Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Đổi mới nội dung quản lý nhà nước và phương thức công tác dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 129 trang )

uỷ ban dân tộc
viện dân tộc

báo cáo tổng kết
đề tài nghiên cứu cấp bộ năm 2004

đổi mới nội dung quản lý nhà nớc
và phơng thức công tác dân tộc

Chủ nhiệm đề tài: PGS, TS Lê Ngọc Thắng

5667
19/01/2006

Hà Nội 2005


Báo cáo chính đề tài cấp Bộ 2004: Đổi mới nội dung quản lý Nhà nớc và phơng thức
công tác dân tộc

Mở đầu

Tính cấp thiết của đề tài:
Tình hình dân tộc, vấn đề dân tộc từ nay đến 2010 và 2020 đã và đang
đặt ra nhiều vấn đề chiến lợc, cụ thể có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát
triển của đồng bào các dân tộc. Nhu cầu nâng cao chất lợng, hiệu quả Quản lý
Nhà nớc và phơng thức công tác dân tộc là tất yếu khách quan để đáp ứng
tình hình trên...Việc tìm ra các luận cứ khoa học góp phần đa ra giải pháp cụ
thể thực hiện có hiệu quả chức năng Quản lý Nhà nớc và nâng cao chất lợng
phơng thức công tác dân tộc ở nớc ta là một yêu cầu mang tính đổi mới trong
công tác dân tộc hiện nay.


Nội dung quản lý Nhà nớc và phơng thức công tác dân tộc là một
trong những yếu tố cơ bản của việc thực hiện có hiệu quả công tác dân tộc,
chính sách dân tộc ở nớc ta. Đảng và Nhà nớc ta đã sớm và luôn coi trọng
vấn đề dân tộc, công tác dân tộc trong cách mạng đấu tranh giành độc lập và
xây dựng đất nớc trong thời bình. Trong thời kỳ đổi mới, nhiều văn bản quan
trọng về công tác dân tộc, về phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền
núi đã đợc Đảng, Nhà nớc ban hành. Qua các kỳ Đại hội VI, VII, VIII, IX
của Đảng đều khẳng định quan điểm và những nguyên tắc cơ bản trong việc
giải quyết vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc nh: Nghị quyết 22-NQ/TW
ngày 27-11-1989 của Bộ Chính trị, Quyết định số 72-HĐBT ngày 13-3-1990
của Hội đồng Bộ trởng (nay là Chính phủ) về một số chủ trơng cụ thể phát
triển kinh tế-xã hội miền núi, Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12-3-2003 của
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ơng Đảng khoá IX về công tác dân tộc, Quyết
định số 122/2003/QĐ-TTg ngày 12-6-2003 của Chính phủ về việc ban hành
Chơng trình hành động của Chính phủ và nhiều văn bản khác... là những chủ
trơng, đờng lối quan trọng nhằm phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo ổn định
chính trị và quốc phòng, an ninh vùng dân tộc thiểu số.
Trong thời gian qua, việc thực hiện đờng lối, chính sách của Đảng và
Nhà nớc ở vùng dân tộc thiểu số đã đạt đợc những thành tựu quan trọng:
Quyền bình đẳng giữa các dân tộc đợc Hiến pháp xác định và đợc thể hiện
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; đoàn kết giữa các dân tộc tiếp tục đợc
củng cố; nền kinh tế nhiều thành phần ở miền núi và các vùng dân tộc từng
bớc hình thành và phát triển, cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch theo hớng sản
xuất hàng hóa; việc triển khai thực hiện nhiều chính sách, chơng trình, dự án
đầu t đã làm cho kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân ở nhiều
vùng đồng bào dân tộc đợc cải thiện rõ rệt; công tác xói đói, giảm nghèo đạt
1


Báo cáo chính đề tài cấp Bộ 2004: Đổi mới nội dung quản lý Nhà nớc và phơng thức

công tác dân tộc

đợc kết quả to lớn; mặt bằng dân trí đợc nâng lên; mục tiêu phổ cập giáo dục
tiểu học và xóa mù chữ đã đợc thực hiện; hệ thống trờng phổ thông dân tộc
nội trú đợc hình thành từ Trung ơng đến tỉnh, huyện, cụm xã; văn hoá phát
triển phong phú hơn; đời sống văn hoá của đồng bào đợc nâng cao một bớc;
văn hoá truyền thống của các dân tộc đợc tôn trọng, giữ gìn và phát huy; các
loại bệnh dịch cơ bản đợc ngăn chặn và từng bớc bị đẩy lùi; việc khám, chữa
bệnh cho vùng sâu, vùng xa đợc quan tâm hơn; hệ thống chính trị ở các vùng
dân tộc và miền núi bớc đầu đợc tăng cờng và củng cố; tình hình chính trị,
trật tự xã hội cơ bản ổn định; an ninh, quốc phòng đợc giữ vững ...
Cùng với quá trình đổi mới đất nớc thời gian qua, hoạt động quản lý
Nhà nớc và phơng thức công tác dân tộc đã đạt đợc một số kết quả: Công
tác quy hoạch, kế hoạch đợc tăng cờng và đổi mới. Trong những năm qua
Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện khá đồng bộ công tác quy hoạch, kế hoạch.
Đến nay, tất cả các vùng dân tộc và miền núi đều đã có quy hoạch 1996 - 2010.
Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng Đông Bắc, quy hoạch phát triển
kinh tế - xã hội vùng Tây Bắc, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội các vùng
Tây Nguyên và Bắc Trung bộ, duyên hải miền Trung và đồng bằng sông Cửu
Long... Tất cả các tỉnh miền núi đã có quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội đến
2010, đây là cơ sở quan trọng tạo ra những hành lang pháp lý phát triển dài hạn
là cơ sở xây dựng kế hoạch 5 năm và hàng năm.
Quy chế dân chủ từng bớc đợc thực hiện và ngày càng có hiệu quả.
Trong 10 năm qua, công tác quản lý Nhà nớc về công tác dân tộc đã dần dần
đi vào thực tiễn, thực hiện tốt quy chế dân chủ, cơ chế: Dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra, nhất là từ khi thực hiện Chơng trình 135 với phơng châm
Dân bàn, dân giám sát, dân tham gia các công trình và Xã có công trình,
dân có việc làm...
Trung ơng Đảng và Chính phủ ban hành nhiều chơng trình quốc gia,
chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi nh: Nghị quyết

22-NQTW ngày 27-01-1989 về một số chủ trơng chính sách lớn phát triển
kinh tế-xã hội miền núi; ban hành Quyết định 72 - HĐBT ngày 13-3-1990 của
Hội đồng Bộ trởng (nay là Chính phủ) về một số chủ trơng, chính sách cụ
thể phát triển kinh tế-xã hội miền núi; Chơng trình mục tiêu quốc gia xoá đói
giảm nghèo, theo Quyết định 133/1998/QĐ-TTg ngày 27-3-1998; Chơng
trình xây dựng Trung tâm cụm xã theo Quyết định số 35/QĐ-TTg ngày 13-011997; Chơng trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền
núi, vùng sâu, vùng xa theo Quyết định 135/1998/QĐ-TTg ngày 31-7-1998;
Chơng trình trợ cớc trợ giá theo Nghị định số 20/1998/NĐ-CP ngày 31-31998; Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng theo Quyết định số 661/QĐ-TTg ngày
2


Báo cáo chính đề tài cấp Bộ 2004: Đổi mới nội dung quản lý Nhà nớc và phơng thức
công tác dân tộc

29-07-1997...và một số chơng trình khác nh Chơng trình hỗ trợ dân tộc đặc
biệt khó khăn, phòng chống ma tuý, hỗ trợ phát triển giáo dục đào tạo (trong
đó có hệ thống Trờng Dân tộc nội trú, Trờng Dự bị đại học, Trờng Thiếu
sinh quân...), y tế, bảo tồn phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, phủ sóng phát
thanh truyền hình, định canh định c; tài chính (vay vốn u đãi từ Ngân hàng
ngời nghèo nay là Ngân hàng Chính sách xã hội)...
Công tác dân tộc thời gian qua còn t vấn, tham gia vào nội dung chính
sách dân tộc trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX; tham gia
Ban soạn thảo Nghị quyết Trung ơng 7 khoá IX về công tác dân tộc. Tổ chức
sơ kết Chỉ thị 117-CTTW ngày 29-9-1981 của Ban Bí th đối với đồng bào
Khmer; Thông tri số 03-TT/TW ngày 17-10-1991 của Ban Bí th về công tác
đối với đồng bào Chăm; tổ chức tổng kết Chỉ thị 45-CTTW của Ban Bí th đối
với đồng bào Mông; tổng kết việc thực hiện Nghị quyết 22-NQTW của Bộ
Chính trị và Quyết định 72-HĐBT của Hội đồng Bộ trởng làm căn cứ để bổ
sung hoàn thiện chính sách dân tộc trong giai đoạn mới. Trong hoạt động quản
lý về công tác dân tộc đã ban hành tiêu chí phân định ba khu vực miền núi,

vùng cao và ba khu vực vùng dân tộc đồng bằng, tạo cơ sở để xây dựng các
chơng trình dự án quốc gia, phát triển vùng dân tộc và miền núi theo Quyết
định số 42/UB QĐ ngày 23-5-1997 và Quyết định số 21/1998/QĐ-TTg ngày
25-2-1998 của Bộ trởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc và Miền núi.
Cơ quan công tác dân tộc từng bớc đợc củng cố, hoàn thiện về tổ chức
bộ máy các cấp đáp ứng đòi hỏi của công tác dân tộc trong tình hình mới.
Chính phủ đã có một số Nghị định về tổ chức bộ máy cơ quan công tác dân tộc
để ngày càng hoàn thiện hơn về cơ cấu tổ chức và chức năng nhiệm vụ nh
Nghị định 11/NĐ-CP, Nghị định 59/1998/NĐ-CP. Qua hoạt động thực tiễn bộ
máy cơ quan công tác dân tộc cần đợc tiếp tục hoàn thiện, Chính phủ đã ban
hành Nghị định 51/2003/NĐ-CP và Nghị định 53/2004/NĐ-CP xác định cụ thể
chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Uỷ ban Dân tộc, tạo điều
kiện pháp lý để nâng cao chất lợng nội dung quản lý Nhà nớc và phơng
thức công tác dân tộc.
Các hoạt động nghiên cứu, biên soạn tài liệu và mở các lớp tập huấn, bồi
dỡng nghiệp vụ công tác dân tộc cho các địa phơng, ban ngành; tập huấn,
bồi dỡng, đào tạo tại Trung ơng và địa phơng về công tác dân tộc, chính
sách dân tộc cho cán bộ làm công tác dân tộc và các ngành hữu quan; nghiên
cứu các đề tài khoa học, các dự án điều tra cơ bản cung cấp luận cứ khoa học
cho việc nâng cao chất lợng quản lý Nhà nớc và hoạch định chính sách dân
tộc... ngày càng đợc quan tâm. Cạnh đó còn cho ra đời Báo Dân tộc và Phát
3


