Tải bản đầy đủ (.docx) (82 trang)

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty TNHH yến sào sài gòn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (437.32 KB, 82 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu
trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ

ĐỖ THỊ KIỀU ANH


MỤC LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9

Từ viết tắt
VKD
VLĐ
VCĐ
DTT
LNST


KPT
HTK
TSCĐ
TBN

Nội dung đầy đủ
Vốn kinh doanh
Vốn lưu động
Vốn cố định
Doanh thu thuần
Lợi nhuận sau thuế
Khoản phải thu
Hàng tồn kho
Tài sản cố định
Trung bình ngành


DANH MỤC BẢNG VÀ DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1.1: Vai trò của vốn trong doanh nghiệp
Hình 1.2: Phân loại tài sản cố định của danh nghiệp
Hình 1.3: Phân loại vốn lưu động trong doanh nghiệp
Hình 2.1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty TNHH Yến Sào Sài
Gòn
Bảng 2.1: Tình hình hoạt động kinh doanh của công ty TNHH Yến Sào Sài Gòn
năm 2013-2015
Bảng 2.2: Tình hình biến động vốn cố định của công ty TNHH Yến Sào Sài Gòn
giai đoạn 2013-2015
Bảng 2.3: Tình hình biến động vốn lưu động của công ty TNHH Yến Sào Sài
Gòn giai đoạn 2013-2015
Bảng 2.4: Cơ cấu nguồn vốn của công ty TNHH Yến Sào Sài Gòn giai đoạn

2013-2015
Bảng 2.5: Mô hình tài trợ của công ty thời điểm 31/12/2014
Bảng 2.6: Mô hình tài trợ của công ty thời điểm 31/12/2015
Bảng 2.7: Danh mục nhóm tài sản cố định của công ty TNHH Yến Sào Sài Gòn
năm 2015
Bảng 2.8: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn của công ty TNHH Yến Sào Sài Gòn
giai đoạn 2013-2015
Bảng 2.9: So sánh hiệu quả sử dụng vốn của công ty TNHH Yến Sào Sài Gòn
với trung bình ngành năm 2015
Bảng 2.10: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn cố định của công ty TNHH Yến
Sào Sài Gòn giai đoạn 2013-2015
Bảng 2.11: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty TNHH Yến
Sào Sài Gòn giai đoạn 2013-2015
Bảng 2.12: Thực trạng công tác quản lý HTK và KPT của công ty TNHH Yến
Sào Sài Gòn giai đoạn 2013-2015


LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Việt Nam đang trong thời kỳ xây dựng và mở rộng nền kinh tế thị trường theo
định hướng Xã hội chủ nghĩa, cùng với công cuộc cải cách mậu dịch, tự do hóa trong
thương mại đòi hỏi nhu cầu về vốn cho nền kinh tế và cho từng doanh nghiệp đang là
vấn đề rất lớn. Thực tiễn cho thấy, các doanh nghiệp của nước ta hiện đang phải cạnh
tranh khốc liệt để có thể tồn tại và có chỗ đứng trên thị trường. Để có thể tồn tại và
phát triển các doanh nghiệp phải tận dụng được những lợi thế của mình, từng bước
khắc phục những điểm yếu để nâng cao khả năng cạnh tranh. Đồng thời các nhà quản
trị phải quản lý và sử dụng nguồn vốn của mình một cách hiệu quả để phát triển hoạt
động sản xuất kinh doanh trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt như hiện nay.
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, vốn đóng
một vai trò hết sức quan trọng, quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của doanh

nghiệp. Vốn đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục. Nếu không
chú trọng tới quản trị vốn doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc duy trì và mở rộng
sản xuất kinh doanh. Vì vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là một vấn đề quan trọng
giúp doanh nghiệp đứng vững và phát hơn nữa thế mạnh của mình. Bên cạnh đó, nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn cũng có nghĩa là nâng cao lợi nhuận, chẳng có một lý do nào
để doanh nghiệp có thể từ chối việc làm đó. Như vậy, ta có thể nhận thấy nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh là một việc làm thiết yếu của bất kỳ một
doanh nghiệp nào, người ta không thể từ chối thu một khoản lợi nhuận hay doanh thu
nhiều hơn trên một đồng vốn bỏ ra mà ngược lại họ muốn thu ngày càng nhiều từ việc
bỏ ra một cùng một lượng vốn ban đầu của mình hay với cùng một lượng tiền thu về
từ hoạt động sản xuất kinh doanh như năm trước nhưng năm nay doanh nghiệp phải bỏ
ra cho nó một lượng chi phí ít hơn. Tóm lại, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là
một tất yếu trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt. Nó góp phần nâng cao khả
năng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, mở rộng quy mô hoạt động sản
xuất, tăng nhanh tốc độ hoạt động của doanh nghiệp nhằm đem lại cho doanh nghiệp
lợi nhuận và lợi nhuận ngày càng cao, góp phần tăng trưởng kinh tế xã hội. Vì vậy,
việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tuy không còn là vấn đề mới mẻ nhưng nó luôn là
vấn đề quan trọng đặt ra trong suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
Xuất phát từ những nhận thức thực tiễn trên cùng với những kiến thức được học
tại trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội, em quyết định lựa chọn đề tài
“Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty TNHH Yến Sào Sài
Gòn” để làm đề tài nghiên cứu cho bài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của của đề tài là khảo sát số liệu thực tế về thực trạng hiệu
quả sử dụng vốn của Công ty TNHH Yến Sào Sài Gòn. Từ những vấn đề lý thuyết cơ
bản đến những đánh giá về kết quả và hạn chế trong công tác quản lý và sử dụng vốn
mà công đã đạt được trong thời gian qua, từ đó đề ra giải pháp và kiến nghị nhằm nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn của công ty trong thời gian tới.
1.


5


Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Về phương diện lý thuyết: Nghiên cứu lý luận cơ bản về hiệu quả sử dụng vốn
trong doanh nghiệp.
Về phương diện thực trạng: Hiệu quả sử dụng vốn của Công ty TNHH Yến Sào
Sài Gòn giai đoạn 2013 – 2015.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian:
Việc nghiên cứu đề tài được thực hiện tại Công ty TNHH Yến Sào Sài Gòn. Trụ
sở chính đặt tại số 426A, Đường Láng, Đống Đa, Hà Nội.
- Phạm vi thời gian :
Số liệu nghiên cứu đề tài được lấy trong ba năm 2013, 2014 và 2015.
4.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thống kê: Được sử dụng để tổng hợp số liệu, phân tích, so sánh số
liệu qua các năm.
Phương pháp so sánh: Được dùng để so sánh giữa số liệu của năm nay với năm
trước, của doanh nghiệp với trung bình ngành.
Phương pháp phân tích: Phân tích các chỉ tiêu, chỉ số mà công ty đạt được qua
các năm để từ đó đưa ra ngững biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
5.
Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu và kết luận, bài luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Tổng quan về vốn và hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại công ty TNHH Yến Sào Sài
Gòn

Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty
TNHH Yến Sào Sài Gòn
Do trình độ còn hạn chế nên luận văn tốt nghiệp của em còn rất nhiều thiếu sót,
em rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô để bài luận văn này được hoàn
thiện hơn.
Để hoàn thành bài luận văn này, em đã nhận được sự chỉ bảo tận tình của
PGS.TS Lê Văn Hưng cùng toàn thể các cô, chú, anh, chị trong công ty TNHH Yến
Sào Sài Gòn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Học viên: Đỗ Thị Kiều Anh.
3.
3.1.

