiệu quả và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực
hiện nhiệm vụ của mình, đồng thời có thể kiểm soát lẫn nhau, không để lạm quyền,
lộng quyền, lợi dụng quyền hạn, chức vụ vào mục đích cá nhân. Đảng lãnh đạo,
16


cầm quyền song trong khuôn khổ của Hiến pháp, pháp luật. Mọi tổ chức và đảng
viên sống và làm việc theo pháp luật. Chủ trương, chính sách của Đảng phải biến
thành pháp luật và được tổ chức thực hiện chủ yếu bằng Nhà nước. Thực hiện
nguyên tắc nhà nước pháp quyền cũng là ngăn ngừa tham nhũng, mất dân chủ.
Để góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, trong
khuôn khổ của Hiến pháp 2013, người đứng đầu của Đảng phải đảm nhiệm chức vụ
Chủ tịch nước. Điều này bảo đảm cho lãnh tụ của Đảng có vị thế nhà nước cao nhất,
đại diện cho quốc gia trên trường quốc tế, có quyền hạn xứng đáng đối với Quốc
hội và Chính phủ.
Bên cạnh thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương đối với các chức danh
Thủ tướng và các bộ trưởng, phải tăng cường vai trò giám sát, kiểm soát của Quốc
hội (cũng tức là của Đảng) đối với Chính phủ, Thủ tướng, các bộ trưởng bằng hình
thức bỏ phiếu tín nhiệm thường kỳ hay đột xuất. Chủ tịch Quốc hội, các chủ tịch Ủy
ban của Quốc hội cần phải là thành viên ban lãnh đạo cao nhất của Đảng (Bộ Chính
trị, Ban Bí thư). Việc thực hiện lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc
hội bầu hoặc phê chuẩn như vừa qua là hình thức phù hợp, cần thiết.
Ngược lại cũng cần tăng thẩm quyền của Thủ tướng, bộ trưởng để có đủ
thẩm quyền cần thiết trong chủ động, sáng tạo lãnh đạo, điều hành công tác, tránh
sự trông chờ, ỷ lại vào tập thể. Không nhất thiết các bộ trưởng phải là Ủy viên
Trung ương hay đại biểu Quốc hội.
Ở các địa phương, Bí thư tỉnh, thành ủy phải là Chủ tịch Hội đồng nhân dân
để có đủ quyền hạn và thực hiện đúng chức năng lãnh đạo cơ quan đại biểu nhân
dân giám sát, kiểm soát đối với người đứng đầu cơ quan hành pháp ở địa phương.
Các chủ nhiệm ủy ban của Hội đồng cũng phải là các thành viên của Ban lãnh đạo

cao nhất của cấp ủy Đảng.
Bằng việc bố trí các nhân sự cấp cao của Đảng vào các chức vụ cao nhất của
cơ quan đại diện của dân, Đảng sẽ giám sát, kiểm soát được con người, kiểm soát
được việc phân bổ các nguồn lực và tài chính của đất nước, địa phương. Cấp ủy
Đảng không chỉ đề ra chủ trương chung mà phải nắm được chính xác các chương
trình, dự án và việc phân bổ kinh phí, tài chính cho các dự án, chương trình trong
phạm vi từng địa phương. Kiểm soát về tài chính hiện nay là điều Đảng còn yếu.
Nếu làm tốt điều này sẽ làm tăng quyền lực của Đảng trong việc nắm bộ máy nhà
nước và lãnh đạo bộ máy nhà nước.
Phòng, chống tham nhũng hiệu quả là bảo vệ uy tín của đảng cầm quyền. Bất
cứ đảng cầm quyền nào để cho tham nhũng phát triển đều bị mất uy tín, dẫn đến
mất quyền lãnh đạo. Do vậy điều quan trọng thứ hai hiện nay là Đảng phải tăng
cường lãnh đạo công tác phòng, chống tham nhũng. Đây là nhiệm vụ thường xuyên,
lâu dài, song trong giai đoạn hiện nay phải tạo được bước đột phá, có chuyển biến
mạnh. Có thể coi chống tham nhũng là nhiệm vụ “chuyên chính” trong bối cảnh
17


