Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

luận án đình làng thế kỷ XVII XVIII ở gia lâm (hà nội) những giá trị lịch sử và văn hóa (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.59 KB, 28 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÙI THẾ QUÂN

ĐÌNH LÀNG THẾ KỶ XVII – XVIII Ở GIA LÂM (HÀ NỘI)
NHỮNG GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VÀ VĂN HÓA

Chuyên ngành: Khảo cổ học
Mã số: 62 22 03 17

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHẢO CỔ HỌC

Hà Nội, 2016


Công trình được hoàn thành tại:
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. TS. LÊ ĐÌNH PHỤNG
2. PGS.TS. NGUYỄN VĂN TIẾN

Người phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Quốc Hùng
Người phản biện 2: PGS.TS. Lâm Thị Mỹ Dung
Người phản biện 3: TS. Nguyễn Văn Đoàn

Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện, họp tại:
Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam


Số 477 đường Nguyễn Trãi, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội
Vào hồi…………………
Ngày

tháng

năm 2016

Có thể tìm luận án này tại:
Thư viện Quốc gia
Thư viện Học viện Khoa học xã hội


DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA
TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Bùi Thế Quân (2010), “Nghĩa Trụ - từ dòng chảy địa lý
đến dòng chảy lịch sử - văn hóa”, Tạp chí Dân tộc học,
số 4 (165), tr.19-30.

2. Bùi Thế Quân (2010), “Một vài ẩn số trong các di tích
và lễ hội truyền thống trên địa bàn quận Long Biên, Hà
Nội”, Tạp chí Di sản văn hóa số 1 (30), tr.72 – 80.

3. Bùi Thế Quân (2010), “Một dòng sông cổ với di sản
văn hóa”, Tạp chí Di sản văn hóa số 4 (33), tr. 54 – 59.

4. Thế Quân, Nguyễn Đạt (2012), “Vài nét về đình và
chùa Hội Xá (quận Long Biên - Hà Nội)”, Tạp chí Di
sản văn hóa số 1 (38), tr. 86 – 88.


5. Bùi Thế Quân (2012), “Chùa Đào Xuyên, phái Lâm Tế
- một vài suy ngẫm”, Tạp chí Di sản văn hóa số 4 (41),
tr.89 – 93.

6. Bùi Thế Quân (2013), “Qua mấy ngôi đình làng ven
sông Đuống, trên đất Long Biên”, Tạp chí Di sản văn
hóa số 2 (43), tr. 91- 96.


7. Bùi Thế Quân (2014), “Đình Ninh Giang (Gia Lâm, Hà
Nội) – Những giá trị nghệ thuật và kiến trúc”, Tạp chí
Khảo cổ học số 5 – 2014, tr.66 – 73.

8. Bùi Thế Quân (2015), “Hai ngôi đình có niên đại Cảnh
Trị (Gia Lâm - Hà Nội) trong so sánh với các ngôi đình
ở Bắc Ninh”, Tạp chí Khảo cổ học số 6 – 2015, tr.79 –
85.

9. Bùi Thế Quân (2015), “Về đình làng thế kỷ XVII –
XVIII ở Gia Lâm, Hà Nội”, Tạp chí Di sản văn hóa số 4
(53), tr.36 - 39.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
- Thời gian gần đây các di tích lịch sử văn hóa như: các di chỉ khảo cổ
học, các địa điểm ghi dấu chứng tích lịch sử, các công trình kiến trúc nghệ
thuật v.v…đã và đang là đối tượng được đặc biệt quan tâm nghiên cứu,
trong đó có đình làng.