6


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
VỐN TRONG DOANH NGHIỆP
1.1.
1.1.1.

Tổng quan về vốn trong doanh nghiệp

Khái niệm về vốn
Trong nền kinh tế quốc dân, mỗi doanh nghiệp được coi như một tế bào của nền
kinh tế với nhiệm vụ chủ yếu là thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tạo
ra các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ cung cấp cho xã hội. Doanh nghiệp có thể thực
hiện một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản
phẩm, dịch vụ trên thị trường nhằm tối đa hóa lợi nhuận.
Để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần phải có tư

liệu sản xuất, đối tượng sản xuất, tư liệu lao động và sức lao động. Quá trình sản xuất
kinh doanh là quá trình kết hợp những yếu tố đó để tạo ra sản phẩm hàng hóa và dịch
vụ. Mà muốn có tư liệu sản xuất, đối tượng sản xuất, tư liệu lao động và sức lao động
thì phải có vốn.
Theo K.Marx, vốn (tư bản) là giá trị đem lại giá trị thặng dư, là một đầu vào của
quá trình sản xuất. Định nghĩa này mang một tầm khái quát lớn, nhưng do bị hạn chế
bởi những điều kiện khách quan lúc bấy giờ nên Marx đã quan niệm chỉ có khu vực sản
xuất vật chất mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế. Cùng với sự phát triển của nền
kinh tế, các nhà khoa học đại diện cho các trường phái khác nhau đã bổ sung các yếu tố
mới cũng được coi là vốn. Nổi bật nhất là Paul.A.Samuelson - Nhà kinh tế học theo
trường phái “tân cổ điển” đã kế thừa các quan niệm của trường phái “cổ điển” về yếu
tố sản xuất để phân chia các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất thành 3 bộ phận là
đất đai, lao động và vốn . Theo ông, vốn là hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ cho quá
trình sản xuất mới.
Sau đó, David Begg đã bổ sung thêm cho định nghĩa vốn của Samuelson, theo
ông vốn bao gồm có vốn hiện vật (các hàng hoá dự trữ, để sản xuất ra hàng hoá khác)
và vốn tài chính (tiền, các giấy tờ có giá trị của doanh nghiệp). Nhìn chung, cả
Samuelson và Begg đều có một quan điểm chung thống nhất cơ bản là các vốn là một
đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, quan điểm này cho thấy vốn vẫn
bị đồng nhất với tài sản của doanh nghiệp.

7


Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, vốn được xem xét dưới góc độ một yếu tố
đầu vào của không chỉ một quá trình sản xuất riêng lẻ mà là của một quá trình sản xuất
và tái sản xuất diễn ra liên tục trong suốt thời gian tồn tại của doanh nghiệp, thậm chí
ngay cả khi doanh nghiệp không còn tồn tại thì vốn củ nó lại được chuyển vào các quá
trình sản xuất kinh doanh khác. Theo quan điểm này, vốn là toàn bộ giá trị ứng ra ban
đầu và các quá trình tiếp theo, vốn được biểu hiện bằng cả tiền mặt lẫn các giá trị vật

tư hàng hóa, tài sản của doanh nghiệp. Vốn ở đây khác với tiền tệ thông thường khác.
Tiền sẽ được coi là vốn khi chúng được bỏ vào sản xuất kinh doanh và ngược lại nó
không được coi là vốn khi chỉ được dùng để mua sắm sản phẩm phục vụ cho nhu cầu
sinh hoạt cá nhân và xã hội.
Như vậy vốn là giá trị ứng ra bỏ vào sản xuất kinh doanh, hình thành nên các tài
sản của doanh nghiệp, hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng phải có vốn, vốn có
vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải có
nhận thức đúng đắn về vốn cũng như đặc trưng cơ bản về vốn. Đó là tiền đề cho việc
quản lý sử dụng vốn một các hiệu quả.
Căn cứ vào khái niệm trên, ta có thể thấy vốn có một số đặc trưng cơ bản sau:
- Vốn được biểu hiện bằng các tài sản của doanh nghiệp dùng vào hoạt động sản

xuất kinh doanh hoặc hoạt động khác, tồn tại dưới dạng hữu hình hoặc vô hình.
Đó là các loại máy móc, thiết bị, nhà xưởng, nguyên vật liệu…hay vị trí kinh
doanh, nhãn hiệu sản phẩm, bản quyền phát minh…
- Vốn đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh là nhằm sinh lời, đem lại lợi nhuận
cho doanh nghiệp trong tương lai. Do đó vốn phải được tích lũy đến một mức độ
nhất định.
- Vốn có giá trị về mặt thời gian. Nói chung một đồng vốn ngày hôm nay có giá trị
cao hơn một đồng vốn ngày mai. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong tính toán,
lựa chọn phương án đầu tư và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn.
- Vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định, không thể có đồng vốn vô chủ. Nếu
không xác định được rõ chủ sở hữu thì việc sử dụng vốn sẽ kém hiệu quả.
- Vốn là một loại hàng hóa đặc biệt. trước hết nói vốn là một loại hàng hóa bởi nó
có giá trị sử dụng và giá trị. Vốn là một hàng hóa đặc biệt bởi lẽ quyền sở sữu và
quyền sử dụng có thể tách rời nhau, tức là vốn có thể đem ra trao đổi lấy quyền
sử dụng trên thị trường (thị trường vốn).
1.1.2. Vai trò của vốn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh là sản phẩm. Sản phẩm của
doanh nghiệp có thể là hàng hóa, dịch vụ có thể tồn tại ở hình thái vật chất hay phi vật

chất nhưng đều là kết quả của quá trình dùng sức lao động và tư liệu lao động tác động