phát triển kinh tế thị trường. Đồng thời với việc ban hành và thực hiện nghiêm túc
các quy định pháp luật cần thiết như kê khai và công khai tài sản, phải tăng thẩm
quyền cho Ban Nội chính cũng như Ủy Ban kiểm tra của Đảng ở các cấp trong phát
hiện và xử lý kỷ luật đối với đảng viên tham nhũng. Ủy Ban kiểm tra phải được Đại
hội bầu và có thẩm quyền quyết định kỷ luật cao hơn nữa.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhưng quần chúng có hiểu, tự giác
thực hiện chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước, tin tưởng vào Đảng, tin tưởng
vào các đảng viên nắm chức vụ nhà nước hay không, phụ thuộc vào công tác truyền
thông và vận động quần chúng. Nên coi đây là thực hiện hoạt động “quan hệ công
chúng” và là công việc quan trọng thứ ba hiện nay. Nghị quyết của Đảng về tăng
cường lãnh đạo công tác dân vận trong tình hình mới, về tăng cường thông tin chính
thống, tăng cường đối thoại, giải đáp, đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc,

vu khống trên mạng internet về mọi hoạt động của các lãnh đạo Đảng, Nhà nước là
điều cần thiết, đúng đắn, cần được ủng hộ.
Quan hệ công chúng của Đảng cần phải được tăng cường hơn nữa, hướng tới
các tầng lớp nhân dân rộng hơn, tới đồng bào có đạo, dân tộc thiểu số, người Việt
Nam ở nước ngoài, bạn bè, đối tác nước ngoài của Việt Nam. Vai trò của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức hữu nghị nhân dân
cần được phát huy nhiều hơn nữa.
Suy cho cùng vấn đề con người là nhân tố quyết định. Về lâu dài, Đảng có đủ
tầm trí tuệ, bản lĩnh chính trị; có năng lực lãnh đạo, cầm quyền; trong sạch, văn hóa
hay không phụ thuộc vào việc Đảng có làm tốt công tác phát hiện, tuyển chọn, đào
tạo, rèn luyện, bồi dưỡng được đội ngũ đảng viên đủ phẩm chất để bố trí vào các
cương vị quan trọng của hệ thống chính trị và nhà nước hay không. Do vậy, điều
quan trọng thứ tư hiện nay là Đảng phải làm tốt “công tác gốc”của Đảng là công tác
cán bộ như lời Bác Hồ dạy. Đây là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục, lâu dài để bảo
đảm cho các thế hệ của Đảng kế tiếp nhau lãnh đạo đất nước. Đóng góp vào công
tác cán bộ của Đảng, các trường Đảng, trường cán bộ phải cấp bách và thường
xuyên đổi mới, nâng cao chương trình, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lên
một trình độ mới, cao hơn, hiện đại hơn. Đến lượt mình, bản thân đội ngũ cán bộ
của hệ thống trường Đảng cũng cần phải được thường xuyên, liên tục bồi dưỡng,
rèn luyện, đổi mới và trưởng thành không chỉ trên bục giảng mà còn trong thực tiễn
trực tiếp lãnh đạo, quản lý ở các cấp.
ii. Nâng cao vai trò của Đảng
Một trong những bài học lớn dẫn tới những thành công trong hai mươi năm
đổi mới mà Đảng ta đã rút ra tại Đại hội X là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính
trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền
lực thuộc về nhân dân”. Bài học này bao trùm toàn bộ những hoạt động cơ bản của
18