- Nghiên cứu đình làng và khai thác các giá trị của đình làng dưới góc độ
khảo cổ học lịch sử sẽ góp phần cung cấp nguồn tư liệu khoa học cho việc bảo
tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của làng Việt cổ truyền.
- Những ngôi đình làng thế kỷ XVII - XVIII ở Gia Lâm là những công
trình có nhiều giá trị về lịch sử - văn hóa. Mặc dù những ngôi đình này đã
được xếp hạng di tích cấp quốc gia, song đến nay chưa có một công trình
nghiên cứu nào toàn diện, sâu sắc từ góc độ khảo cổ học.
Tác giả chọn đề tài: “Đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm (Hà
Nội) - những giá trị lịch sử và văn hoá” là đối tượng để nghiên cứu của luận
án này.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án đặt ra bốn mục tiêu nghiên cứu như sau:
- Tập hợp, hệ thống hóa tư liệu và kết quả nghiên cứu của các tác giả đi
trước nghiên cứu về đình làng nói chung và đình làng thế kỷ XVII - XVIII
ở Gia Lâm (Hà Nội).
- Nghiên cứu, đánh giá giá trị lịch sử và những giá trị văn hóa – nghệ
thuật được biểu hiện dưới dạng vật thể và phi vật thể của các đình làng thế
kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm, tìm ra những đặc trưng cơ bản của các di tích
này, xác định vai trò của nó đối với cộng đồng làng xã và các vùng lân cận.
- Xác định niên đại khởi dựng qua tư liệu và phong cách nghệ thuật.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá
trị văn hóa, lịch sử của các ngôi đình này.
1


2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khảo sát điền dã, ghi vẽ hiện trạng kiến trúc và tổng hợp các tài
liệu nghiên cứu đã có để xác định và hệ thống hoá đặc điểm cơ bản của
đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm.

- Thống kê, khảo tả hiện trạng kiến trúc, trang trí trên kiến trúc làm
cơ sở đánh giá giá trị về lịch sử, văn hoá của các đình làng thế kỷ XVII –
XVII ở Gia Lâm trong đời sống xã hội, làm cơ sở cho việc thực hiện các
nghiên cứu tiếp theo.
- Thu thập những thông tin về những đình làng khác ở Gia Lâm,
vùng phụ cận liên quan để so sánh sự tương đồng và khác biệt về kiến trúc
và trang trí kiến trúc.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tập trung nghiên cứu tổng quan và chuyên sâu về 5 đình làng tiêu
biểu thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm (Hà Nội). Cụ thể là đình Xuân Dục
(xã Yên Thường), đình Tình Quang (phường Giang Biên), đình Thanh Am
(phường Thượng Thanh), đình Trân Tảo (xã Phú Thị), đình Công Đình (xã
Đình Xuyên).
- Mở rộng đối tượng nghiên cứu đến một số đình làng khác ở Gia Lâm
và phụ cận để so sánh các giá trị lịch sử, văn hóa cùng các giá trị chính trị xã hội của các ngôi đình làng trong đời sống xã hội hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển cùng
giá trị văn hóa nghệ thuật của các đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm
(Hà Nội) từ khi khởi dựng cho đến nay. Đặc điểm kiến trúc, hệ thống di vật
trong đình làng.
- Phạm vi thời gian và không gian: Tập trung khảo sát, nghiên cứu các
đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm ( Hà Nội), sau đó mở rộng phạm
vi nghiên cứu đối với các di tích đình làng ở khu vực phụ cận liên quan.

2


4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận

- Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được sử dụng
để lý giải các vấn đề thuộc lịch sử, văn hoá và quá trình hình thành, phát
triển của đình làng Việt Nam và đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm.
- Phương pháp được triển khai qua những tiếp cận đa ngành, liên
ngành, trong đó chú trọng việc kết hợp giữa các tiếp cận nghiên cứu khảo
cổ học, sử học, mỹ thuật học, dân tộc học, bảo tàng học, văn hóa học với
ứng dụng khoa học kỹ thuật trong việc đánh giá hiện trạng, ghi vẽ kiến trúc.
4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án
- Phương pháp tập hợp, hệ thống hóa những kết quả nghiên cứu của các
tác giả, các công trình nghiên cứu có liên quan của tác giả đi trước.
- Phương pháp Khảo cổ học truyền thống: điều tra, quan sát, tham dự,
miêu tả, đo vẽ, chụp ảnh, phỏng vấn, nghiên cứu các tư liệu cổ, tư liệu Hán
Nôm liên quan...
- Phương pháp điền dã thực tiễn từ đời sống xã hội của các cộng đồng
dân cư ở trong các làng xã, dòng họ nơi các di tích tồn tại và phát triển.
- Phương pháp khảo cứu trực tiếp tại các đình làng thông qua các hoạt
động lễ hội tín ngưỡng thường niên và các hoạt động văn hóa – xã hội đã và
đang diễn ra tại các đình làng ở Gia Lâm.
- Phương pháp so sánh, phân tích tổng hợp tư liệu.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án chính là công trình đầu tiên giới thiệu có hệ thống và đầy đủ
về di tích đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm (Hà Nội) dưới góc độ
Khảo cổ học.
- Luận án xác định tổng quan giá trị lịch sử - văn hóa của các di tích
thông qua tài liệu và phong cách nghệ thuật.
- Nghiên cứu toàn diện giá trị lịch sử, văn hóa của đình làng thế kỷ
XVII – XVIII ở Gia Lâm (Hà Nội), góp phần bổ sung và làm rõ những