8


vào đối tượng lao động để nó biến đổi. Tư liệu lao động và đối tượng lao động là điều
kiện vật chất không thể thiếu của quá trình sản xuất và tái sản xuất. Mà muốn có tư
liệu lao động và đối tượng lao động thì phải có vốn. Do đó có thể nói vốn là một phạm
trù kinh tế, là điều kiện tiên quyết cho bất cứ doanh nghiệp, ngành nghề kinh tế kỹ
thuật, dịch vụ nào trong nền kinh tế. Để tiến hành hoạt động kinh doanh được, doanh
nghiệp cần phải nắm giữ một lượng vốn nhất định nào đó. Số vốn này thể hiện giá trị
toàn bộ tài sản và các nguồn lực của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh. Vì vậy
vốn có vai trò quyết định trong việc thành lập, hoạt động và phát triển của doanh
nghiệp.
Vai trò của vốn được cụ thể hóa trong sơ đồ dưới đây:
Hình 1.1: Vai trò của vốn trong doanh nghiệp

Vốn của doanh nghiệp

Dùng cho đầu tư trung và dài hạn

Vốn dùng cho các hoạt động khác

Tiếp tục sản xuấtThay máy cũ
GQ năng lực sảnxuất Trả lương cho
NLĐcác HĐĐóng
góp choNộp
xã hội
Chi tiêu
của DN

thuế, phí, lệ ph

Vai trò của vốn được thể hiện qua các mặt:
- Vốn của các doanh nghiệp thương mại có vai trò quyết định trong việc thành
lập, hoạt động, phát triển của từng loại hình doanh nghiệp theo luật định.
- Vốn đóng vai trò quyết định mở rộng đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đổi
mới quy trình công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh,
góp phần tăng năng suất lao động và giảm giá thành chi phí của doanh nghiệp.

9


- Vốn là một nguồn lực quan trọng để phát huy tài năng của ban lãnh đạo doanh
nghiệp, nó là một điều kiện thực hiện các chiến lược, sách lược kinh doanh, nó cũng là
“dầu nhớt” bôi trơn cho cỗ máy kinh tế vận động.
- Vốn của doanh nghiệp là yếu tố về giá trị. Như vậy, doanh nghiệp đáp ứng
đầy đủ nhu vầu về vốn sẽ giúp cho doanh nghiệp chủ động về tài chính, mở rộng sản
xuất kinh doanh, tạo sức cạnh tranh. Còn ngược lại, nếu vốn không được bảo tồn và
tăng lên trong mỗi chu kỳ kinh doanh thì vốn đã bị thiệt hại, đó là hiện tượng mất vốn.
Sự thiệt hại lớn dẫn đến doanh nghiệp mất khả năng thanh toán, sẽ làm cho doanh
nghiệp bị phá sản, tức là vốn đã bị sử dụng một cách lãng phí, không có hiệu quả.
Tóm lại vai trò của vốn đã được K.Marx khẳng định: “Tư bản đứng vị trí hàng đầu
vì tư bản là tương lai”. Đồng thời, K.Marx còn nhấn mạnh: “Không một hệ thống nào có
thể tồn tại nếu không vượt qua sự suy giảm về hiệu qủa tư bản”.
1.1.3.

Phân loại vốn
Để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ ... hay hoạt
động bất cứ ngành nghề gì, các doanh nghiệp cần phải có một lượng vốn nhất định.
Số vốn đó được biểu hiện dưới dạng tài sản. Trong hoạt động tài chính của doanh

nghiệp quản lý vốn và sử dụng vốn có hiêu quả là nội dung quan trọng nhất, có tính
chất quyết định đến mức độ tăng trưởng hay suy thoái của doanh nghiệp. Do vậy, để
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ta cần phải nắm được vốn có những loại nào, đặc biệt
vận động của nó ra sao... Có nhiều cách phân loại vốn, tuỳ theo mục tiêu nghiên cứu
mà có thể có nhiều tiêu thức phân loại vốn khác nhau.
1.1.3.1

Phân loại vốn trên góc độ pháp luật

Trên góc độ pháp luật, vốn được chia làm 2 loại:
- Vốn pháp định: là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập doanh nghiệp do
pháp luật quy định, đảm bảo năng lực kinh doanh đối với từng ngành nghề và từng loại
hình sở hữu của doanh nghiệp. Dưới mức vốn pháp định thì không đủ điều kiện để thành
lập doanh nghiệp.
- Vốn điều lệ: là vốn do các thành viên đóng góp và được ghi vào điều lệ của công
ty (doanh nghiệp). Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp, theo từng ngành nghề, vốn
điều lệ không được thấp hơn vốn pháp định.
1.1.3.2. Phân loại vốn theo thời gian huy động

10


Theo cách phân loại này, vốn được chia thành 2 loại là vốn thường xuyên và vốn
tạm thời.
- Vốn thường xuyên: bao gồm vốn chủ sở hữu và các khoản nợ dài hạn của doanh
nghiệp. Đây là nguồn vốn được dùng để tài trợ cho các hoạt động đầu tư mang tính lâu
dài của doanh nghiệp.
- Vốn tạm thời: là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới một năm) mà doanh
nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng nhu cầu có tính chất tạm thời, bất thường phát sinh
trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

1.1.3.3. Phân loại theo phương thức chu chuyển
Trong quá trình sản xuất và tái sản xuất, vốn vận động một cách liên tục. Nó
biểu hiện bằng những hình thái vật chất khác nhau, từ tiền mặt đến tư liệu lao động,
hàng hoá dự trữ... Sự khác nhau về mặt vật chất này tạo ra đặc điểm chu chuyển vốn,
theo đó người ta phân chia vốn thành hai loại là vốn cố định và vốn lưu động.

 Vốn cố định:
Là biểu hiện bằng tiền của tài sản cố định. Hay nói cách khác là số vốn đầu tư
ứng trước để mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các tài sản cố định vô hình và hữu hình
nhằm phục vụ sản xuất kinh doanh được gọi là vốn cố định của doanh nghiệp. Đây là số
vốn đầu tư ứng trước, số vốn này nếu được sử dụng có hiệu qủa sẽ không mất đi mà
doanh nghiệp sẽ thu hồi lại được sau khi tiêu thụ các sản phẩm, hàng hoá hay dịch vụ
của mình. Do đó, để biểu hiện rõ hơn về vốn cố định của doanh nghiệp, chúng ta xem
xét hình thái biểu hiện của nó, tức là dựa trên cơ sở nghiên cứu về tài sản cố định.
Để tiến hành sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần có tư liệu sản xuất. Căn
cứ vào tính chất, tác dụng, tư liệu sản xuất được chia thành hai bộ phận là tư liệu lao
động và đối tượng lao động. Tư liệu lao động được sử dụng để tác động vào đối
tượng lao động, tạo ra sản phẩm cho doanh nghiệp. Đặc điểm cơ bản của tư liệu lao
động là chúng có thể tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào một hay nhiều chu kỳ sản
xuất. Trong quá trình đó, giá trị của chúng bị giảm đi mặc dù giá trị sử dụng vẫn như
ban đầu. Phần giá trị giảm đi được chuyển vào giá trị của sản phẩm. Do đó qua các chu
kỳ, giá trị của tư liệu lao động được chuyển dần vào giá trị của sản phẩm.
Tài sản cố định là bộ phận tư liệu lao động chủ yếu quan trọng nhất của doanh
nghiệp. Đó là những tư liệu lao động như máy móc thiết bị, nhà xưởng, phương