Đảng nhằm lãnh đạo nhân dân ta tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước. Tiếp tục tinh thần ấy, Đại hội lần thứ XI cũng chỉ rõ: “...nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn với
Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân hiện nay”.
Vấn đề nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là một vấn đề được toàn Đảng,
toàn dân hết sức quan tâm. Nó đã được đặt ra trong nhiều hội thảo khoa học, nhiều
kỳ họp của Ban Chấp Hành Trung ương Đảng cũng như các tổ chức đảng các cấp.
Có thể nói, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là một đòi hỏi khách quan, cấp
bách trong giai đoạn hiện nay. Thực tiễn hơn hai mươi năm đổi mới cho thấy: Một
mặt,đường lối đổi mới đo Đảng khởi xướng và lãnh đạo thực hiện là hoàn toàn đúng
đắn, đã đem lại những thành tựu to lớn, tạo ra những tiền đề cho phát triển kinh tế xã hội với nhịp độ nhanh hơn, chất lượng cao hơn. Mặt khác, nước ta đang đứng
trước nhiều thách thức lớn như nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; tình trạng suy
thoái về chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận nhân dân, cán bộ, đảng viên,...
Để khắc phục các nguy cơ, đẩy nhanh nhịp độ và chất lượng phát triển kinh tế - xã
hội, việc nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là yêu cầu khách quan hết sức cấp
bách.
Năng lực lãnh đạo của Đảng là yếu tố quan trọng quyết định thắng lợi của
công cuộc đổi mới, của sự nghiệp phát triển đất nước. Năng lực lãnh đạo càng cao
thì hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước
càng lớn.
Để làm rõ điều này, trước hết chúng ta hãy phân tích về một số biểu hiện về
vai trò năng lực lãnh đạo của Đảng. Thứ nhất, chúng ta thấy rằng, năng lực lãnh
đạo của Đảng trước hết được thể hiện qua việc xây dựng cương lĩnh, đường lối, chủ
trương, kế hoạch... phát triển đất nước gọi tắt là việc xây dựng các quyết sách và tổ
chức thực hiện các quyết sách ấy của các cấp ủy đảng, từ Ban Chấp hành Trung
ương đến các cấp uỷ cơ sở cũng như của các cá nhân đảng viên nắm giữ các chức
vụ chủ chốt trong các cơ quan Đảng và Nhà nước, tổ chức chính trị- xã hội. Cũng từ
đó có thể khẳng định: Năng lực lãnh đạo của Đảng được thể hiện tập trung ở các
khía cạnh:
Một là, năng lực xây dựng các quyết sách. Việc xây dựng các quyết sách ở

các cấp khác nhau cũng có những biểu hiện khác nhau, ở cấp Trung ương, đó là
việc xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch chung... cho sự phát
triển đất nước; ở các địa phương, ngành - đó là việc xây dựng chủ trương, kế hoạch
phát triển của địa phương, của ngành. Việc xây dựng các quyết sách đúng đắn, khả
thi đem lại hiệu quả cao phụ thuộc vào việc nhận thức một cách khoa học thực trạng
đối tượng mình quản lý, bối cảnh xung quanh và mục tiêu cần đạt được. Hiệu quả
của việc nhận thức như vậy rõ ràng phụ thuộc vào năng lực lãnh đạo của chủ thể

19


(tập thể, cá nhân). Năng lực lãnh đạo của chủ thể càng phát triển thì việc xây dựng
các quyết sách càng đúng đắn và hiệu quả đối với cuộc sống càng cao.
Hai là, năng lực tổ chức thực tiễn. Tổ chức thực tiễn bao gồm hai bộ phận:
Vận dụng các quyết sách vào thực tiễn; Tổng kết thực tiễn rút ra những bài học kinh
nghiệm nhằm điều chỉnh các quyết sách đã có hoặc xây dựng các quyết sách mới.
Việc vận dụng các quyết sách vào cuộc sống và tổng kết thực tiễn rõ ràng cũng phụ
thuộc vào năng lực lãnh đạo của chủ thể. Năng lực lãnh đạo càng cao thì hiệu quả
vận dụng, tổng kết thực tiễn càng lớn.
Thứ hai, cũng cần phải nhấn mạnh rằng, năng lực lãnh đạo của Đảng được
thể hiện thông qua năng lực lãnh đạo của các tổ chức đảng, của các đảng viên là cán
bộ chủ chốt các cấp, các ngành cũng như của đội ngũ cán bộ, đảng viên nói chung.
Cho nên, nói đến năng lực tư duy khoa học của chủ thể cũng là muốn nói đến năng
lực lãnh đạo của các cán bộ lãnh đạo Đảng, chính quyền các cấp – những người giữ
vị trí trọng trách về sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội. Đảng ta coi: “Cán bộ là
nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng,
của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”.
Nhận thấy việc nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng gắn liền với việc nâng
cao năng lực lãnh đạo của các đảng viên giữ các cương vị lãnh đạo, quản lý nói
riêng, chất lượng đảng viên nói chung, Đại hội VI khẳng định: “Đổi mới, tăng