3



nghiên cứu về đình làng thế kỷ XVII – XVIII và đình làng Việt Nam nói
chung.
- Kết quả nghiên cứu của luận án cũng góp một phần quan trọng trong
việc xác định, đánh giá vai trò của hệ thống di tích lịch sử - văn hóa nói
chung, hệ thống di tích đình làng nói riêng trong quá trình đô thị hóa, Công
nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước ở một địa bàn quan trọng của Thủ đô,
góp phần bảo tồn và phát huy giá trị của di tích.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Đóng góp vào lịch sử nghiên cứu về đình làng Việt Nam nói chung,
đình làng ở Gia Lâm (Hà Nội) nói riêng từ góc độ kiến trúc, trang trí kiến
trúc với giá trị lịch sử và văn hoá dưới góc độ khảo cổ học. Thông qua việc
so sánh sự tương đồng và khác biệt để thấy rõ cái riêng và cái chung của
đình làng ở Gia Lâm so với các đình làng khác trong vùng và đình làng
cùng niên đại thế kỷ XVII – XVIII vùng phụ cận liên quan.
- Thông qua nghiên cứu khảo cổ học, luận án cung cấp thông tin đầy
đủ hơn về cấu trúc, niên đại xây dựng đình làng, bước phát triển về đình
làng Việt Nam và đặc biệt bổ sung vào “phần khuyết’’ ngôi đình đầu thế
kỷ XVII, những ngôi đình thời Vĩnh Trị, Cảnh Trị làm cơ sở nở rộ các ngôi
đình làng vào thời Chính Hòa.
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp cơ sở khoa học
cho các hoạt động về bảo tồn và phát huy giá trị của chính những ngôi đình
làng nói riêng và các di tích đình, đền, chùa nói chung trong điều kiện hiện
nay.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
nghiên cứu của luận án được chia làm ba chương: :
Chương 1.Đình làng Việt Nam và lịch sử nghiên cứu (33 trang).
Chương 2.Đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm (62 trang)
Chương 3.Những giá trị lịch sử - văn hoá của các đình làng ở Gia Lâm

thế kỷ XVII – XVIII (53 trang)
4


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Vài nét về đình làng
Trong các công trình kiến trúc tín ngưỡng, tôn giáo ở mỗi làng quê
Việt Nam, đình làng có một vị trí quan trọng. Đây là công trình kiến trúc
tín ngưỡng chung mang đặc tính riêng Việt của mỗi cộng đồng, được xây
dựng trên vị trí trang trọng, linh thiêng nhất, quy mô lớn và đảm nhận
nhiều chức năng khác nhau. Theo nhiều nhà nghiên cứu đình làng là công
trình kiến trúc công cộng của làng xã, dùng làm nơi diễn ra các hoạt động
chính trị tinh thần – văn hóa xã hội của nhân dân ở nông thôn làng xã dưới
thời phong kiến. Với vị thế đó ngôi đình đã trở thành một trong những
công trình có vẻ oai nghiêm nhất trong phong cảnh Việt Nam, và được coi
là nơi hội tụ của nguồn gốc tư tưởng Việt thuần khiết.
1.1.1. Khái quát nguồn gốc và sự hình thành, phát triển của đình
làng Việt Nam
- Ý kiến của Nguyễn Văn Huyên đình làng có nguồn gốc từ đình trạm.
- Ý kiến của Chu Quang Trứ cho rằng đình làng không có nguồn gốc
từ đình trạm.
- Ý kiến thứ ba cho rằng đình làng là một kiểu nhà chung, một sản
phẩm của làng kiểu trung đại từ sau Lê Sơ.
- Ý kiến của L.Bezacier cho đình làng Việt Nam là một trong những
vết tích của người Anh-đô-nê-diêng xưa kia cư trú ở miền Đông Nam Á, về
sau có một số ảnh hưởng của Trung Hoa ghép thêm vào.
- Hà Văn Tấn cho rằng: “Mặc dù còn thiếu chứng cứ, ta tin rằng đình –
ngôi nhà chung của làng xã đã xuất hiện từ lâu đời, nếu không phải là thời
tiền sử thì cũng là thời sơ sử của dân tộc. Tất nhiên thời đó chưa được gọi