11


tiện vận chuyển... Khi tham gia vào sản xuất, chúng không bị thay đổi về hình thái ban
đầu, giá trị của chúng được chuyển dần vào giá trị của sản phẩm. Sau một hay nhiều

chu kỳ sản xuất giá trị của tài sản cố định sẽ được chuyển hết vào giá trị của sản phẩm,
khi đó tài sản cố định đã hết thời hạn sử dụng.
Theo quy định mới nhất hiện nay thì tư liệu lao động thỏa mãn đồng thời hai điều
kiện dưới đây mới được coi là tài sản cố định:
- Thời gian sử dụng tối thiểu là hai năm.
- Giá trị tối thiểu là 30 triệu đồng.

Như phân tích ở trên, khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, sự vận động
của tài sản cố định có những đặc điểm sau:
- Về mặt hiện vật: Tài sản cố định tham gia hoàn toàn, nhiều lần vào quá trình sản
xuất kinh doanh và cuối cùng nó bị loại ra khỏi quá trình sản xuất kinh doanh.
- Về mặt giá trị: Giá trị của tài sản số định sẽ được chuyển dịch dần từng phần
vào giá trị hàng hoá, sản phẩm mà nó tạo ra trong quá trình sản xuất.
Do đặc điểm về mặt hiện vật và giá trị của tài sản cố định đã quyết định đến hình
thái biểu hiện của vốn cố định trên hai góc độ đó là: Vốn dưới hình thái hiện vật và vốn
tiền tệ.
- Phần giá trị hao mòn của tài sản cố định được dịch chuyển dần vào giá trị của
sản phẩm gọi là khấu hao tài sản cố định. Bộ phận giá trị này là yếu tố chi phí sản xuất
và cấu thành nên giá thành sản phẩm, biểu hiện dưới hình thức tiền tệ gọi là khấu hao
tài sản cố định. Số tiền khấu hao này được trích lại và tích luỹ thành quỹ gọi là quỹ
khấu hao tài sản cố định, hay là vốn tiền tệ của doanh nghiệp, nhằm mục đích để tái sản
xuất tài sản cố định, duy trì năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Qua các chu kỳ sản
xuất kinh doanh, phần vốn tiền tệ này tăng dần.
- Phần giá trị còn lại của vốn cố định được cố định trong hình thái hiện vật của tài
sản cố định mà doanh nghiệp đang sử dụng. Phần giá trị này giảm dần qua các chu kỳ
cùng với sự tăng lên của phần vốn tiền tệ. Khi tài sản cố định hết thời hạn sử dụng
cũng là lúc phần vốn hiện vật bằng không và phần vốn tiền tệ đạt đến giá trị ứng ra ban
đầu về tài sản cố định. Về mặt lý thuyết, doanh nghiệp đã có thể đầu tư tài sản cố định
mới với giá trị tương đương để thay thế tài sản cũ. Vốn cố định đã hoàn thành một
vòng luân chuyển.


12


Tài sản cố định là cơ sở vật chất kỹ thuật của sản xuất, là điều kiện quan trọng để
nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, tăng tích luỹ và phát triển doanh
nghiệp. Với vai trò quan trọng như vậy, nên việc nâng cao năng suất, hiệu quả sử
dụng tài sản cố định tức là việc tăng cường nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định
không những có vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp, mà còn góp phần cơ khí hoá,
tự động hoá sản xuất kinh doanh, phát triển sản xuất xã hội và phát triển nền kinh tế quốc
dân.
Quy mô của vốn cố định quyết định quy mô của tài sản cố định nhưng các đặc điểm
của tài sản cố định lại ảnh hưởng đến sự vận động và công tác quản lý vốn cố cố định.
Muốn quản lý vốn cố định một cách hiệu quả thì phải quản lý và sử dụng tài sản cố định
một cách hữu hiệu.
Để quản lý chặt chẽ, hữu hiệu tài sản cố định, có thể phân loại tài sản cố định theo
các tiêu thức sau:
Hình 1.2: Phân loại tài sản cố định của danh nghiệp

TSCĐ của doanh nghiệp

Căn cứ phân loại

Hình thái

TSCĐ
hữu
hình

TSCĐ

vô hình

Nguồn hình
thành

TSCĐ
tự có

TSCĐ
đầu tư
bằng
thuê
ngoài

Công dụng
kinh tế

TSCĐ
dùng
trong
SXK
D

TSCĐ
dùng
ngoài
SXKD

Tình hình
sử dụng


TSCĐ
đang
dùng

TSCĐ
chưa
cần
dùng

TSCĐ
không
cần
dùng

TSCĐ
chờ
thanh


Vốn cố định được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như: nguồn vốn pháp
định, nguồn vốn tự bổ sung, nguồn vốn liên doanh liên kết.

13


- Nguồn vốn pháp định: gồm vốn cố định do ngân sách nhà nước cấp, do cấp
trên cấp phát cho doanh nghiệp, vốn cổ phần do xã viên hợp tác xã và các cổ đông đóng
góp bằng tài sản cố định, vốn pháp định do chủ sở hữu bỏ ra ban đầu khi thành lập
doanh nghiệp.

- Nguồn vốn tự bổ sung: gồm vốn cố định của những tài sản cố định đã được đầu
tư và mua sắm bằng qũy của doanh nghiệp.
- Nguồn vốn liên doanh, liên kết: gồm các nguồn vốn do các đơn vị
tham gia liên doanh, liên kết đóng góp bằng tài sản cố định và bằng vốn đầu tư xây dựng
cơ bản đã hoàn thành.