cường công tác quản lý, phát triển đảng viên, bảo đảm chất lượng đảng viên theo
yêu cầu của Điều lệ Đảng; phát huy tính tiên phong, gương mẫu, chủ động sáng tạo
của đội ngũ Đảng viên trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao”.
Từ thực tiễn thành công và chưa thành công của công cuộc đổi mới thời gian
qua, có thể khẳng định, để thực hiện thắng lợi quá trình đổi mới trong giai đoạn
2011-2020, việc nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trở thành một yêu cầu cấp
bách. Một yêu cầu khách quan nữa của việc phải nâng cao năng lực lãnh đạo của
Đảng là sự thay đổi nhanh chóng và mạnh mẽ tình hình trong và ngoài nước trong
thời gian vừa qua và tương lai.
Tuy nhiên, việc nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng không thể chỉ là dừng
lại ở lời nói, ở khẩu hiệu, ở ý thức của mỗi đảng viên mà phải có chủ trương việc
làm cụ thể. Từ những đòi hỏi khách quan và tình hình chủ quan, chúng tôi cho rằng,
một số công việc trước mắt cần phải làm ngay để nâng cao năng lực lãnh đạo của
Đảng là:
Thứ nhất, phải đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Trong hơn 20 năm đổi mới, phương thức lãnh đạo của Đảng đã có những đổi
mới nhất định. Tuy nhiên, so với yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng
trong giai đoạn mới thì vẫn còn nhiều bất cập. Chính vì vậy, để nâng cao năng lực
lãnh đạo của Đảng, chúng ta phải đổi mới chính ngay phương thức lãnh đạo của
Đảng.
20


Chúng tôi cho rằng, trong việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng,
chúng ta cần phải tập trung giải quyết một số vấn đề sau đây:
1. Phải phân định rõ một cách có tính nguyên tắc đâu là sự lãnh đạo của
Đảng đâu là sự quản lý của nhà nước. Chúng ta phải kiên quyết, khắc phục sự lấn
lướt, sự bao biện, làm thay, dẫn đến tình trạng chồng chéo, “tranh công, đổ lỗi” giữa
các cơ quan của Đảng với các cơ quan của nhà nước. Đã đến lúc cần xác định rõ vị
thế của một Đảng cầm quyền, Đảng không làm thay công việc của nhà nước và

phân định rõ trách nhiệm của Đảng, trách nhiệm của nhà nước, từ đó làm rõ trách
nhiệm của các cá nhân lãnh đạo, quản lý, tránh tình trạng thành công thì mọi người
đều nhận, thất bại thì không biết quy trách nhiệm cho ai.
2. Đổi mới phương thức xây dựng các quyết sách, xây dựng các nghị quyết
làm sao cho rõ ràng, khả thi và có hiệu quả. Các quyết sách, nghị quyết được đưa ra
không chỉ cho hay, cho đủ lệ mà phải được đưa vào cuộc sống. Chính vì vậy, các
quyết sách, nghị quyết phải xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn và phải là kim chỉ
nam cho hoạt động thực tiễn. Các quyết sách phải ngắn gọn, rõ ràng, tránh lập lờ,
nước đôi, ai hiểu thế nào thì hiểu. Bên cạnh đó, việc xây dựng các quyết sách, nghị
quyết cần đảm bảo tính khả thi và hiệu quả của chúng.
Thời gian qua có nhiều quyết sách, nghị quyết còn chung chung, chưa gắn
với thực tế đất nước, vì vậy, tính khả thi thấp. Còn nhiều quyết sách vẫn nằm trên
giấy. Vẫn còn tình trạng nhiều văn bản chưa kịp triển khai thì đã có văn bản mới.
Chúng ta có quá nhiều quyết sách dài hạn mà thiếu quyết sách ngắn hạn, trước mắt.
Từ đó mà các quyết sách ít khả thi, hiệu quả không cao.
3. Thực hiện dân chủ trong phương thức hoạt động của Đảng từ việc xây
dựng các quyết sách đến sinh hoạt Đảng. Vì những lý do khách quan và chủ quan
nào đó, trong thời gian qua hoạt động của Đảng nói chung, sinh hoạt Đảng nói riêng
tính dân chủ chưa được phát huy đầy đủ. Đã đến lúc cần đổi mới nhận thức nguyên
tắc tập trung dân chủ, hiểu cho đúng vấn đề này. Nguyên tắc này không loại trừ việc
thảo luận công khai, dân chủ trong Đảng về các quyết sách và đi tới sự đồng thuận,
nó cũng không loại trừ sự tham khảo ý kiến các cơ quan hữu quan, các nhà khoa
học và nhân dân về các chủ trương, chính sách, văn kiện của Đảng. Đương nhiên,
việc thảo luận, tham khảo phải đi vào thực chất tránh cách làm hình thức. Có như
thế mới khơi dậy tính năng động, sáng tạo trong Đảng cũng như trong xã hội.
Thứ hai, phải chỉnh đốn Đảng, làm trong sạch Đảng, tăng cường sức
chiến đấu của Đảng.
Để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn mới, Đảng phải tự
đổi mới, tiếp tục tự chỉnh đốn, xây dựng Đảng ngang tầm thời đại và với yêu cầu
của công cuộc đổi mới giai đoạn 2011 -2020.