Báo cáo chính đề tài cấp Bộ 2004: Đổi mới nội dung quản lý Nhà nớc và phơng thức
công tác dân tộc

triển, Tạp chí Dân tộc, Bản tin Chơng trình 135 và từng bớc đa công nghệ
thông tin phục vụ công tác dân tộc...
Uỷ ban Dân tộc đã phối hợp với Hội Nông dân, Trung ơng Hội Liên

hiệp Phụ nữ Việt Nam, Bộ Văn hoá-Thông tin, Bộ T lệnh Bộ đội Biên phòng...
ký kết các văn bản vận động các dân tộc thiểu số tham gia trên các lĩnh vực
hoạt động vì sự phát triển của các dân tộc. Công tác tiếp đón đồng bào các dân
tộc về thủ đô, giải quyết các đơn th khiếu tố, thắc mắc của đồng bào; động
viên các dân tộc thiểu số cả nớc đoàn kết, tin tởng và phấn đấu thực hiện sự
nghiệp đổi mới đất nớc. Công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách
dân tộc tuy còn hạn chế, song bớc đầu đã mang lại hiệu quả quan trọng.
Để đạt đợc các mục tiêu cụ thể đến 2010 về kinh tế, giáo dục, y tế, văn
hoá, xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, củng cố hệ thống chính trị cơ sở,
giữ vững an ninh, quốc phòng mà Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp
hành Trung ơng Đảng khoá IX đã đề ra cần phải tiến hành đổi mới nội dung
quản lý Nhà nớc và phơng thức công tác dân tộc, phù hợp với đặc thù công
tác dân tộc. Việc nhận thức, đánh giá thành tựu và tồn tại trong quản lý Nhà
nớc và phơng thức công tác dân tộc là một yêu cầu tất yếu để tìm ra các nội
dung đổi mới.
Bên cạnh thành tựu trên, hoạt động quản lý Nhà nớc và phơng thức
công tác dân tộc còn có những tồn tại: Bộ máy cơ quan công tác dân tộc tuy có
đợc quan tâm hoàn thiện nhng trong nhiều năm vẫn cha đợc ổn định về cơ
cấu tổ chức, thay đổi chức năng nhiệm vụ quyền hạn làm ảnh hởng đến quá
trình quản lý Nhà nớc và phơng thức công tác dân tộc. Nội dung quản lý Nhà
nớc và phơng thức công tác dân tộc cha xác định cụ thể, rõ ràng nên không
tránh khỏi những lúng túng nhất định trong quá trình quản lý; công tác dân tộc
liên ngành, đa lĩnh vực liên quan toàn diện đến sự phát triển của đồng bào các
dân tộc. Khi xác định nội dung quản lý và thực hiện các nội dung đó trong thực
tiễn là vấn đề không giản đơn, không nh một ngành kinh tế, kỹ thuật cụ thể;
đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc về cơ bản cha đợc đào tạo về nghiệp vụ
công tác dân tộc, nhiều năm qua cha có Trờng đào tạo nghiệp vụ công tác
dân tộc, nên cán bộ vào việc ở cơ quan dân tộc Trung ơng và địa phơng
không rõ về tiêu chuẩn, đó là một trong những nguyên nhân cơ bản của sự hạn
chế, yếu kém trong công tác quản lý Nhà nớc và phơng thức công tác dân

tộc vừa qua.
Trong hoạt động quản lý cha có cơ chế rõ ràng, phân cấp quản lý về
công tác dân tộc giữa Uỷ ban Dân tộc với các bộ, ban, ngành và địa phơng.
Bộ máy tổ chức của cơ quan công tác dân tộc nhiều năm qua cha ổn định;
việc xác định đối tợng, nội dung, phơng thức công tác dân tộc cũng cha rõ
4


Báo cáo chính đề tài cấp Bộ 2004: Đổi mới nội dung quản lý Nhà nớc và phơng thức
công tác dân tộc

nét nên khó có thể đa ra một hệ thống cơ chế quản lý nội bộ hoặc phối hợp
với các cơ quan hữu quan một cách có hiệu quả cao.
Cơ chế tài chính cha tạo động lực cho tổ chức, cá nhân hoạt động công
tác dân tộc. Việc nhận thức công tác dân tộc trong các cơ quan Nhà nớc nói
chung, cơ quan quản lý tài chính nói riêng còn hạn chế nên việc đầu t và tạo
chính sách thu hút cán bộ cống hiến cho sự phát triển của các dân tộc thiểu số,
vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới...còn hạn chế. Bản thân
cơ quan công tác dân tộc cũng cha chủ trì, phối hợp với các cơ quan quản lý
tài chính xây dựng chính sách đặc thù.
Đối tợng quản lý, phơng thức công tác dân tộc đa ngành, đa lĩnh vực;
hoạt động nghiên cứu trong nhiều năm cha chú trọng đúng mức nên hạn chế
về mặt nhận thức về nội dung quản lý và phơng thức công tác. Tình hình đó
ảnh hởng không nhỏ đến hiệu quả quản lý Nhà nớc và phơng thức công tác
dân tộc.
Nội dung quản lý và phơng thức công tác dân tộc cha đổi mới kịp thời
đáp ứng yêu cầu của công tác dân tộc. Công tác dân tộc trong thời kỳ kinh tế
thị trờng, công nghiệp hoá...hỏi phải có sự đổi mới về nội dung quản lý và
phơng thức công tác. Nhng muốn đổi mới kịp với tình hình thì bộ máy, con
ngời, cơ chế, nội dung quản lý...phải rõ ràng, đồng bộ.

Vùng dân tộc miền núi hiện nay có khá nhiều chính sách, chơng trình,
dự án, dẫn đến tình trạng chồng chéo, khó quản lý. Thậm chí trên cùng một địa
bàn các chính sách với các xuất đầu t khác nhau, gây nên hiện tợng khó hiểu,
suy bì, thắc mắc trong đồng bào dân tộc. Nhiều chính sách, chơng trình, dự án
đầu t theo kiểu cấp phát, ban ơn, xin - cho gây tâm lý ỷ lại, không phát huy
đợc ý thức tự vơn lên của đồng bào. Sau khi kết thúc dự án đồng bào vẫn khó
khăn...
Những tồn tại trên là do các nguyên nhân sau đây: Nhận thức về công
tác dân tộc hiện nay cha đầy đủ, cha sâu sắc, toàn diện; đội ngũ cán bộ lãnh
đạo trong hệ thống chính trị và ngay cả các cán bộ làm công tác dân tộc đến
nay vẫn cha nhận thức rõ đợc công tác dân tộc là gì, nội dung gồm những
vấn đề gì, mối quan hệ với các công tác khác nh thế nào... dẫn đến hoạt động
không đi đúng trọng tâm, trong điểm, bỏ sót công việc hoặc chồng chéo, lấn
sân...Có những cá nhân cho rằng công tác dân tộc là của cơ quan làm công tác
dân tộc, dẫn đến phó mặc cho cơ quan này hoặc có những cơ quan, cá nhân cho
rằng mọi ngời đều làm công tác dân tộc. Vì vậy không cần cơ quan chuyên
trách làm công tác dân tộc, dẫn đến không sâu sát, thiếu thực tiễn...
5


Báo cáo chính đề tài cấp Bộ 2004: Đổi mới nội dung quản lý Nhà nớc và phơng thức
công tác dân tộc

Quan điểm về công tác dân tộc mặc dù đợc Đảng, Nhà nớc khẳng
định có vị trí chiến lợc trong sự nghiệp cách mạng, nhng khi triển khai hoạt
động trong thực tiễn về mặt quản lý Nhà nớc còn nhiều lúng túng từ trung
ơng đến địa phơng. Sự lúng túng thể hiện sự hạn chế và mặt nhận thức về
công tác dân tộc của các bộ, ban, ngành, địa phơng và do đặc điểm đa ngành,
đa lĩnh vực của công tác dân tộc chi phối. Sự lúng túng biểu hiện rõ nét ngay
trong việc đặt tên cho cơ quan công tác dân tộc, vị trí cơ quan công tác dân tộc,

chức năng nhiệm vụ quyền hạn, cơ cấu tổ chức có nhiều thay đổi và không mấy
ổn định. Có nhiệm vụ (nh định canh định c) khi thì thuộc cơ quan công tác
dân tộc, khi thì thuộc cơ quan khác v.v... Bộ máy cơ quan công tác dân tộc ở
địa phơng chậm đợc kiện toàn, tên gọi không thống nhất, chức năng nhiệm
vụ không rõ và thiếu đồng bộ trong cả nớc...
Việc hoạch định chính sách dân tộc bên cạnh thành tựu còn nhiều vấn
đề cha sâu sát, cha bao quát, cha đồng bộ, làm nảy sinh những vấn đề hạn
chế đến hiệu quả của chính sách. Nhiều chính sách trong quá trình thực hiện lại
nảy sinh những vấn đề mới, tác động và làm ảnh hởng đến mục tiêu chính
sách trớc (nh phân định 3 khu vực, cử tuyển...). Điều đó vừa thể hiện cái khó
của việc hoạch định chính sách dân tộc, vừa biểu hiện những hạn chế của quá
trình hoạch định chính sách. Chậm đổi mới nhận thức trong trong việc xây
dựng nội dung quản lý Nhà nớc và phơng thức công tác dân tộc trong điều
kiện chuyển sang nền kinh tế thị trờng, tình hình dân tộc trong nớc và quốc
tế có nhiều biến đổi. Đây là đòi hỏi khách quan nhng không mấy dễ dàng đối
với những ngời làm công tác dân tộc hiện nay. Có thể nói nội dung quản lý
Nhà nớc về công tác dân tộc đợc các Nghị định số 51/2003/NĐ-CP và Nghị
định số 53/2004/NĐ-CP đề ra nhng việc cụ thể hoá vào hoạt động thực tiễn là
một quá trình đòi hỏi sự đồng bộ với cơ cấu tổ chức và năng lực, trình độ của
đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc các cấp cũng nh các cấp chính quyền,
các ban ngành hữu quan. Cha xây dựng đợc đội ngũ cán bộ làm công tác dân
tộc ở Trung ơng và địa phơng, cán bộ ngời dân tộc thiểu số về số lợng và
chất lợng cha đáp ứng yêu cầu công tác dân tộc trong thời kỳ từ 2005-2010.
Đây là vấn đề vừa có ý nghĩa trớc mắt và lâu dài vừa có tính quyết định đến
chất lợng, hiệu quả nội dung quản lý Nhà nớc và phơng thức công tác dân
tộc. Cha coi trọng đúng mức tổng kết thực tiễn tình hình dân tộc, công tác dân
tộc kịp thời để nâng cao chất lợng quản lý và phơng thức công tác dân tộc.
Vừa qua tuy Cơ quan công tác dân tộc, cùng một số Bộ, ban ngành có tiến
hành tổng kết, sơ kết công tác dân tộc nhng cha ở tầm khái quát cao, đáp
ứng yêu cầu để đề xuất, kiến nghị các vấn đề nâng cao chất lợng quản lý Nhà

nớc và phơng thức công tác dân tộc trong giai đoạn mới.
6


Báo cáo chính đề tài cấp Bộ 2004: Đổi mới nội dung quản lý Nhà nớc và phơng thức
công tác dân tộc