 Vốn lưu động:
Là một bộ phận của vốn sản xuất được biểu hiện bằng số tiền ứng trước của tài
sản lưu động nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được tiến
hành một cách thường xuyên liên tục, nó được chuyển toàn bộ một lần vào giá trị sản
phẩm và được thu hồi sau khi thu được tiền bán sản phẩm.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, bên cạnh tài sản cố định, doanh nghiệp luôn
có một khối lượng tài sản nhất định nằm rải rác trong các khâu của quá trình sản xuất và
tái sản xuất như: dự trữ chuẩn bị sản xuất, phục vụ sản xuất, phân phối, tiêu thụ sản phẩm.
Đó chính là tài sản lưu động của doanh nghiệp. Tài sản lưu động chủ yếu nằm
trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp là các đối tượng lao động. Đối tượng lao
động tham gia vào quá trình sản xuất không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, bộ
phận chủ yếu của đối tượng lao động sẽ thông qua quá trình sản xuất tạo nên thực thể
của sản phẩm, bộ phận khác sẽ hao phí mất đi trong quá trình sản xuất. Đối tượng lao
động chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất, do đó toàn bộ giá trị của chúng được
dịch chuyển 1 lần vào giá trị sản phẩm và được thực hiện khi sản phẩm trở thành hàng
hoá.
Bên cạnh một số tài sản lưu động nằm trong quá trình lưu thông, thanh toán, sản
xuất... thì doanh nghiệp còn có một số đối tượng lao động khác như vật tư phụ tùng
quá trình tiêu thụ, các khoản hàng gửi bán, các khoản phải thu...
Như vậy, dưới góc độ tài sản thì vốn lưu động được sử dụng để chỉ các tài khoản
lưu động. Vốn lưu động chịu sự chi phối bởi tính luân chuyển của tài sản lưu động. Phù
hợp với đặc điểm của tài sản lưu động, vốn lưu động của doanh nghiệp cũng không

14



ngừng vận động qua các giai đoạn của chu kỳ sản xuất kinh doanh: dự trữ, sản xuất và
lưu thông. Vốn lưu động luôn được chuyển hoá qua nhiều hình thái vật chất khác nhau
và chuyển hoá phần lớn vào giá trị của sản phẩm, phần còn lại chuyển hoá trong quá
trình lưu thông. Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra một cách
thường xuyên, liên tục nên vốn lưu động cũng tuần hoàn không ngừng và mang tính chu
kỳ. Vốn lưu động hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình tái sản xuất.
Muốn cho quá trình tái sản xuất được liên tục thì yêu cầu đặt ra đối với doanh nghiệp là
phải có đủ vốn lưu động để đầu tư vào các tư liệu lao động tồn tại một cách hợp lý,
đồng bộ với nhau trong một cơ cấu. Do đặc điểm của vốn lưu động là trong quá
trình sản xuất kinh doanh luân chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần, tuần hoàn
liên tục đã quyết định sự vận động của vốn lưu động tức là hình thái giá trị của tài sản lưu
động là:
+ Khởi đầu vòng tuần hoàn: Vốn lưu động được dùng để mua sắm các đối tượng
lao động trong khâu dự trữ sản xuất. Ở giai đoạn này vốn đã thay đổi hình thái từ vốn
tiền tệ sang vốn vật tư (T-H).
+ Tiếp theo là giai đoạn sản xuất: Các vật tư được chế tạo thành bán thành
phẩm và thành phẩm. Ở giai đoạn này vốn vật tư chuyển hoá thành thành phẩm và bán
thành phẩm nhờ sức lao động và công cụ lao động (HSX...-H’).
+ Kết thúc vòng tuần hoàn: Sau khi sản phẩm được tiêu thụ, vốn lưu động lại
chuyển hoá sang hình thái vốn tiền tệ như điểm xuất phát ban đầu (H’-T’) (T’ > T).
Trong thực tế, sự vận động của vốn lưu động không diễn ra một cách tuần tự như
mô hình lý thuyết trên mà các giai đoạn vận động của vốn được đan xen vào nhau, các
chu kỳ sản xuất được tiếp tục lặp lại, vốn lưu động được liên tục tuần hoàn và chu
chuyển.
Trong doanh nghiệp, việc quản lý tốt vốn lưu động có vai trò rất quan trọng.
Muốn quản lý vốn lưu động, các doanh nghiệp phải phân biệt được các bộ phận cấu
thành vốn lưu động để trên cơ sở đó đề ra các biện pháp quản lý phù hợp. Trên thực

tế, vốn lưu động của doanh nghiệp bao gồm những bộ phận sau:
- Vốn bằng tiền: bao gồm tiền hiện có trong két và tiền gửi ngân hàng của
doanh nghiệp.

15


- Các khoản đầu tư ngắn hạn: bao gồm các tín phiếu kho bạc, thương phiếu ngắn
hạn...
- Các khoản phải thu: là một khoản mục tồn tại tất yếu trong nền kinh tế thị
trường. Bằng chứng của nó là các hoá đơn bán hàng, các tờ phiếu chấp nhận trả tiền của
người mua nhưng còn nhiều lý do mà người bán chưa thu được tiền ngay.
- Khoản dự trữ: Việc tồn tại vật tư, hàng hoá dự trữ, tồn kho là bước đệm cần
thiết cho quá trình hoạt động thường xuyên của doanh nghiệp. Sự tồn tại này trong
quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là hoàn toàn khách quan.
Vốn lưu động có vai trò to lớn trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh. Vì
vậy, để tổ chức quản lý và sử dụng vốn lưu động, tất nhiên, chúng ta phải quản lý trên
tất cả các mặt, các khâu và từng thành phần vốn lưu động.
Vì vậy để quản lý vốn lưu động có hiệu quả, có thể tiến hành phân loại vốn lưu động
như sau:
Hình 1.3: Phân loại vốn lưu động trong doanh nghiệp