1. Đảng phải tự chỉnh đốn, đổi mới để thích nghi với tình hình mới. Đảng
phải vượt lên trên những định kiến hẹp hòi, kiểu “ngựa quen đường cũ”, để dám đổi
21


mới, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước vận mệnh của quốc gia, dân
tộc và trước nhân dân.
Đảng phải đổi mới cách ứng xử như thế nào để tranh thủ được sự giúp đỡ,
hợp tác có hiệu quả của cộng đồng quốc tế, làm cơ sở cho sự phục hưng và phát
triển đất nước.
Tư duy mới của Đảng phải vừa đảm bảo tính độc lập, tự chủ, vừa mang tính
sáng tạo, khoa học, hướng đến cái mới thì nhằm đáp ứng được yêu cầu của thời
cuộc. Chậm chạp, khép kín, lỗi thời, không theo kịp sự biến đổi của thời cuộc, cũng
có nghĩa là tự loại bỏ mình ra ngoài lề cuộc sống.
2. Đẩy mạnh chống tham nhũng, làm trong sạch Đảng. Muốn nâng cao năng
lực lãnh đạo của Đảng, trước hết phải làm trong sạch Đảng,đấu tranh đi đến xóa bỏ
tệ nạn tham nhũng. Đảng chỉ có thể giữ vững vai trò lãnh đạo của mình khi Đảng
vẫn giữ được uy tín của mình trước nhân dân. Muốn vậy, Đảng phải thực sự trong
sạch, loại bỏ được tham nhũng và các tệ nạn khác.
Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật”, Đảng cần phải dũng
cảm nhìn nhận, phân tích khách quan, thấy rõ những “căn bệnh trầm kha” trong cơ
thể Đảng là sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận, cán bộ,
đảng viên; những tệ nạn xã hội đang sách nhiễu, lũng đoạn trong một số tổ chức
đảng, chính quyền như tham nhũng, quan liêu, hối lộ, bè cánh, chạy chức, chạy
quyền, gây mất đoàn kết trong nội bộ Đảng và trong nhân dân, v.v., để cắt bỏ, làm
trong sạch Đảng; có như vậy cơ thể Đảng mới thật sự khoẻ mạnh, có sức sống, có
năng lực lãnh đạo.
Một trong những việc làm trước mắt của đổi mới chỉnh đốn Đảng là phải đổi
mới cơ chế tuyển chọn nhân tài, lãnh tụ của Đảng sao cho thật chính xác; kiên quyết
loại bỏ và không để cho những phần tử cơ hội, biến chất chui vào bộ máy của Đảng,

Nhà nước, nấp dưới danh nghĩa Đảng để trục lợi làm tổn thương uy tín của Đảng,
lợi ích của nhân dân.
3. Nâng cao sức chiến đấu của Đảng. Khác với lãnh đạo trong chiến tranh,
khác với lãnh đạo thời bao cấp, lãnh đạo công cuộc xây dựng và phát triển đất nước
khó khăn, phức tạp hơn nhiều. Cùng với điều đó tình hình hiện nay cũng đã thay
đổi. Chính vì vậy, các chủ trương, đường lối, chính sách, cũng như các quan hệ, ứng
xử, giải pháp phải rất mềm dẻo, linh hoạt, uyển chuyển theo tinh thần mới đa
phương hóa, đa dạng hóa song lại phải đúng nguyên tắc, đạt hiệu quả. Vì thế, toàn
Đảng, từ Ban Chấp hành Trung ương đến các cán bộ, đảng viên của Đảng phải nâng
cao sức chiến đấu để đủ sức phát hiện, nhận thức sự biến đổi của tình hình từ đó
phải quyết đoán, sáng tạo, độc lập, tự chủ trong việc xây dựng các quyết sách. Có
như thế, mới quyết định đưa ra mới chính xác, không rơi vào chủ quan, duy ý chí,
mắc sai lầm, gây thiệt hại cho quốc gia, dân tộc.
22