Phơng thức công tác dân tộc chậm đợc đổi mới: Từ 1986 đến nay,
nhiều ngời cho rằng chính sách dân tộc, công tác dân tộc đồng nghĩa với thực
hiện các chơng trình, dự án, chính sách cụ thể và làm theo kiểu cấp phát nghĩ
hộ, làm hộ, nói hộ, không chú ý nắm tâm t, nguyện vọng của nhân dân, còn
ít sự tham gia của ngời dân trong xây dựng, thực hiện chính sách, vì vậy hiệu
quả không cao. Đội ngũ cán bộ ngày càng xa dân, ít gần dân, nhiều ngời
không hiểu đợc sâu sắc tính cách, tâm lý, nguyện vọng của nhân dân. Vì vậy
một bộ phận của hệ thống chính trị từ cấp cơ sở trở lên xa lạ với dân. Trong khi
các thế lực thù địch, tôn giáo lại có những biện pháp để gần dân, đợc một bộ
phận dân ủng hộ, tin theo...
Mục đích và phạm vi nghiên cứu: Cung cấp luận cứ khoa học về lý luận
và thực tiễn về đổi mới nội dung, phơng thức công tác dân tộc nhằm giúp cho
UBDT Trung ơng và Ban dân tộc các địa phơng nâng cao hiệu quả quản lý
Nhà nớc và phơng thức công tác dân tộc, thực hiện nhiệm vụ chủ yếu cấp
bách mà Nghị quyết hội nghị lần thứ 7 BCHTW Đảng khoá IX đã đề ra.
Đối tợng nghiên cứu: Các vấn đề lý luận, quan điểm về công tác dân
tộc, quản lý Nhà nớc về công tác dân tộc thời gian qua; các vấn đề nhận thức,
tổ chức và hoạt động thực tiễn về công tác dân tộc của cơ quan chủ quản
(UBDT ở Trung ơng và địa phơng) cùng một số ban ngành hữu quan đến nội
dung, phơng thức công tác dân tộc; bài học kinh nghiệm của một số nớc
trong khu vực; nhu cầu phát triển cùng vùng dân tộc thiểu số, yêu cầu của công
tác dân tộc... giai đoạn từ này đến 2010.
Tình hình nghiên cứu: Đổi mới nội dung quản lý Nhà nớc và phơng

thức công tác dân tộc phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới là
một trong nhiệm vụ quan trọng, chủ yếu và cấp bách mà Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ơng Đảng khoá IX về công tác dân tộc đã đề
ra. Công tác dân tộc từ khi Nhà nớc ta ra đời đến nay đã trải qua nhiều thời kỳ
với tính chất và nhiệm vụ khác nhau theo yêu cầu của từng thời kỳ cách mạng.
Nhng đến Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ơng Đảng
khoá IX về công tác dân tộc lần đầu tiên đã đề ra vấn đề đổi mới nội dung và
phơng thức công tác dân tộc hiện nay ở nớc ta.
Các công trình bàn về vấn đề quản lý Nhà nớc về công tác dân tộc cha
nhiều song lại càng hiếm hoi đối với các công trình bàn về đổi mới nội dung
quản lý Nhà nớc về công tác dân tộc. Cha có nhiều công trình bàn về vấn đề
đổi mới nội dung phơng thức công tác dân tộc. Vì bàn về vấn đề nội dung
quản lý Nhà nớc, phơng thức công tác dân tộc đã khó thì bàn về vấn đề đổi
mới lại càng khó hơn.
7


Báo cáo chính đề tài cấp Bộ 2004: Đổi mới nội dung quản lý Nhà nớc và phơng thức
công tác dân tộc

Bàn về vấn đề công tác dân tộc thời gian gần đây đáng chú ý là các công
trình: Vấn đề dân tộc và công tác dân tộc ở nớc ta (Tài liệu bồi dỡng cán bộ
về công tác dân tộc) của Uỷ ban Dân tộc và Miền núi (2001), Một số văn kiện
về chính sách dân tộc - miền núi của Đảng và Nhà nớc (1985), Một số văn
kiện về chính sách dân tộc-miền núi của Đảng và Nhà nớc (1978), Một số
văn kiện về chính sách dân tộc-miền núi của Đảng và Nhà nớc (1992), Uỷ
ban Dân tộc và Miền núi- Vụ pháp chế: Một số văn bản quy phạm pháp luật về
lĩnh vực công tác dân tộc và miền núi 1993-1999 (2000), Uỷ ban Dân tộc: Sổ
tay công tác dân tộc (2004), Lê Ngọc Thắng: Một số vấn đề dân tộc và phát
triển (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội- 2005); Lê Ngọc Thắng Chính sách dân

tộc của Đảng và Nhà nớc Việt nam (Giáo trình Đại học, Trờng Đại học Văn
hoá Hà Nội-2005)...
Công tác dân tộc thời gian qua đợc kết tụ ở việc ban hành và thực hiện
chính sách dân tộc. Một số công trình đã quan tâm đến vấn đề này nh: Thực
hiện tốt chính sách dân tộc, nhiệm vụ có tính chiến lợc của Đảng ta (Khổng
Diễn- Tạp chí Dân tộc học, 3-1990), Chính sách dân tộc trong chiến lợc đại
đoàn kết toàn dân của Đảng ta (Lê Ngọc Thắng - Tạp chí Cộng sản 5-2002),
Một số vấn đề về đời sống các dân tộc và chính sách dân tộc (Bế Viết ĐẳngTạp chí Dân tộc học, 3-1990), Chính sách dân tộc- Những vấn đề lý luận và
thực tiễn (Nhiều tác giả, Nxb Sự thật-1990), Vấn đề dân tộc và chính sách dân
tộc của Đảng và Nhà nớc ta (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh- Phân
viện Hà Nội -1995), Đổi mới nội dung quản lý Nhà nớc và phơng thức công
tác dân tộc (Viện Dân tộc, 2004)...
Ngoài ra còn có các công trình mang tính tổng kết công tác dân tộc và
nghiên cứu định hớng công tác dân tộc hiện nay. Đó là các công trình: 50
năm công tác dân tộc (1946-1996) của Uỷ ban Dân tộc và Miền núi (1997), 55
năm công tác dân tộc và miền núi (1946-2001) của Uỷ ban Dân tộc và Miền
núi (2001), Về công tác dân tộc trong 10 năm đối mới (Hoàng Đức Nghi-2002),
Vấn đề dân tộc và định hớng chính sách dân tộc trong thời kỳ công nghiệp
hoá (Viện nghiên cứu chính sách dân tộc và miền núi-2002); Các dân tộc thiểu
số Việt Nam thế kỷ XX (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội-2001); Chính sách và
pháp luật của Đảng, Nhà nớc về Dân tộc (Hội đồng Dân tộc của Quốc hội,
Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội-2000)...
Phơng pháp nghiên cứu : Đề tài triển khai các phơng pháp nghiên
cứu cơ bản sau :
- Thu thập thông tin tài liệu thứ cấp; các công trình lý luận, thực tiễn về
công tác dân tộc, về quản lý Nhà nớc...
8


Báo cáo chính đề tài cấp Bộ 2004: Đổi mới nội dung quản lý Nhà nớc và phơng thức

công tác dân tộc

- Tọa đàm trao đổi khoa học: Với các cuộc toạ đàm với cơ quan công tác
dân tộc địa phơng: Ban dân tộc tỉnh Thanh Hoá, phòng Dân tộc huyện Nh
Thanh tỉnh Thanh Hoá; Viện Dân tộc, Uỷ ban Dân tộc. Đặc biệt đề tài kế thừa
các kết quả toạ đàm của Uỷ ban Dân tộc với các Bộ, ban ngành trung ơng
trong việc xin ý kiến cho đề án : Đổi mới nội dung quản lý Nhà nớc và
phơng thức công tác dân tộc;
- Khảo sát thực tế, nghiên cứu điểm tại các cơ quan chức năng ở Trung
ơng và các địa phơng: Ban Dân tộc tỉnh Thanh Hoá, phòng dân tộc huyện
Nh Thanh.
- Kết hợp thông qua các phơng pháp cụ thể: Điền dã Dân tộc học, điều
tra Xã hội học (cán bộ làm công tác dân tộc cấp tỉnh, cán bộ quản lý liên
quan...);
- Phơng pháp hệ thống, thống kê, phân tích so sánh, đánh giá, dự
báo...trong xử lý thông tin và trình bày kết quả nghiên cứu của đề tài.
Đóng góp của đề tài: Lần đầu tiên bàn về đổi mới nội dung quản lý Nhà
nớc và phơng thức công tác dân tộc; cung cấp luận cứ khoa học và đề xuất
các nội dung, kiến nghị các giải pháp nhằm phục vụ cho hoạt động của Cơ
quan công tác dân tộc trong việc đổi mới nội dung, phơng thức công tác dân
tộc từ nay đến 2010 theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 của BCHTW
Đảng khoá IX về công tác dân tộc.