VLĐ của doanh nghiệp
Căn cứ phân loại

Nguồn hình
thành

Quá trình
tuần hoàn


VLĐ
sản
xuất

VLĐ
dự
trữ

16

VLĐ
LT

Vốn
tự


Vốn
liên
doanh
liên
kết

Vốn
tín
dụng

Hình thái
biểu hiện


Vốn
phát
hàn
h
CK

Vốn
vật

hàng
hóa

Vốn
tiền
tệ

PP xác
định

VLĐ
định
mức

VLĐ
không
định
mức



Nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp gồm có: vốn tự có, vốn coi như tự có và
vốn đi vay.
- Vốn tự có: Bao gồm:
+ Nguồn vốn pháp định: gồm vốn lưu động do ngân sách cấp hoặc cấp trên cấp
phát cho đơn vị ( cấp lần đầu hoặc bổ sung), nguồn vốn cổ phần nghĩa vụ do các xã viên
hợp tác xã hoặc các cổ đông đóng góp, hoặc vốn pháp định do chủ doanh nghiệp tư
nhân bỏ ra ban đầu khi thành lập doanh nghiệp.
+ Nguồn vốn tự bổ sung: hình thành từ kết quả sản xuất kinh doanh của đơn vị
thông qua quỹ khuyến khích phát triển sản xuất các khoản chênh lệch giá hàng hoá tồn
kho (theo cơ chế bảo toàn giá trị vốn)
+ Nguồn vốn liên doanh, liên kết: Gồm có các khoản vốn của các đơn vị tham
gia liên doanh, liên kết góp bằng tiền, hàng hoá, sản phẩm, nguyên vật liệu...
- Vốn coi như tự có: do phương pháp kế toán hiện hành, có một số khoản tiền
tuy không phải của doanh nghiệp nhưng có thể sử dụng trong khoảng thời gian rỗi để
bổ sung vốn lưu động, người ta coi đó như khoản vốn tự có: tiền thuế, tiền lương, bảo
hiểm xã hội, phí trích trước chưa đến hạn phải chi có thể sử dụng và các khoản nợ khác.
- Nguồn vốn đi vay để đảm bảo thanh toán cho ngân hàng, nhà cung ứng...trong
khi hang chưa bán đã mua hoặc sự không khớp trong thanh toán, doanh nghiệp phải có
sự liên kết với các tổ chức cho vay để vay tiền. Nguồn vốn đi vay là một nguồn quan
trọng. Tuy nhiên, vay dưới hình thức khác nhau thì chịu lãi suất khác nhau và phải trả
kịp thời cả vốn lẫn lãi vay khi đến thời hạn
Trên đây là một số cách phân loại vốn, nó là tiền đề để cho doanh nghiệp có thể
lựa chọn và sử dụng hợp lý nguồn tài trợ tuỳ theo loại hình sở hữu, nghành nghề kinh
doanh, quy mô trình độ quản lý, trình độ khoa học kỹ thuật cũng như chiến lược phát
triển và chiến lược đầu tư của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, việc quản lý vốn ở các
doanh nghiệp trọng tâm cần đề cập đến là họat động luân chuyển vốn, sự ảnh hưởng
qua lại của các hình thức khác nhau của tài sản và hiệu quả vay vòng vốn. Vốn cần
được nhìn nhận và xem xét dưới trạng thái động với quan điểm hiệu quả.
1.2.


Hiệu quả sử dụng vốn và những nhân tố tác động đến hiệu quả sử
dụng vốn trong doanh nghiệp

1.2.1.

17

Khái niệm về hiệu quả sử dụng vốn


Để đánh giá trình độ quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của một
doanh nghiệp, người ta sử dụng thước đo là hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp đó. Một cách chung nhất, hiệu quả được hiểu là một chỉ tiêu chất lượng phản
ánh mối quan hệ giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để thu được kết quả đó. Nếu
chi phí bỏ ra càng ít mà kết quả thu được càng nhiều thì hiệu quả càng cao và ngược
lại, hiệu quả có thể đo lường theo hai cách: hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.
Hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp phản ánh kết quả của việc sử dụng những
nguồn lực của doanh nghiệp nhằm đạt được những lợi ích về mặt kinh tế. Tiêu chuẩn
của hiệu quả kinh tế thường là tối đa hóa lợi nhuận hay tối đa hóa giá trị tài sản của
doanh nghiệp. Hiệu quả kinh tế rất quan trọng vì nó có ý nghĩa quyết định tới sự tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp.
Hiệu quả xã hội phản ánh kết quả mà xã hội thu được từ các hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả xã hội tạo ảnh hưởng không nhỏ tới các quyết
định kinh doanh của các nhà điều hành doanh nghiệp.
Trong phạm vi quản lý doanh nghiệp, người ta chủ yếu quan tâm đến hiệu quả
kinh tế. Đây là một phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực để đạt được
hiệu quả cao nhất với chi phí thấp nhất. Do đó các nguồn lực kinh tế của doanh
nghiệp, đặc biệt là nguồn vốn của doanh nghiệp có tác động rất lớn đến hiệu quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là yêu
cầu mang tính thường xuyên và bắt buộc đối với doanh nghiệp. Đánh giá hiệu quả sử

dụng vốn sẽ giúp ta thấy được hiệu quả của hoạt động kinh doanh nói chung và trình
độ sử dụng vốn nói riêng.
Hiệu quả sử dụng vốn được lượng hóa thông qua hệ thống các chỉ tiêu về hiệu
suất sử dụng vốn cố định, vốn lưu động, mức sinh lời của vốn, tốc độ luân chuyển
vốn…Nó phản ánh quan hệ giữa đầu ra và đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh
thông qua thước đo tiền tệ hay cụ thể là mối tương quan giữa kết quả thu được với chi
phí bỏ ra để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Kết quả thu được càng cao so
với chi phí bỏ ra thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao. Do đó nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn là điều kiện quan trọng để doanh nghiệp phát triển vững mạnh.
1.2.2. Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp

Để đánh giá trình độ quản lý, điều hành hoạt động của mỗi doanh nghiệp, người
ta thường sử dụng thước đo là hiệu quả kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh của

18


doanh nghiệp đó. Đây là một phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của
doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất với chi phí hợp lý nhất. Do vậy, các nguồn
lực kinh tế đặc biệt là nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp có tác động rất lớn tới
hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
là yêu cầu mang tính thường xuyên và bắt buộc đối với bất cứ doanh nghiệp nào trong
nền kinh tế thị trường. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp ta thấy được hiệu quả của
hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và trình độ quản lý sử dụng vốn nói riêng.
Sử dụng vốn trong kinh doanh thương mại là một khâu có tầm quan trọng, quyết
định đến hiệu quả của kinh doanh. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, một doanh
nghiệp quản lý tài chính yếu kém, không bảo toàn được vốn, để mất vốn, sử dụng vốn
không tiết kiệm, sai mục đích, doanh thu không đủ bù đắp chi phí, tình trạng thua lỗ
kéo dài thì ta có thể nói doanh nghiệp đó sử dụng vốn kém hiệu quả. Để tồn tại và phát
triển, các doanh nghiệp phải luôn luôn tìm cách bảo toàn, sử dụng vốn có hiệu quả và

phải có biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đây là một vấn đề không đơn
giản và không phải doanh nghiệp nào cũng làm được, nhất là trong điều kiện nền kinh
tế còn chưa ổn định.
Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ
khai thác, sử dụng và quản lý nguồn vốn, làm cho đồng vốn sinh lời tối đa, nhằn mục
tiêu cuối cùng là tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu. Hiệu quả sử dụng vốn được
lượng hoá thông qua các chỉ tiêu về hiệu suất, hiệu quả sử dụng vốn cố định, vốn lưu
động, mức sinh lời và tốc độ chu chuyển của vốn lưu động... Nó phản ánh mối quan hệ
giữa đầu ra và đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh thông qua thước đo tiền tệ hay
cụ thể là mối tương quan giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra. Kết quả thu được càng
cao so với chi phí bỏ ra thi hiệu quả sử dụng vốn càng cao. Do đó, nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn là điều kện quả trọng để doanh nghiệp phát triển vững mạnh.
Tóm lại, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là tất yếu khách quan và nó có ý
nghĩa quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung,
đặc biệt là trong cơ chế hiện nay. Cụ thể:
- Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ đảm bảo được tính an toàn về tài chính cho
doanh nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Qua đó,
các doanh nghiệp sẽ có đủ vốn và đảm bảo khả năng thanh toán, khắc phục cũng như
giảm bớt những rủi ro trong kinh doanh.