Mặt khác, với chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn, lật đổ,... các thế lực
thù địch cũng đang tìm mọi cách chống phá nước ta. Vì vậy, cùng với việc tranh thủ
các cơ hội cho sự phát triển đất nước, chúng ta cần tỉnh táo, cảnh giác để có các đối
sách phù hợp, đập tan các âm mưu đen tối của chúng.
Thời cuộc đã và đang đặt ra những trách nhiệm nặng nề cho toàn Đảng và
nhân dân ta. Chỉ có nâng cao sức chiến đấu, Đảng ta mới nâng cao được năng lực
lãnh đạo của mình, giữ vững được vị thế của một Đảng cầm quyền, thực hiện sứ
mạng lịch sử mà nhân dân giao phó.
Thứ ba, nâng cao năng lực trí tuệ, đặc biệt là năng lực tư duy khoa học
cho cán bộ đảng viên, trong đó có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Trong thời đại ngày nay, để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, chúng ta
cần phải nâng cao năng lực trí tuệ của Đảng, trước hết là năng lực tư duy khoa học
cho cán bộ, đảng viên. Thiếu những phẩm chất đó, Đảng nói chung và mỗi cán bộ,
đảng viên nói riêng không thể lãnh đạo đất nước, quần chúng nhân dân thực hiện

thành công sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Để thấy rõ hơn tác động của năng lực tư duy khoa học đối với năng lực lãnh
đạo của Đảng, chúng ta có thể phân tích kỹ hơn về vai trò của năng lực tư duy khoa
học đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo (các cấp) của Đảng.
Cũng như tư duy khoa học nói chung, năng lực tư duy khoa học có vai trò to
lớn trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người nói chung, của
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng. Khi khẳng định vai trò của tư duy (ý
thức) đối với nhận thức và cải tạo thế giới, V.I.Lênin đã khẳng định: “ý thức con
người không chỉ phản ánh thế giới khách quan mà còn tạo ra thế giới khách
quan”(5). Khẳng định trên cho thấy: một mặt, thông qua hoạt động tư duy, con
người có thể nhận thức đúng đắn được hiện thực khách quan; mặt khác, thông qua
hoạt động thực tiễn, được chỉ đạo bởi các tri thức đúng đắn con người có thể cải
biến hiện thực khách quan vì những lợi ích của mình. Cũng từ đó có thể khẳng định
tư duy khoa học, năng lực tư duy khoa học có vai trò quan trọng cả đối với hoạt
động nhận thức, cả với hoạt động thực tiễn. Dưới đây, chúng tôi sẽ đề cập đến từng
khía cạnh nói trên.
Một là, năng lực tư duy khoa học có vai trò lớn đối với đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý trong việc xây dựng các quyết sách, đó là việc xây dựng các đường lối,
chủ trương, kế hoạch, trước hết là đưa ra các quyết định chiến lược trong phạm vi
mình quản lý.
Xét trong phạm vi xây dựng các quyết sách, vai trò này thể hiện ở những nội
dung sau:
1 - Năng lực tư duy khoa học giúp cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ
thể xác lập trí thức đúng đắn về đối tượng. Để ra được các quyết sách về một vấn
đề, đối tượng nào đó, cần phải hiểu đúng về nó trong trạng thái hiện tại cũng như xu
23


hướng vận động, phát triển của nó trong tương lai. Đây được xem như sự nhận diện
vấn đề. Các quyết sách đưa ra chỉ có hiệu quả nếu như chúng ta nhận thức được