9


Báo cáo chính đề tài cấp Bộ 2004: Đổi mới nội dung quản lý Nhà nớc và phơng thức
công tác dân tộc

Phần một:


Một số vấn đề về cơ sở lý luận

1. Quan điểm của Đảng và Nhà nớc về vấn đề dân tộc,
công tác dân tộc:
Từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nớc Việt Nam dân chủ
cộng hoà (nay là Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam) đã nhận thức đúng vị
trí chiến lợc của vấn đề dân tộc và công tác dân tộc ở nớc ta. Quan điểm của
Đảng và Nhà nớc ta về vấn đề dân tộc đợc xây dựng trên cơ sở của học
thuyết Mác- Lênin và t tởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc; và đợc căn cứ
vào tình hình thực tiễn dân tộc ở nớc ta - một quốc gia gồm nhiều thành phần
tộc ngời cùng chung sống lâu đời với quá trình lịch sử, văn hoá giàu cá tính và
bản sắc riêng. Vấn đề dân tộc và công tác dân tộc là một trong những nội dung
quan trọng trong sự nghiệp cách mạng ở nớc ta. Nói đến cách mạng Việt Nam
(dù trong cách mạng dân tộc, dân chủ hay trong cách mạng xã hội chủ nghĩa và
xây dựng phát triển đất nớc hiện nay) không thể không đề cập đến vấn đề dân
tộc. Vấn đề dân tộc dù trên góc độ quốc gia hay tộc ngời cụ thể (thuộc cộng
đồng 54 tộc ngời) đều là nội dung chính yếu trong quá trình tiến hành sự
nghiệp cách mạng ở nớc ta.
Ngay từ khi thành lập, Đảng ta quán triệt sâu sắc tinh thần dân tộc của
Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc trong hoàn cảnh của một quốc gia
phơng Đông thuộc địa, nửa phong kiến. Các quan điểm về vấn đề dân tộc
đợc thể hiện trong các văn kiện quan trọng làm kim chỉ nam cho chơng trình
chỉ đạo và hành động của toàn Đảng, toàn dân. Hơn 75 năm qua, quan điểm
của Đảng và Nhà nớc ta về vấn đề dân tộc bao gồm một số nội dung cơ bản
sau:
Từ Đại hội lần thứ nhất đến nay, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc đều
ghi rõ công tác dân tộc có vị trí chiến lợc, xuyên suốt quá trình nhận thức và
giải quyết vấn đề dân tộc của Đảng và Nhà nớc ta. Thành tựu của cách mạng
Việt Nam trong đấu tranh giải phóng dân tộc và phát triển đất nớc đến hôm

nay là thể hiện sinh động thành tựu về quan điểm của Đảng và Nhà nớc ta trên
nhiều lĩnh vực trong đó có vấn đề dân tộc ...Năm 1975 với chiến thắng đế quốc
Mỹ xâm lợc và bè lũ tay sai, dân tộc Việt Nam ta bớc sang giai đoạn hoà
bình thống nhất, phát triển đất nớc. Trong bối cảnh và tình mới đó, tại Đại hội
IV của Đảng năm 1976 (Đại hội đợc tiến hành có thời gian lâu nhất sau Đại
10


Báo cáo chính đề tài cấp Bộ 2004: Đổi mới nội dung quản lý Nhà nớc và phơng thức
công tác dân tộc

hội III là 13 năm vì hoàn cảnh chiến tranh) Đảng ta một lần nữa khẳng định:
giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một nhiệm vụ có tính chiến lợc của
Cách mạng Việt Nam Đại hội IX của Đảng một lần nữa khẳng định : Vấn đề
dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn luôn có vị trí chiến lợc trong nghiệp cách
mạng.
T tởng, quan điểm nhất quán đó của Đảng ta có thể nhận thấy ngày
càng đợc củng cố vững chắc, nâng cao bởi đợc trải nghiệm trong thực tiễn,
tầm nhìn và tính đúng đắn của nó về chỉ đạo chiến lợc. Nghị quyết số 24/ NQTW của Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ơng Đảng khoá IX về công
tác dân tộc năm 2003 một lần nữa đã tiếp tục khẳng định: Vấn đề dân tộc và
đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lợc cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề
cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam. Từ đại hội I đến đại hội IX quan
điểm về vấn đề dân tộc của Đảng ta ngày càng đợc coi trọng nhấn mạnh bởi
tính phức tạp và nhạy cảm của vấn đề dân tộc trên thế giới và trong nớc đặt ra
ngày một cao hơn. Tính chiến lợc, cơ bản, lâu dài và cấp bách hiện nay
cũng nh tính chiến lợc trớc đây của vấn đề dân tộc đợc quy định bởi đòi
hỏi của tình hình thực tiễn khách quan của nội dung vấn đề dân tộc, công tác
dân tộc của cách mạng Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
Quan điểm của Đảng và Nhà nớc ta về vấn đề dân tộc trong suốt quá
trình lãnh đạo và quản lý đất nớc không phải là một nhận thức và chỉ đạo

cứng nhắc mà là một quá trình nhận thức khoa học khách quan, sáng tạo tơng
ứng với thời kỳ cách mạng cụ thể. Mỗi thời kỳ cách mạng, mục tiêu, yêu cầu,
nhiệm vụ cách mạng cụ thể đặt ra khác nhau là thể hiện các sách lợc cách
mạng trong việc thực hiên mục tiêu, nhiệm vụ chiến lợc đã đợc đề ra. Vấn đề
dân tộc và công tác dân tộc có đặc điểm riêng trong từng giai đoạn cách mạng.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ vấn đề dân tộc và công tác dân tộc gắn liền
với yêu cầu giải phóng đất nớc giành độc lập tự do và giải phóng quần chúng
lao động thoát khỏi ách nô lệ. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và
phát triển đất nớc, vấn đề dân tộc và công tác dân tộc gắn liền với yêu cầu
phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá, an ninh, quốc phòng, phát triển bền vững.
Quan điểm về việc giải quyết vấn đề dân tộc trong cách mạng dân tộc
dân chủ đợc tập trung vào giải quyết vấn đề dân tộc - quốc gia và vấn đề giai
cấp. Trong hoàn cảnh của một quốc gia thuộc địa nửa phong kiến vấn đề dân
tộc- quốc gia nổi lên nh mục tiêu số một, có ý nghĩa tác động và chi phối đến
vấn đề tộc ngời cụ thể (ethnie) và vấn đề giai cấp. Nếu không giải phóng dân
tộc khỏi sự thống trị của chế độ thực dân và phong kiến thì quyền lợi của các
tộc ngời anh em chung sống trên lãnh thổ Việt Nam từ ngàn đời cũng nh
quyền lợi của giai cấp nông dân, công nhân không thể có đợc. Luận cơng
11


Báo cáo chính đề tài cấp Bộ 2004: Đổi mới nội dung quản lý Nhà nớc và phơng thức
công tác dân tộc

chính trị thông qua Hội nghị Trung ơng tháng 10 năm 1930 của Đảng ta
đã nêu rõ: Xứ Đông Dơng hoàn toàn độc lập, thừa nhận quyền dân tộc tự
quyết. Quan điểm về vấn đề dân tộc đợc cụ thể hoá và thể hiện rõ hơn trong
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ nhất tháng 3 năm 1935: Đảng cộng sản thừa
nhận cho các dân tộc đợc quyền tự do hoàn toàn. Đảng chống chế độ thuộc
địa, chống hết các hình thức trực tiếp đem dân tộc này vào đàn áp, bóc lột dân

tộc khác. Cũng tại Hội nghị của Đảng họp ở Bắc Kỳ từ 13-29/3/1935, một lần
nữa quan điểm của Đảng ta trong việc giải quyết vấn đề dân tộc đợc thể hiện
cụ thể, rõ nét hơn: Ta chỉ có thù địch giai cấp chứ không có thù địch quốc gia
và dân tộc có đánh đổ đợc tụi đế quốc, phong kiến thì các dân tộc thiểu số
mới thoát khỏi vòng nô lệ.
Ngoài ra điều đáng quan tâm khác là Đảng ta không chỉ nhận thức sâu
sắc việc giải quyết vấn đề dân tộc- quốc gia trong mối quan hệ với vấn đề giai
cấp mà còn nhìn nhận đánh giá các dân tộc thiểu số với t cách là một lực
lợng lớn trong cuộc đấu tranh cách mạng phản đế và điền địa ở Đông
Dơng và là bộ phận của thế giới cách mạng. Trên tinh thần đó, muốn cho
việc giải quyết vấn đề dân tộc có hiệu quả Hội nghị Ban chấp hành Trung ơng
tháng 11-1939 thấy cần thiết phải tổ chức Ban chuyên môn về vấn đề dân tộc
thiểu số để chăm lo cho công tác dân tộc với nhiều nội dung mới nẩy sinh.
Thời kỳ cách mạng 1945-1954, dới sự lãnh đạo của Chính phủ mới
kháng chiến chống chế độ thực dân, phong kiến kết thúc bằng chiến thắng lịch
sử Điện Biên phủ vĩ đại thì công tác dân tộc, vấn đề dân tộc trong giai đoạn này
là tiếp tục thực hiện các mục tiêu trong giai đoạn trớc và đợc cụ thể hoá đáp
ứng yêu cầu của tình hình nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Tháng 2 năm 1951,
Đảng ta đã tiến hành Đại hội lần thứ II và sau đó Bộ Chính trị Ban chấp hành
Trung ơng Đảng đã có nghị quyết về Chính sách dân tộc thiểu số của Đảng.
Với nghị quyết đó, các quan điểm công tác dân tộc đã đợc trình bày một cách
toàn diện trên các lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, văn hoá-xã hội, quân sự . Đây là
thời kỳ chúng ta mở nhiều chiến dịch đánh địch ở vùng đồng bào dân tộc thiểu
số và miền núi phía Bắc nh Việt Bắc (1947), Biên giới (1950), Hoà Bình
(1950-1951),Tây Bắc (1953-1954) và từng bớc thu đợc những thắng lợi ngày
một to lớn đi đến kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp chín năm
bằng chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Tất cả đều nói lên quan điểm đúng đắn
của Đảng và Nhà nớc ta trong việc giải quyết vấn đề dân tộc trong quá trình
thực hiện mục tiêu cao cả của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Thời kỳ 1954-1975, quan điểm về vấn đề dân tộc và công tác dân tộc

đợc đặt ra cho phù hợp với nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ cách mạng to lớn ở
hai miền Bắc, Nam. ở miền Bắc, vấn đề dân tộc và công tác dân tộc đặt ra lúc
12