19


- Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp. Để đáp ứng các yêu cầu cải tiến công nghệ,nâng cao chất lượng sản phẩm, đa
dang hoá mẫu mã sản phẩm...doanh nghiệp phải có vốn. Trong điều kiện vốn của
doanh nghiệp có hạn thì việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là rất cần thiết.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu gia
tăng tài sản của chủ sở hữu và các mục tiêu khác như nâng cao uy tín sản phẩm trên
thị trường, nâng cao mức sống của người lao động...Khi hoạt động kinh doanh

mang lại lợi nhuận thì doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô sản xuất, tạo thêm công ăn
việc làm và mức sống cho người lao động cũng ngày càng được cải thiện. Điều đó giúp
cho năng xuất lao động ngày càng nâng cao, tạo sự phát triển cho doanh nghiệp và
các ngành liên quan. Đồng thời nó cũng làm tăng các khoản đóng góp cho ngân sách nhà
nước.
1.2.3.

Một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp

Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp người ta thường dựa vào các
nhóm chỉ tiêu sau:

 Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng tổng vốn:
- Hiệu quả sử dụng vốn (tỷ suất LNST vốn kinh doanh bình quân):

Chỉ tiêu này cho biết, một đồng vốn đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế
trong kỳ kinh doanh. Chỉ tiêu này thể hiện bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh,
cho biết thực trạng kinh doanh lỗ, lãi của doanh nghiệp.
- Tỷ suất lợi nhuận sau thuế vốn chủ sở hữu (ROE):

Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn chủ sở hữu bình quân sử dụng trong kỳ tạo
ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế cho chủ sở hữu.
- Hiệu suất sử dụng vốn (vòng quay vốn kinh doanh):

Đây là chỉ tiêu đo lường hiệu quả sử dụng vốn trong kỳ của doanh nghiệp. Chỉ
tiêu này cho biết một đồng vốn huy động vào hoạt động sản xuất kinh doanh sau một

20



kỳ sẽ đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ trình độ quản lý
và sử dụng vốn của doanh nghiệp có hiệu quả.

-

Hàm lượng vốn bình quân:

Chỉ tiêu này phản ánh, để thu được một đồng doanh thu thì doanh nghiệp
cần bỏ ra bao nhiêu đồng vốn. Chỉ tiêu này ngược lại với chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn
của doanh nghiệp nên chỉ tiêu này cang nhỏ càng hiệu quả.

 Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định:
- Hiệu quả sử dụng vốn cố định (tỷ suất LNST vốn cố định bình quân):

Chỉ tiêu này cho biết, một đồng vốn cố định tham gia vào sản xuất kinh doanh
có thể tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế cho doanh nghiệp. Lợi nhuận sau
thuế là kết quả cuối cùng mà mọi doanh nghiệp đều xét đến. Do đó, chỉ tiêu này càng
cao bao nhiêu thì chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng vốn cố định càng có hiệu quả bấy
nhiêu.
- Hiệu suất sử dụng vốn cố định (số vòng quay vốn cố định):

Chỉ tiêu này cho biết, một đồng vốn cố định đầu tư vào việc mua sắm và sử dụng
tài sản cố định trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Chỉ tiêu này
càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp càng cao.
- Hiệu suất sử dụng tài sản cố định:

Chỉ tiêu này cho biết một đồng nguyên giá TSCĐ có thể tạo ra được bao nhiêu
đồng DTT. Thông qua chỉ tiêu này cũng cho phép đánh giá trình độ sử dụng VCĐ của
doanh nghiệp. Nếu hệ số của chỉ tiêu này tính ra của kỳ sau cao hơn kỳ trước là tốt và
ngược lại.


21


-

Hệ số hao mòn tài sản cố định:

Chỉ tiêu này, một mặt phản ánh mức độ hao mòn của TSCĐ trong doanh nghiệp,
mặt khác nó phản ánh tổng quát tình trạng về năng lực còn lại của TSCĐ cũng như
vốn cố định ở thời điểm đánh giá.
-

Hàm lượng vốn cố định:

Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ để tạo ra được 1 dồng doanh thu thuần thì doanh
nghiệp cần bở ra bao nhiêu đồng vốn cố định. Ngược lại với chỉ tiêu hiệu suất sử dụng
vốn cố định thì chỉ tiêu này càng nhỏ càng tốt.

 Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động:
- Hiệu quả sử dụng vốn lưu động (tỷ suất LNST vốn lưu động bình quân):

Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn lưu động trong kỳ có thể tạo ra bao nhiêu
đồng lợi nhuận sau thuế. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng vốn
lưu động càng có hiệu quả. Do đó, chỉ tiêu này càng cao càng tốt và ngược lại.
- Số vòng quay vốn lưu động:

Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động doanh nghiệp sử dụng vào hoạt
động kinh doanh tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Hay nói cách khác, chỉ
tiêu này cho biết trong kỳ phân tích vốn lưu động quay được bao nhiêu vòng. Hiệu

suất sử dụng vốn lưu động càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động của
doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
- Thời gian một vòng luân chuyển vốn lưu động:

Chỉ tiêu này phản ánh thời gian cần thiết để vốn lưu động thực hiện được một lần
luân chuyển. Ngược lại với số vòng quay vốn lưu động, chỉ tiêu này càng nhỏ thể hiện
vốn lưu động được luân chuyển nhanh, chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao
và ngược lại.