đúng bản chất của vấn đề. Việc nhận diện mơ hồ vấn đề sẽ dẫn đến việc đưa ra các
quyết sách kém hiệu quả, thậm chí có hại.
2 - Năng lực tư duy khoa học giúp cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý (chủ
thể) phân tích bối cảnh chung tác động đến việc giải quyết vấn đề (để đưa ra quyết
sách). Nếu như việc nhận thức bản chất vấn đề chỉ liên quan đến phạm vi, lĩnh vực
mà chủ thể phụ trách thì việc phân tích bối cảnh chung vượt ra ngoài phạm vi đó.
Chẳng hạn, việc đưa ra chủ trương mở rộng việc đào tạo nghiên cứu sinh theo hệ tại
chức,thì ngoài việc nhận thức về bản chất của quá trình đào tạo này trong hệ thống
đào tạo sau đại học, chủ thể cần phải phân tích bối cảnh chung của đất nước, của
khu vực để đảm bảo rằng việc thực hiện nó mang lại hiệu quả.
Việc tách rời vấn đề với bối cảnh, và những vấn đề liên quan khác sẽ dẫn đến
các sai lầm siêu hình, phiến diện và đương nhiên kết quả nhận được sẽ rất hạn chế.
3 - Năng lực tư duy khoa học giúp cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý (chủ
thể) đưa ra các quyết sách một cách hợp lý tối ưu. Trên cơ sở nắm được bản chất
vấn đề, bối cánh chung, chủ thể bằng năng lực phán đoán, lựa chọn và luận chứng
sẽ đưa ra các quyết sách. Đây là quá trình biến những tri thức (về vấn đề, về bối
cảnh chung, về mục tiêu cần đạt được) đã lĩnh hội được thành các chủ trương đường
lối, quyết định của chủ thể. Hiệu quả của các quyết định này phụ thuộc rất nhiều
vào năng lực tư duy khoa học của chủ thể.
Hai là, năng lực tư duy khoa học có vai trò to lớn trong hoạt động tổ chức
thực tiễn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo.
Hoạt động thực tiễn đặc thù của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý là hoạt
động tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối, kế hoạch, quyết định (các quyết
sách) trong phạm vi mình phụ trách. Với loại hoạt động này, năng lực tư duy khoa
học có một vai trò đặc biệt. Vai trò này được thể hiện cụ thể như sau:
l- Năng lực tư duy khoa học giúp cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý (chủ
thể) hiểu biết sâu sắc, đúng đắn, chính xác nội dung các chủ trương, đường lối,
chính sách, quyết định (gọi chung là các quyết sách) của cấp trên, của tập thể lãnh
đạo cùng cấp trên địa bàn hoặc lĩnh vực mình phụ trách.
Đây là khâu rất quan trọng trong hoạt động tổ chức thực tiễn, bởi lẽ chỉ có

hiểu đúng, chính xác các chủ trương, đường lối, chính sách, quyết định thì mới có
thể làm (thực hiện) đúng và có hiệu quả, sự hiểu biết hời hợt tất yếu sẽ dẫn đến hiệu
quả thấp, thậm chí còn có hại.
2 - Năng lực tư duy khoa học giúp đội ngũ, cán bộ lãnh đạo, quản lý (chủ
thể) chủ thể lựa chọn phương pháp, hình thức để thực hiện các quyết sách có hiệu
quả nhất. Mỗi một quyết sách có những đặc thù riêng và để việc thực hiện nó có
hiệu quả, chúng ta cần sử dụng các phương pháp phù hợp. Năng lực tư duy khoa
24


học giúp chủ thể lựa chọn được các phương pháp phù hợp cũng như cách thức vận
dụng chúng một cách tối ưu.
Bên cạnh các phương pháp, cách thức thực hiện quyết sách cũng rất quan
trọng. Có những quyết sách tác động, toàn diện, lại có những quyết sách chỉ tác
động tới bộ phận, có những quyết sách tác động dài hạn, lại có những quyết sách tác
động ngắn hạn. Với từng loại quyết sách như vậy cần có cách thức thực hiện thích
hợp.
Hơn nữa, trong phạm vi phụ trách của chủ thể, có thể có nhiều quyết sách
khác nhau cùng được thực hiện. Ở đây, cần một sự phối hợp hợp lý để đạt được
hiệu quả cao nhất. Những yêu cầu trên, rõ ràng đòi hỏi chủ thể phải có năng lực tư
duy khoa học phát triển mức nhất định.
3 - Năng lực tư duy khoa học giúp cho đội ngũ, cán bộ lãnh đạo, quản lý (chủ
thể) có năng lực tổng kết thực tiễn trong phạm vi mình phụ trách. Việc tổng kết thực
tiễn, một mặt giúp chủ thể rút ra được các bài học kinh nghiệm quý giá, mặt khác,
nó giúp cho việc điều chỉnh các quyết sách, thậm chí đưa ra các quyết sách mới. Vì
vậy, nó cần được thực hiện trên cơ sở khoa học với một năng lực tư duy khoa học
nhất định của chủ thể.
Từ những phân tích trên, có thể khẳng định để nâng cao năng lực lãnh đạo
của Đảng tất yếu phải nâng cao năng lực trí tuệ nói chung, năng lực tư duy khoa học
nói riêng cho cán bộ, đảng viên, trước hết là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các

cấp.

25


×