Báo cáo chính đề tài cấp Bộ 2004: Đổi mới nội dung quản lý Nhà nớc và phơng thức
công tác dân tộc

này gắn liền với với công cuộc cải cách dân chủ, xây dựng chủ nghĩa xã hội
vùng dân tộc thiểu số. ở miền Nam nó đợc gắn liền với cuộc vận động, đoàn
kết các dân tộc tập trung sức ngời, sức của góp phần vào sự nghiệp đấu tranh
chống đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất đất nớc.
Trong thời kỳ trớc đổi mới từ 1975-1985, quan điểm về vấn đề dân tộc,
công tác dân tộc đợc Nghị quyết Đại hội IV của Đảng (1976) một lần nữa
khẳng định, bổ sung, cụ thể hoá trong bối cảnh, tình hình mới: giải quyết
đúng đắn vấn đề dân tộc là một nhiệm vụ có tính chiến lợc của Cách mạng
Việt Nam, phải tăng cờng khối đoàn kết không gì lay chuyển nổi giữa các dân
tộc trong cả nớc, phát huy tinh thần cách mạng và năng lực sáng tạo của các
dân tộc ít ngời trong sự nghiệp xây dựng tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nớc là thực hiện triệt để quyền bình
đẳng về mọi mặt của các dân tộc, tạo những điều kiện cần thiết để xóa bỏ tận
gốc sự chênh lệch về trình độ kinh tế và văn hoá giữa dân tộc ít ngời và dân
tộc đông ngời, đa miền núi tiến kịp miền xuôi, vùng cao tiến kịp vùng thấp,
làm cho tất cả các dân tộc đều có cuộc sống ấm no, văn minh, hạnh phúc, đoàn
kết giúp nhau tiến bộ, cùng làm chủ Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa.
Thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay, quan điểm về vấn đề dân tộc và công
tác dân tộc của Đảng và Nhà nớc ta bớc sang một giai đoạn mới với tính chất
và yêu cầu nội dung khác quan điểm cụ thể về vấn đề dân tộc trong cách mạng
giải phóng dân tộc. Khi hệ thống Xã hội Chủ nghĩa trên thế giới sụp đổ, các
vấn đề lý luận và thực tiễn công tác dân tộc ở Liên Xô và một số nớc trong hệ

thống Xã hội Chủ nghĩa có những biến động, yêu cầu xây dựng đất nớc trong
bối cảnh tình hình mới đặt ra nhiều vấn đề mới. Sự nghiệp xây dựng, phát triển
đất nớc nói chung và trong giải quyết vấn đề dân tộc nói riêng đã đặt ra cho
công tác dân tộc phải đợc trong tình hình, bối cảnh mới đó để xem xét.
Quan điểm về vấn đề dân tộc và công tác dân tộc trong thời kỳ này đợc
tập trung vào nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu
số và miền núi... Vấn đề phát triển kinh tế-xã hội đợc coi trọng trong công tác
dân tộc là một trong những yếu tố tiên quyết có ý nghĩa trớc mắt và lâu dài, là
cơ sở để thực hiện các mục tiêu và nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tơng trợ
giúp nhau cùng phát triển. Chỉ có trên cơ sở đời sống của đồng bào các dân tộc
đợc nâng cao thì mới có thể giải quyết có hiệu quả vấn đề dân tộc, công tác
dân tộc trong tình hình mới; mới có cơ sở để tăng cờng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, phát triển xã hội, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, chống
lại các âm mu thù địch chia rẽ các dân tộc, củng cố an ninh quốc phòng, bảo
vệ môi trờng sinh thái và phát triển bền vững. Các luận điểm đó đợc cụ thể
13


Báo cáo chính đề tài cấp Bộ 2004: Đổi mới nội dung quản lý Nhà nớc và phơng thức
công tác dân tộc

hoá trong các Nghị quyết, Chỉ thị, Thông tri của Đảng, các Nghị định, Quyết
định, Chỉ thị của Chính phủ từ năm 1989 đến nay.
Các văn kiện của Đảng và Nhà nớc về công tác dân tộc sau khi ban
hành đợc quán triệt sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhằm nâng
cao nhận thức về tình hình dân tộc, yêu cầu, nhiệm vụ công tác dân tộc trong
từng giai đoạn cách mạng cụ thể. Việc giải quyết vấn đề dân tộc không chỉ là
vấn đề mang tính chính trị-xã hội sâu sắc mà còn mang tính liên ngành, tính
toàn diện tác động đến nhiều cấp, nhiều ngành trong hệ thống tổ chức Nhà
nớc, hệ thống chính trị xã hội các cấp từ Trung ơng đến địa phơng. Thành

quả về công tác dân tộc, chính sách dân tộc thời gian qua chính là thể hiện
quan điểm đúng đắn đó của Đảng và Nhà nớc ta.
Quan điểm của Đảng và Nhà nớc ta vấn đề dân tộc và công tác dân tộc
là thể hiện sự nhận thức và vận dụng một cách sáng tạo các quan điểm của chủ
nghĩa Mác- Lênin và t tởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc vào hoàn cảnh
cụ thể của nớc ta. Các quan điểm, t tởng đó trên cơ sở Cơng lĩnh, Nghị
quyết của Đảng qua các kỳ đại hội; qua Hiến pháp, pháp luật, các Nghị định
của Chính phủ cụ thể hoá thành các chính sách, chủ trơng sát hợp với yêu cầu
của từng thời kỳ cách mạng trong việc giải quyết vấn đề dân tộc, công tác dân
tộc. Thành tựu của công tác dân tộc 75 năm qua dới sự lãnh đạo của Đảng và
60 năm dới chế độ Nhà nớc mới là bằng chứng sinh động của quan điểm
đúng đắn trong việc giải quyết vấn đề dân tộc trong hoàn cảnh của một quốc
gia gồm nhiều thành phần tộc ngời trong cách mạng dân tộc, dân chủ và xây
dựng đất nớc.
Cơ sở trong việc xây dựng chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nớc ta
là hệ thống các vấn đề thể hiện sự nhận thức, quan điểm, chủ trơng về vấn đề
dân tộc và việc giải quyết vấn đề dân tộc; là những luận cứ khoa học, luận cứ lý
luận và thực tiễn, trên cơ sở đó để hoạch định chính sách dân tộc mang tính
chiến lợc và sách lợc phù hợp với yêu cầu, đặc điểm tình hình, nhiệm vụ
trong từng giai đoạn cách mạng. Trên tinh thần đó khi nói đến cơ sở trong việc
xây dựng chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nớc chúng ta cần quan tâm đến
các vấn đề sau :
Về nhận thức: Dân tộc và quan hệ dân tộc là vấn đề lớn của lịch sử
xã hội loài ngời và của các quốc gia đa thành phần tộc ngời. Vấn đề dân tộc
và chính sách dân tộc là một bộ hữu cơ, tất yếu trong chiến lợc phát triển của
quốc gia. Sự thành bại của việc giải quyết vấn đề dân tộc phụ thuộc vào việc

14



Báo cáo chính đề tài cấp Bộ 2004: Đổi mới nội dung quản lý Nhà nớc và phơng thức
công tác dân tộc

nhận thức về vị trí, vai trò của vấn đề dân tộc của giai cấp cầm quyền trong
chiến lợc tồn tại và phát triển của quốc gia (1).
Vấn đề quốc gia đa dân tộc (hay nhiều thành phần tộc ngời) là sản
phẩm khách quan của lịch sử. Khi một giai cấp cụ thể lên thành lập quốc giadân tộc (nation), cầm quyền, lãnh đạo quốc gia thì không thể không quan tâm
đến nội dung dân tộc, giải quyết mối quan hệ giữa các tộc ngời và hoạch định
chính sách phát triển đối với các tộc ngời đó. Mối quan hệ giữa các tộc ngời
trong một quốc gia đa dân tộc là vấn đề khá phức tạp trên nhiều bình diện lịch
sử và hiện đại, kinh tế, văn hoá, xã hội. Sức mạnh của một quốc gia, sự phát
triển, tồn vong phụ thuộc vào giai cấp cầm quyền có tập hợp đợc sức mạnh
của các tộc ngời đó hay không để hớng vào công cuộc đại sự trong tiến
trình dựng nớc, giữ nớc và xây dựng phát triển đất nớc.
Ngay từ khi mới thành lập Đảng và Nhà nớc đã nhận thức sâu sắc vấn
đề dân tộc - quốc gia gắn chặt với với vấn đề giai cấp và vấn đề tộc ngời (các
thành phần dân tộc của quốc gia); gắn vấn đề dân tộc với vấn đề độc lập quốc
gia và lấy lợi ích, sự phát triển hớng tới ấm no hạnh phúc của nhân dân lao
động thuộc các dân tộc đa số và thiểu số làm mục tiêu của các cuộc cách mạng
xã hội từ 1930 đến nay. Thực tiễn cách mạng 75 năm qua của Đảng và 60 năm
qua của Nhà nớc ta là bằng chứng sinh động của việc nhận thức và giải quyết
vấn đề dân tộc trong điều kiện của một quốc gia nhiều thành phần tộc ngời.
Vấn đề dân tộc giữa các quốc gia cũng là sản phẩm khách quan của lịch
sử phát triển của nhân loại trên hai bình diện quốc gia và tộc ngời. Mâu thuẫn
dân tộc là nguyên nhân dẫn đến xung đột dân tộc, chủ yếu là cuộc đấu tranh
của các dân tộc chống lại sự nô dịch, thống trị của giai cấp phong kiến, của chủ
nghĩa thực dân, đế quốc; chống lại chính sách dân tộc, chủ nghĩa dân tộc lớn,
kỳ thị, chia rẽ các dân tộc của giai cấp t sản. Khi giai cấp vô sản cầm quyền
với chính sách dân tộc đúng đắn theo nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc,
các dân tộc có quyền dân tộc tự quyết, đoàn kết công nhân các dân tộc đã tạo

nên điều kiện giải quyết cơ bản vấn đề dân tộc. Vấn đề dân tộc ngoài quốc gia
còn biểu hiện ở nội dung có một hoặc một số tộc ngời sinh sống không chỉ
(1)

Quá trình hình thành các dân tộc trên thế giới cũng nh ở nớc ta là quá trình phát triển
của lịch sử, của các mối quan hệ tộc ngời về chính trị, kinh tế, văn hoá. Trong xã hội công
xã nguyên thuỷ, do trình độ sản xuất thấp, các cộng đồng sống biệt lập nhau, quan hệ dân
tộc cha nẩy sinh những vấn đề bức xúc về quyền lợi tồn tại và phát triển nên vấn đề dân
tộc và chính sách dân tộc cha đặt ra. Từ khi xã hội loài ngời hình thành giai cấp và Nhà
nớc vấn đề giai cấp và dân tộc ngày càng nẩy sinh những vấn đề phức tạp, gay gắt, đôi khi
một mất một còn. Quan hệ dân tộc và chính sách dân tộc ngày càng phát triển ở những mức
độ, cấp độ và diễn biến trên nhiều bình diện khác nhau.