22


Ngoài ra để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động người ta còn xét đến một số chỉ
tiêu như:
- Vòng quay hàng tồn kho bình quân:
- Kỳ luân chuyển hàng tồn kho bình quân:

Số vòng quay hàng tồn kho càng lớn hoặc số ngày của một vòng quay hàng tồn
kho càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển hàng tồn kho càng nhanh. Tuy nhiên, nếu quá
cao lại thể hiện sự bất ổn trong khâu cung cấp, hàng hóa dự trữ không kịp cung cấp
cho khách hàng, gây mất uy tín công ty.
- Vòng quay các khoản phải thu:

Số vòng quay khoản phải thu càng cao thể hiện tốc độ luân chuyển nợ phải thu
càng nhanh, khả năng thu hồi nợ nhanh. Tỷ số vòng quay khoản phải thu cao hay
thấp phụ thuộc vào chính sách bán chịu của doanh nghiệp.
- Kỳ thu tiền bình quân:
Chỉ tiêu này cho thấy để thu hồi được các khoản phải thu thì phải cần một thời
gian là bao nhiêu. Nếu số ngày này mà lớn hơn thời gian bán chịu quy định cho khách
hàng thì việc thu hồi các khoản phải thu là chậm và ngược lại. Số ngày quy định bán

chịu cho khách lớn hơn thời gian này thì có dấu hiệu chứng tỏ việc thu hồi nợ đạt
trước kế hoạch về thời gian.
-

Các hệ số về khả năng thanh toán:

+ Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn:

Hệ số này phản ánh khả năng chuyển đổi tài sản ngắn hạn thành tiền để trang trải
các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. Chỉ số này càng cao thì khả năng thanh toán
của công ty càng tốt tuy nhiên nên duy trì ở một mức độ phù hợp để công tác sử dụng
vốn lưu động của công ty đạt hiệu quả cao nhất.
+ Hệ số khả năng thanh toán nhanh:

23


Hệ số này phản ánh chặt chẽ hơn khả năng thanh toán của doanh nghiệp, ở đây
HTK bị loại ra bởi trong tài sản ngắn hạn thì HTK được coi là loại tài sản có tính thanh
khoản thấp.
Ngoài ra, để phục vụ cho quá trình phân tích người ta còn sử dụng kết hợp với
các chỉ tiêu tài chính khác như: tỷ suất tài trợ, tỷ suất đầu tư, tỷ suất lợi nhuận trên
doanh thu.
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp

Hiệu quả sử dụng vốn là mối quan hệ giữa doanh thu, lợi nhuận và vốn bỏ ra.
“Làm sao để với một số vốn đầu tư hiện có sẽ nâng cao được doanh thu và tạo ra nhiều
lợi nhuận nhất ?” là câu hỏi luôn được đặt ra trong các doanh nghiệp. Do đó, khi xét đến
hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp thì một điều không thể bỏ qua đó là xét các
nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Có rất nhiều nhân tố

ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Các nhân tố này được chia làm
hai nhóm: khách quan và chủ quan.
1.2.4.1.

Những nhân tố khách quan

 Trạng thái phát triển kinh tế:
Sự ổn định hay không ổn định của nền kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, tới doanh thu của doanh nghiệp, từ đó ảnh
hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn. Khi nền kinh tế ổn định và tăng trưởng tới tốc độ nào
đó thì các hoạt động đầu tư được mở rộng, thị trường vốn ổn định, sức mua của thị
trường lớn. Điều đó sẽ tạo điều kiện để doanh nghiệp phát triển với nhịp độ phát triển
chung của nền kinh tế, do đó sẽ làm tăng doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp.
Ngược lại, khi nền kinh tế có những biến động có khả năng gây ra những rủi ro
trong kinh doanh hay khi nền kinh tế suy thoái thì thất nghiệp khủng hoảng, phá sản
xảy ra, khi đó doanh nghiệp khó có điều kiện phát sản xuất kinh doanh và do đó ảnh tới
hiệu quả sử dụng vốn.

 Cơ chế quản lý và các chính sách kinh tế của nhà nước:
Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, mọi doanh nghiệp được tự do lựa chọn
ngành nghề kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật và khả năng của mình. Nhà
nước tạo hành lang pháp lý và môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển sản
phẩm sản xuất kinh doanh theo ngành nghề mà doanh nghiệp đã lựa chọn và hướng các

24


hoạt động đó theo chính sách quản lý kinh tế vĩ mô. Vì vậy, chỉ một thay đổi nhỏ trong
cơ chế quản lý và chính sách của nhà nước đều trực tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng đến
hoạt động kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng của doanh nghiệp.

Một số chính sách kính tế vĩ mô của nhà nước như :
- Chính sách lãi suất: Lãi suất tín dụng là một công cụ để điều hành lượng cung
cầu tiền tệ, nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc huy động vốn và hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp. Khi lãi suất tăng làm chi phí vốn tăng, nếu doanh nghiệp không có
cơ cấu vốn hợp lý, kinh doanh không hiệu quả thì hiệu quả sử dụng vốn, nhất là với
phần vốn vay giảm sút. Ở nước ta cho đến nay vẫn đang thi hành chính sách lãi suất có
sự can thiệp trực tiếp của nhà nước: Nhà nước ổn định mức lãi suất cơ bản và đưa ra
biên độ giao động đối với lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay. Theo đó, nếu lãi suất tiền
gửi cao chứa đựng yếu tố tích cực là giúp cho việc phân phối lại thu nhập trong quảng
đại quần chúng nhưng lại là việc khó khăn cho việc huy động vốn đầu tư sản xuất và
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
- Chính sách tỷ giá: Tỷ giá hối đoái vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ,
vừa biểu hiện cung cầu về ngoại tệ. Đến lượt mình, tỷ giá lại tác động cung cầu ngoại tệ,
điều tiết sản xuất qua việc thúc đẩy hoặc hạn chế sản xuất hàng hoá nhập khẩu hay
xuất khẩu. Mặt khác, bản thân tỷ giá hối đoái cũng tác động đến thu nhập của doanh
nghiệp xuất nhập khẩu. Nếu tỷ giá của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ cao hơn sẽ
kích thích xuất khẩu, làm tăng hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh và ngược lại. Do đó,
khi tỷ giá thay đổi, có doanh nghiệp thu lãi nhưng cũng có doanh nghiệp thu lỗ.
- Chính sách thuế: Thuế là công cụ quan trọng của nhà nước để điều tiết kinh
tế vĩ mô nói chung và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng. Chính sách
thuế của nhà nước tác động trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Bởi vì, mức thuế cao hay thấp sẽ làm cho phần lợi nhuận sau thuế nhiều hay it,
do đó ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Tóm lại, sự thay đổi cơ chế quản lý và chính sách kinh tế của nhà nước đã gây rất
nhiều khó khăn cho việc sử dụng vốn kinh doanh có hiệu quả cao trong doanh nghiệp.
Song nếu doanh nghiệp nhanh chóng nắm bắt được những thay đổi và kịp thời thích
nghi thì sẽ đứng vững trên thị trường, cạnh tranh với các doanh nghiệp khác và có điều
kiện để phát triển và mở rộng kinh doanh phát huy khả năng sáng tạo trong quản lý
và điều hành hoạt động kinh doanh của mình.


 Sức mua của thị trường:

25


×