15


Báo cáo chính đề tài cấp Bộ 2004: Đổi mới nội dung quản lý Nhà nớc và phơng thức
công tác dân tộc

trong một quốc gia mà ở nhiều quốc gia trong một hoặc nhiều châu lục trên thế
giới (1).
Đảng và Nhà nớc Việt Nam sau khi ra đời đến nay đã luôn coi trọng và
giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc quốc gia. Giải quyết tốt vấn đề dân tộc
quốc gia (nation) giữa Việt Nam và các quốc gia khác trong lịch sử và trong
thời đại Hồ Chí Minh là hệ quả của các quan điểm đúng đắn trong việc giải
quyết mối quan hệ dân tộc trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tơng
trợ. Trong nội bộ quốc gia và với các quốc gia khác đó là việc giải quyết vấn đề
dân tộc, chính sách dân tộc trên cơ sở kiên trì phát huy truyền thống độc lập
dân tộc, và không có gì quý hơn độc lập tự do. Chính điều đó đã tạo nên sức
mạnh vật chất và tinh thần vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong lịch sử và thời

hiện đại, làm nên kỳ tích của dân tộc trong việc đánh thắng nhiều thế lực ngoại
xâm hùng mạnh phơng Bắc, 2 đế quốc to là Pháp và Mỹ, bảo vệ độc lập dân
tộc, chủ quyền quốc gia.
Từ khi ra đời đến nay Đảng và Nhà nớc luôn căn cứ trên yêu cầu của
vấn đề dân tộc trong từng giai đoạn cách mạng để hoạch định chính sách dân
tộc, từng bớc thực hiện và đạt đợc những thành tựu cơ bản trong việc giải
quyết vấn đề dân tộc ở nớc ta. Đó là quan điểm nhận thức đúng, khách quan
và khoa học.
Quan điểm cơ bản: Đảng và Nhà nớc ta trong quá trình hoạch định
chính sách dân tộc đã căn cứ trên một hệ thống các quan điểm t tởng cơ bản
về vấn đề dân tộc và yêu cầu của chính sách dân tộc với các nội dung sau đây :
- Giải quyết vấn đề dân tộc ở nớc ta là giải phóng con ngời thoát khỏi
nghèo nàn, lạc hậu; thực hiện dân giàu nớc mạnh xã hội công bằng dân chủ
văn minh; thực hiện dân chủ, tự do cho các dân tộc; phát huy truyền thống
đoàn kết xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc.
- Thực hiện chính sách dân tộc là nghiên cứu, thấm nhuần và vận dụng
chủ nghĩa Mác-Lênin và t tởng Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh cụ thể, nhiệm
vụ của cách mạng Việt Nam trong từng thời kỳ sao cho phù hợp nh: Nắm thực
trạng tình hình dân tộc từng vùng, từng địa phơng; nắm tâm t nguyện vọng
(1)

Đó là các trờng hợp nhiều tộc ngời sinh sống thành cộng đồng lớn nhỏ trong phạm vi
nhiều quốc gia nh ngời Thái ở Thái Lan, Trung Quốc, Việt Nam; ngời Hmông ở Trung
Quốc, Thái Lan, Việt Nam..; ngời Dao ở Việt Nam, Trung Quốc, Mỹ..; ngời Hoa, ngời
Việt ở nhiều nớc trên thế giới; ngời châu Âu tại nhiều nớc châu Mỹ, châu Đại dơng. Đó
là sản phẩm của lịch sử, tạo nên diện mạo và bức tranh tộc ngời ngày một đa dạng trên thế
giới mà các quốc gia có các khối cộng đồng ngời đó không thể không quan tâm trong quốc
sách của mình.

16



Báo cáo chính đề tài cấp Bộ 2004: Đổi mới nội dung quản lý Nhà nớc và phơng thức
công tác dân tộc

của đồng bào các dân tộc; hiểu biết về phong tục tập quán, điều kiện môi
trờng tự nhiên, xã hội của đồng bào các dân tộc sinh sống; đề xuất, thực hiện,
kiểm tra, điều chỉnh, bổ sung chính sách dân tộc; tổ chức bộ máy làm công tác
dân tộc từ Trung ơng đến địa phơng sao cho hiệu quả.
- Thực hiện chính sách dân tộc là quán triệt và thực hiện các Nghị quyết
của Đảng, Hiến pháp của Nhà nớc, các chơng trình của Chính phủ vì sự phát
triển của đồng bào các dân tộc.
- Chính sách dân tộc ở nớc ta hiện nay chủ yếu là ban hành và thực hiện
chính sách phát triển kinh tế, chính sách xã hội kết hợp với an ninh quốc phòng.
Để thực hiện chính sách dân tộc theo nội dung trên cần quán triệt quan điểm
phơng pháp luận trong một quy trình: nắm Thực trạng để thấy đợc -> Nhu
cầu, và từ đó rút ra đợc -> Bản chất, yêu cầu của vấn đề, để hoạch định ->
Nội dung chính sách dân tộc và vai trò chi phối của chính sách dân tộc, đồng
thời cũng thấy đợc -> Tính phức tạp, lâu dài của chính sách dân tộc.
- Nghiên cứu, chỉ đạo thực hiện chính sách dân tộc ở Việt Nam là căn cứ
vào đặc điểm lịch sử, kinh tế-xã hội, văn hoá của các dân tộc; vào trình độ phát
triển của các dân tộc và của từng vùng đồng bào dân tộc sinh sống :
+ 54 dân tộc anh em ở nớc ta có quá trình gắn bó lâu đời trong sự
nghiệp dựng nớc và giữ nớc. Xuất phát từ hoàn cảnh xã hội, điều kiên kiện
kinh tế và nhu cầu chống ngoại xâm hình thành sớm trong lịch sử dân tộc, các
dân tộc ở nớc ta sớm đoàn kết, chung lng đấu cật tạo dựng non sông , đấu
tranh giữ gìn nền độc lập dân tộc. Từ khi có Đảng, truyền thống yêu nớc đó
đợc tập hợp phát huy tạo thành sức mạnh trong thời đại mới tiếp tục làm vẻ
vang truyền thống đoàn kết, yêu nớc lâu đời của các dân tộc nớc ta.
+ Các dân tộc Việt Nam sống xen kẽ nhau. Hình thái c trú xen kẽ là

một đặc điểm nổi trội trong lịch sử cũng nh hiện tại trong đời sống của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam. Trong bối cảnh phát triển mới của đất nớc, hình
thái c trú xen kẽ ngày càng phát triển giữa các dân tộc thiểu số với thiểu số,
thiểu số với đa số. Đó là xu thế khách quan tạo nên môi trờng cho sự giao lu
văn hoá, hoà hợp và hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc nhằm tăng cờng sự
hiểu biết lẫn nhau, phát triển kinh tế và đoàn kết dân tộc. Tuy nhiên nếu không
chú ý đúng mức đến sự bình đẳng, tơng trợ, đến lợi ích dân tộc thì chính sự c
trú xen kẽ trên cũng là nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn dân tộc.
+ Các dân tộc ở nớc ta có trình độ phát triển không đồng đều. Đó là
một thực trạng khách quan do lịch sử để lại. Sự không đồng đều trớc hết là về
dân số. Dân số là cộng đồng dân c về văn hoá, nó không chỉ là số lợng dân
c mà còn là môi trờng để cho các yếu tố văn hoá tồn tại mạnh mẽ hay bị
17


Báo cáo chính đề tài cấp Bộ 2004: Đổi mới nội dung quản lý Nhà nớc và phơng thức
công tác dân tộc

nguy cơ đồng hoá tự nhiên. Có tộc ngời hàng chục triệu, hàng triệu; có tộc
ngời hàng chục vạn, hàng vạn; nhng cũng có tộc ngời hàng ngàn, hàng trăm
ngời. Trình độ phát triển kinh tế-xã hội của các tộc ngời cũng rất khác nhau.
+ Mỗi dân tộc ở nớc ta có bản sắc văn hoá riêng tạo nên tính đa dạng
trong tính thống nhất của văn hoá quốc gia Việt Nam. Sự đa dạng về bản sắc
văn hoá cũng là một sản phẩm của lịch sử phát triển của các cộng đồng ngời ở
nớc ta. Bản sắc văn hoá của các dân tộc ở nớc ta biểu hiện qua hệ thống các
giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể (nh kiến trúc, trang phục, đồ dùng sinh
hoạt, công cụ sản xuất, tôn giáo, tín ngỡng, lễ hội, tâm lý, tình cảm, phong tục
tập quán, văn học nghệ thuật). Trong quá trình phát triển của quốc gia, các yếu
tố văn hoá đa dạng đó của các tộc ngời cũng đã tạo nên tính thống nhất của
văn hoá quốc gia (nh về ngôn ngữ, chữ viết, lối sống mới, ý thức quốc gia,

luật pháp, quản lý hành chính).
- Chính sách dân tộc phải xuất phát từ yêu cầu chung và yêu cầu cụ thể
của cách Việt Nam trong từng thời kỳ. Bản chất chính sách dân tộc của Đảng
và Nhà nớc đề ra trong từng giai đoạn cách mạng là nhất quán: vì sự phát triển
toàn diện của dồng bào các dân tộc để hoà nhập vào sự phát triển chung của
quốc gia, rút ngắn khoảng cách phát triển giữa dân tộc thiểu số và đa số. Tuy
nhiên nhiệm vụ, yêu cầu chính sách dân tộc trong từng thời kỳ cách mạng
không hoàn toàn giống nhau. Đó là yêu cầu của thực tiễn cách mạng song đồng
thời cũng là hành động của Đảng và Nhà nớc ta về chính sách dân tộc trong
75 năm qua để có thành tựu nh ngày hôm nay.
Có thể nhận thấy vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc một lần nữa đợc
trình bày một cách khái quát và tơng đối cụ thể trong văn kiện Đại hội, đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta: Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân
tộc luôn luôn có vị trí chiến lợc trong sự nghiệp cách mạng. Thực hiện tốt
chính sách dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tơng trợ giúp nhau cùng phát triển;
xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, phát triển sản xuất hàng hoá, chăm lo
đời sống vật chất và tinh thần, xoá đói, giảm nghèo, mở mang dân trí, giữ gìn,
làm giàu và phát huy bản sắc văn hoá và truyền thống thống tốt đẹp của các
dân tộc; thực hiện công bằng giữa các dân tộc, giữa miền núi và miền xuôi,
đặc biệt quan tâm vùng đặc biệt khó khăn, vùng trớc đây là căn cứ cách mạng
và kháng chiến. Tích cực thực hiện chính sách u tiên trong việc đào tạo, bồi
dỡng cán bộ dân tộc thiểu số. Động viên, phát huy vai trò của ngời tiêu biểu,
có uy tín trong dân tộc và ở địa phơng. Chống kỳ thị chia rẽ dân tộc; chống t

18


Báo cáo chính đề tài cấp Bộ 2004: Đổi mới nội dung quản lý Nhà nớc và phơng thức
công tác dân tộc


tởng dân tộc lớn , dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan; khắc phục t tởng tự ti,
mặc cảm dân tộc.(1)
Quan điểm, t tởng chỉ đạo về vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc trên
đây của Đảng ta một lần nữa khẳng định và thể hiện tính nhất quán trong việc
nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trớc đây và trong bối cảnh, tình hình
mới ở nớc ta.
- Các nguyên tắc cơ bản: Trên cơ sở quán triệt cơng lĩnh về dân tộc của
chủ nghĩa Mác - Lênin, ngay sau khi ra đời Đảng ta đã xây dựng những nguyên
tắc cơ bản cho vấn đề dân tộc, đó là: Bình đẳng giữa các dân tộc, Đoàn kết
giữa các dân tộc, Tơng trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc. Các nguyên tắc
cơ bản là những cơ sở quan trọng, là định hớng xuyên suốt trong mọi thời kỳ
cách mạng để hoạch định chính sách dân tộc. Chính sách dân tộc trong thực
tiễn cách mạng nớc ta trong suốt thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI rất đa dạng và
phong phú, phù hợp với tính chất và yêu cầu của từng thời kỳ. Các nguyên tắc
cơ bản đợc quán triệt và xuyên suốt tạo nên tính ổn định và góp phần làm nên
thành tựu vĩ đại của nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh chống ngoại xâm
giành lại hoà bình, thống nhất đất nớc và đang từng bớc thu đợc những
thành quả quan trọng trên con đờng đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Bình đẳng giữa các dân tộc: Bình đẳng giữa các dân tộc là một thái độ
khách quan, thái độ chính trị đúng đắn của giai cấp cầm quyền ở một quốc gia
đa dân tộc, trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với các dân tộc. Đây là
luận điểm quan trọng về dân tộc của học thuyết mácxít- lêninnít đợc Đảng ta
quán triệt và vận dụng trong việc giải quyết vấn đề dân tộc. Bình đẳng về dân
tộc là thực hiện quyền ngang nhau của mọi dân tộc không phân biệt đa số hay
thiểu số; da trắng hay da vàng, da đen; trình độ phát triển cao hay thấp. Bình
đẳng về dân tộc là thực hiện quyền ngang nhau của mọi thành phần dân tộc về
các lĩnh vực, các mặt của đời sống xã hội (tự quyết, chính trị, kinh tế, xã hội,
văn hoá) thông qua các hình thức pháp lý (1).
(1)


- Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX , Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội - 2001, tr 127-128.
(1`)
- Bình đẳng còn là thực hiện nhân quyền, quyền sống mu cầu hạnh phúc nh nhau của
loài ngời không kể là dân tộc phát triển hay chậm phát triển, không kể của kẻ đi thống trị
hay các dân tộc bị nô dịch. Trong yêu sách 8 điểm gửi Hội nghị Véc-xay năm 1919, Nguyễn
ái Quốc đã yêu cầu đảm bảo quyền bình đẳng cho ngời bản xứ. Trong Tuyên ngôn độc lập
năm 1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn Tuyên ngôn độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn
dân quyền và nhân quyền của Pháp : Tất cả mọi ngời đều sinh ra có quyền bình đẳng, đó là
quyền sống, quyền tự do, quyền mu cầu hạnh phúc. Có thể nhận thấy t tởng , quan điểm
bình đẳng của Hồ Chí Minh có rất sớm và sau khi bắt gặp Luận cơng về dân tộc của Lênin
nó lại càng khẳng định và đặt nền tảng cho Đảng ta trong vận dụng nguyên tắc này trong
chính sách nói chung và chính sách dân tộc nói riêng.

19


Báo cáo chính đề tài cấp Bộ 2004: Đổi mới nội dung quản lý Nhà nớc và phơng thức
công tác dân tộc

- Đoàn kết các dân tộc: Đoàn kết các dân tộc là là sự đoàn kết giữa
những ngời lao động thuộc các thành phần tộc ngời khác nhau trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, vì sự phát triển của con ngời và của các
tộc ngời. Đoàn kết là nguyên tắc quan trọng trong việc hoạch định và thực
hiện chính sách dân tộc ở nớc ta. Dân tộc ta trong lịch sử vốn có truyền thống
yêu nớc, đấu tranh chống các thế lực ngoại xâm bảo vệ nền độc lập dân tộc và
đoàn kết trong lao động xây dựng đất nớc. Đoàn kết dới sự lãnh đạo của
Đảng và Nhà nớc ta là phát huy truyền thống yêu nớc của dân tộc trong thời
đại mới. Đoàn kết các dân tộc là nguyên tắc ngay từ đầu đợc Đảng và Nhà
nớc ta coi trọng nh một tài sản vô giá của quốc gia và đợc vận dụng một

cách sáng tạo để tập hợp lực lợng, nhân tài vật lực của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam; tạo nên sức mạnh vật chất rất to lớn đánh thắng các thế lực ngoại
xâm hùng mạnh của thời đại và đang tiến hành công cuộc đổi mới, công nghiệp
hoá hiện đại hoá với những thành công quan trọng bớc đầu.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở đồng bào, chiến sĩ, cán bộ, đảng
viên phải nêu cao tinh thần đoàn kết mọi nơi mọi lúc trong quá trình thực hiện
các nhiệm vụ chính trị: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành
công, đại thành công. Đoàn kết với vị trí, vai trò lịch sử và hiện tại của nó là
nguyên tắc quan trọng trong quá trình hoạch định và thực hiện chính sách dân
tộc. Có thể nói điều đó cũng chính là yếu tố tạo nên tính đặc thù của chính sách
dân tộc ở nớc ta thời gian qua, hiện nay cũng nh về sau.
- Tơng trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc: Nguyên tắc này ra đời
trong điều kiện các thành phần tộc ngời ở nớc ta vừa nhiều, vừa phát triển rất
không đồng đều trên nhiều bình diện, với nhiều nguyên nhân chủ quan và
khách quan khác nhau. Từ những lý do lịch sử, các thành tộc ngời ở nớc ta
có những trình độ phát triển kinh tế-xã hội khác nhau, c trú sinh sống có nơi
thuận lợi có nơi lại rất nhiều khó khăn cho phát triển kinh tế (trồng trọt, chăn
nuôi), phát triển hạ tầng. Mặt khác, đặc điểm lịch sử nên ở nớc ta tiến trình
dựng nớc luôn đi đôi với giữ nớc. Sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc
để xây dựng, phát triển đất nớc không chỉ hao ngời, tốn của mà còn là
nguyên nhân thờng xuyên và quan trọng kéo chậm nhịp độ phát triển của
quốc gia và của các tộc ngời.
Tơng trợ giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển trong bối cảnh đó không chỉ
là nguyên tắc mà còn là quy luật tất yếu trong chính sách, chiến lợc phát triển
của dân tộc Việt Nam và của các thành phần tộc ngời trong quốc gia. Chính
sách dân tộc nếu không quán triệt nguyên tắc tơng trợ, không thấy đợc tình
hình phát triển rất không đồng đều, không thấy đợc các nguyên nhân khách
quan và chủ quan trong lịch sử và hiện tại chi phối lối sống, phong tục tập quán,
20



Báo cáo chính đề tài cấp Bộ 2004: Đổi mới nội dung quản lý Nhà nớc và phơng thức
công tác dân tộc

chi phối dân trí; không thấy đợc cái tạo nên mức sống thấp, nghèo nàn của
các tộc ngời thì sẽ hạn chế về nội dung và kết quả trong thực tiễn.
Tơng trợ cũng là thể hiện bản chất giai cấp và phát huy truyền thống tốt
đẹp của dân tộc của Nhà nớc vô sản của dân, do dân và vì dân của Đảng và
Nhà nớc ta. Tơng trợ là biện pháp cụ thể để thực hiện quyền phát triển của
các tộc ngời trong một quốc gia, khắc phục t tởng dân tộc lớn, sự chia rẽ
dân tộc, lợi dụng sự chậm phát triển để vơ vét tài nguyên thiên nhiên và bóc lột
sức lao động rẻ mạt của các dân tộc chậm phát triển của giai cấp t sản. Chính
sách dân tộc trong mọi thời kỳ tuy có khác nhau về nội dung cụ thể nhng bản
chất của nó là thực hiện một trong những nguyên tắc tơng trợ, đồng bào các
dân tộc giúp đỡ lẫn nhau: đa số giúp đỡ thiểu số, thiểu số giúp đỡ thiểu số,
thiểu số giúp đỡ đa số cùng thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tếxã hội, văn hoá giáo dục, đào tạo cán bộ, đảm bảo an ninh quốc phòng các
vùng miền của tổ quốc.
Các nguyên tắc: Bình đẳng, đoàn kết, tơng trợ giúp nhau cùng phát
triển trong chính sách dân tộc là thể hiện bản chất của chế độ, của giai cấp cầm
quyền vì sự cùng phát triển của các thành phần tộc ngời trong một quốc gia
đa dân tộc. Ba nguyên tắc trên có mối quan hệ mật thiết, biện chứng với nhau,
tạo nên hiệu quả của chính sách dân tộc, đồng thời cũng là phản ánh đặc điểm
của chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nớc Việt Nam ta. Thực hiện quyền
bình đẳng là một vấn đề lâu dài trên nhiều bình diện chính trị, kinh tế, văn hoá
xã hội, do vậy muốn thực hiện có hiệu quả quyền bình đẳng thì trong quá trình
thực hiện chính sách dân tộc phải quán triệt và thực hiện đợc nguyên tắc đoàn
kết. Bình đẳng để đoàn kết, đoàn kết để thực hiện bình đẳng có hiệu quả, chất
lợng. Tơng trợ giúp nhau cùng phát triển là giải quyết mối quan hệ dân tộc
nhằm mục tiêu cùng phát triển thông qua hệ thống chính sách dân tộc trên
nhiều bình diện đối với các dân tộc ở nớc ta. Quán triệt và thực hiện tốt

nguyên tắc tơng trợ giúp nhau cùng phát triển là tạo thêm các tiền đề vật chất
và t tởng để thực hiện có hiệu quả nguyên tắc bình đẳng và đoàn kết. Mỗi
giai đoạn cách mạng việc quán triệt và thực hiện các nguyên tắc trên có những
yêu cầu đòi hỏi khác nhau ngày càng cao và phức tạp hơn. Trong bối cảnh tình
hình dân tộc, tôn giáo trong nớc và quốc tế có nhiều biến động cũng nh
trong điều kiện cơ chế thị trờng thì đòi hỏi việc hoạch định và thực hiện chính
sách dân tộc phải có những đổi mới về nội dung và phơng thức mới có thể đáp
ứng đợc yêu cầu trong tình hình phát triển mới của đất nớc.

2. Khái niệm nội dung quản lý Nhà nớc về công tác dân
tộc và phơng thức công tác dân tộc
2.1- Về nội dung quản lý Nhà nớc:
21


Báo cáo chính đề tài cấp Bộ 2004: Đổi mới nội dung quản lý Nhà nớc và phơng thức
công tác dân tộc

Quản lý là một hoạt động điều hành các hệ thống kinh tế-xã hội của một
Nhà nớc, một tổ chức với nhiều mục đích, yêu cầu và cấp độ cụ thể khác nhau.
Nh trên đã trình bày, sau khi ra đời Nhà nớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
nay là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tập trung điều hành đất nớc
với những nhiệm vụ rất cơ bản trong đó có việc điều hành quản lý Nhà nớc về
lĩnh vực công tác dân tộc. 60 năm qua ở nớc ta còn ít công trình nghiên cứu,
tổng kết về lý luận và thực tiễn khoa học quản lý nói chung và quản lý Nhà
nớc về công tác dân tộc nói riêng. Vì lẽ đó mà đến nay còn có những quan
niệm , nhận thức khác nhau về quản lý và quản lý Nhà nớc về lĩnh vực công
tác dân tộc. Theo một số tài liệu thì khái niệm quản lý và quản lý Nhà nớc
đợc trình bày nh sau :
Quản lý: Tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất

định . Khoa học quản lý có đặc điểm riêng: Là khoa học có tính ứng dụng; là
môn khoa học có tính liên ngành, liên bộ môn, là chỗ giáp ranh của nhiều bộ
môn khoa học khác; vừa là khoa học vừa có tính nghệ thuật; là môn khoa học
vừa có tính phát triển nhanh cả về cơ sở lý thuyết và cơ sở kỹ thuật-công
nghệ.(2) Quản lý có chức năng cơ bản sau: Dự đoán - Kế hoạch hoá - Tổ chức Động viên - Điều chỉnh - Kiểm tra - Đánh giá và hạch toán.(3)
(1)

Còn khái niệm quản lý Nhà nớc cũng có những quan niệm không hoàn
toàn thống nhất , tuy nhiên chúng ta cũng thấy có những điểm chung làm cơ sở
để nhìn nhận vào khái niệm quản lý Nhà nớc về công tác dân tộc .Theo các
tác giả trong Từ điển tiếng Việt thì: Quản lý Nhà nớc: Tổ chức, điều hành các
hoạt động kinh tế-xã hội theo pháp luật.(4).
Theo các tác giả của Học viện Hành chính quốc gia thì: Quản lý Nhà
nớc: Là một hoạt động quản lý đặc biệt đạt đợc mục tiêu phát triển trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội. Trong nhiều giai đoạn phát triển
khác nhau, hoạt động quản lý Nhà nớc không ngừng mở rộng và phát triển.(5)
Quy trình của Quản lý hành chính Nhà nớc bao gồm 7 công đoạn : 1. Quy
hoạch và kế hoạch, 2. Tổ chức bộ máy hành chính, 3. Sắp xếp bố trí và quản lý
nhân sự, 4. Ra các quyết định quản lý, 5. Phối hợp, 6. Sử dụng nguồn tài lực, 7.
Chỉ đạo kiểm tra, tổng kết đánh giá.(6).

(1)

- Viện Ngôn ngữ học : Từ điển tiếng Việt ,Hà Nội-Đà Nẵng 2000, tr 800.
- Khoa Quản lý kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Tập đề cơng bài
giảng Quản lý kinh tế (Lu hành nội bộ) trang : 8-14
(3)
- Từ điển tiếng Việt : Tài liệu đã dẫn trang : 801.
(4)
- Khoa quản lý kinh tế :Tài liệu đã dẫn trang : 44-51

(5)
- Khoa quản lý kinh tế :Tài liệu đã dẫn trang :174
(6)
- Khoa quản lý kinh tế :Tài liệu đã dẫn trang : 16-17
(2)

22


Báo cáo chính đề tài cấp Bộ 2004: Đổi mới nội dung quản lý Nhà nớc và phơng thức
công tác dân tộc

Ngoài hai cơ sở lý thuyết trên (Quản lý và Quản lý Nhà nớc), khái
niệm Quản lý Nhà nớc về công tác dân tộc ở nớc ta cũng là vấn đề lý thuyết
và thực tiễn còn nhiều quan niệm cha thống nhất, thậm chí còn ít đợc bàn
đến. Về mặt khái niệm : Quản lý Nhà nớc về lĩnh vực Dân tộc và miền núi
cha có ai đa ra một khái niệm tổng quát mà trong một số tài liệu đi vào nêu
ra chức năng, nhiệm vụ của quản lý Nhà nớc về dân tộc và miền núi. Trong
giáo trình chính thống của Học viện Hành chính quốc gia có nêu Chức năng,
nhiệm vụ của quản lý Nhà nớc về Dân tộc và Miền núi nh sau: Nghiên cứu
tổng hợp, đề xuất chủ trơng, chính sách của Đảng và Nhà nớc, xây dựng các
dự án luật về dân tộc, xây dựng các dự án phát triển kinh tế-xã hội cho từng
dân tộc về miền núi; Hớng dẫn theo dõi kiểm tra các ngành, các cấp thực hiện
đờng lối chủ trơng về chính sách dân tộc và miền núi của Đảng và Nhà nớc;
Phối hợp với các cơ quan tổ chức - cán bộ theo dõi đội ngũ cán bộ là ngời các
dân tộc thiểu số, đề xuất ý kiến với Bộ Giáo dục và Đào tạo để có chính sách
đào tạo, bồi dỡng sử dụng cán bộ là ngời thuộc các dân tộc thiểu số . Đây là
vấn đề then chốt cơ bản cần đợc sớm triển khai thực hiện; thực hiện quản lý,
giám sát, kiểm tra các nguồn vốn đầu t cho các vùng dân tộc và miền núi. Cơ
quan làm công tác dân tộc trực tiếp quản lý một số chơng trình phát triển kinh

tế, văn hoá - xã hội ở vùng dân tộc và miền núi nh xây dựng vùng kinh tế mới,
vùng định canh định c, các chơng trình tài trợ của quốc tế nhằm góp phần
vào chơng trình "xóa đói giảm nghèo" của Chính phủ ở các vùng sâu có hiệu
quả.
Quản lý Nhà nớc về công tác dân tộc và miền núi cần đợc bao quát
một cách toàn diện. Đảng ta đã chỉ rõ:" đối với miền núi Nhà nớc hỗ trợ đầu
t mở mang giao thông vận tải, bảo vệ môi trờng, tài trợ cho y tế, chính sách
u đãi về tài chính, tín dụng, tiền lơng để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội".
Phải có sự phân công trong lãnh đạo, cán bộ chủ chốt của các ngành ở
địa phơng, thờng xuyên luân phiên nhau xuống cơ sở nh xã, bản để giải
quyết tập trung dứt điểm từng vụ, việc một cách cụ thể, tránh hình thức, phải
chú ý nội dung để có chất lợng cao" (1). Bên cạnh đó, giáo trình trên cũng nêu
ra các nội dung cụ thể của quản lý Nhà nớc về công tác dân tộc nh : Quản lý
Nhà nớc về định canh định c ; Quản lý Nhà nớc về tài nguyên rừng, đất
trồng rừng và các động vật rừng quý hiếm ; Quản lý Nhà nớc về giao thông
vận tải và bu điện; Quản lý Nhà nớc về thơng nghiệp và dịch vụ; Quản lý
Nhà nớc vể giáo dục, văn hoá, xã hội; Quản lý Nhà nớc về y tế và chăm sóc
sức khoẻ; Quản lý thị trờng, chống buôn lậu qua vùng biên giới trong tình

(1)

- Học viện Hành chính quốc gia :Tài liệu đã dẫn, Tập III, tr 300 302.

23


Báo cáo chính đề tài cấp Bộ 2004: Đổi mới nội dung quản lý Nhà nớc và phơng thức
công tác dân tộc

hình mới; Quản lý Nhà nớc về an ninh, chính trị.(2). Các khái niệm về quản lý,

quản lý Nhà nớc và đặc biệt là khái niệm quản lý Nhà nớc về lĩnh vực (3)
công tác dân tộc và miền núi trên đây cho thấy còn thiếu một khái niệm mang
tính khái quát về Quản lý Nhà nớc về lĩnh vực công tác dân tộc và miền núi,
mà với định nghĩa đó chúng ta có thể vận dụng vào chức năng quản lý lĩnh vực
đặc thù này của một Nhà nớc kiểu mới của dân, do dân vì dân trong quá trình
hoạt động của mình, hay ít ra cũng cụ thể hoá đợc đặc điểm tình hình của
quốc gia khi có chiến tranh hoặc trong thời bình xây dựng đất nớc. Các chức
năng nhiệm vụ hay nội dung quản lý Nhà nớc về lĩnh vực công tác dân tộc và
miền núi mà Giáo trình của Học viện Hành chính quốc gia nêu trên đây cho
thấy nó chỉ phản ánh một phần nội dung hoạt động quản lý Nhà nớc về lĩnh
vực dân tộc và miền núi trong thời kỳ đổi mới gần đây (chủ yếu từ 1986 đến
nay) chứ không thể vận dụng khái niệm trên vào nhận thức các hoạt động của
Nha Dân tộc thiểu số hay Tiểu ban Dân tộc, Uỷ ban Dân tộc trớc đây.
Xác định nội hàm của lĩnh vực quản lý Nhà nớc về công tác Dân tộc và
Miền núi là một quá trình để làm rõ chức năng của công tác này trong quản lý
và chỉ đạo thực tiễn. Việc xác định khái niệm quản lý Nhà nớc về lĩnh vực
công tác dân tộc và miền núi là một vấn đề khoa học cơ bản nhng cha đợc
nêu trong các văn bản pháp lý từ Nghị định ngày 9-9-1946 chiểu theo Sắc lệnh
58 ngày 3-5-1946 đến Nghị định 51/2003/NĐ-CP ngày 16-5-2003. Các văn
bản loại hình nh trên chỉ ghi là Nha dân tộc thiểu có nhiệm vụ nghiên cứu
và giải quyết mọi vấn đề liên quan đến các dân tộc thiểu số trong toàn cõi
Việt Nam " và " Uỷ ban Dân tộc là cơ quan ngang bộ của Chính phủ có chức
năng quản lý Nhà nớc về lĩnh vực công tác dân tộc trong phạm vi cả nớc ;
quản lý Nhà nớc các dịch vụ công và thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn
của Nhà nớc tại doanh nghiệp có vốn Nhà nớc thuộc Uỷ ban quản lý theo
quy định của pháp luật ".
Sau các văn bản đó cơ quan công tác dân tộc từ trớc đến nay cha nhiều
công trình định nghĩa và xác định khái niệm quản lý Nhà nớc về lĩnh vực
công tác dân tộc là gì? Điều đó đã gây nên không ít lúng túng về nhận thức thật
cụ thể cho đội ngũ cán bộ làm công tác này khi trả lời một khái quát nhất,

tơng đối đầy đủ nhất câu hỏi: Quản lý Nhà nớc về lĩnh vực công tác dân
tộc là gì ? Cơ sở lý luận là một trong những cơ sở chủ yếu để định hình chức
năng quản lý Nhà nớc về công tác dân tộc ở nớc ta. Đây là vấn đề quan trọng,
(2)

- Tài liệu đã dẫn , trang 302-312
- "Lĩnh vực : Phạm vi hoạt động, phân biệt với các phạm vi hoạt động khác trong xã hội".
Viện ngôn ngữ- Tài liệu đã dẫn, trang 571.

(3)

24


×