là đình, một từ vay mượn của Trung Hoa”.
- Khẳng định những quán đình chắc chắn không phải là nguồn gốc của
đình làng.
5


Theo nhiều sử liệu, vào thế kỷ XV từ nhu cầu quản lý hành chính của
triều đình đối với đơn vị hành chính làng, với sự gia nhập của vị Thành
Hoàng vào công trình kiến trúc công cộng. Có thể cho rằng, đây là tiền đề
của ngôi đình làng về sau.
1.1.2. Chức năng và vai trò của đình làng trong đời sống văn hoá
Việt Nam
Đình làng có ba chức năng cơ bản, đó là:
- Chức năng tín ngưỡng thờ thành hoàng làng của cộng đồng làng
xã.
- Chức năng là trung tâm hành chính của chính quyền làng xã thời
phong kiến.
- Chức năng là trung tâm văn hóa làng của cộng đồng làng xã.
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.2.1. Nghiên cứu về đình làng trước năm 1954
Dưới thời Pháp thuộc, có một số học giả phương Tây, điển hình là
P.Giran, Clayes J.Y, P.Gourou... Về phía Việt Nam có Nguyễn Văn Huyên,
Nguyễn Bá Lăng, Nguyễn Văn Khoan...
Trước năm 1954, đình làng ít được quan tâm nghiên cứu. Một số học
giả nêu trên, nghiên cứu về đình làng chỉ tập trung vào hai lĩnh vực: tín
ngưỡng và kiến trúc nghệ thuật. Kết quả mới chỉ dừng lại nghiên cứu cơ
bản.
1.2.2. Nghiên cứu về đình làng từ năm 1954 đến nay
Từ sau cách mạng tháng Tám (1945), nghiên cứu đình càng được quan
tâm nhiều hơn. Đặc biệt sau năm 1954 nhiều cán bộ khoa học mới đã đi

sâu hơn về đình làng, song chủ yếu chỉ dừng lại ở mô tả. Tới tận những
năm 60 của thế kỷ XX, lực lượng nghiên cứu mới đã phát triển mạnh.
Đáng chú ý, nghiên cứu về đình làng dưới góc độ tín ngưỡng, nghệ thuật
có một bước tiến lớn so với thời kỳ trước năm 1954. Nghiên cứu đình làng
có một số luận án dưới góc độ khảo cổ học như Trịnh Cao Tưởng, Nguyễn
Anh Tuấn, Phan Xuân Thành, Nguyễn Hồng Kiên.
6


1.2.3. Tình hình nghiên cứu về đình làng ở Gia Lâm
Một số luận văn nghiên cứu đơn lẻ, độc lập từng ngôi đình và mới chỉ
dừng lại bước đầu tìm hiểu đưa ra một số nhận xét nhất định, chưa có tính
nghiên cứu tổng thể.
Các tham luận tại các hội thảo về đình làng ở Gia Lâm mục đích chủ yếu
phục vụ cho công tác quy hoạch, tu bổ, tôn tạo di tích.
Một số cuốn sách “Di tích lịch sử văn hoá và cách mạng kháng chiến
quận Long Biên’’, “Cổ vật Long Biên’’, “Di tích lịch sử văn hoá – cách
mạng kháng chiến huyện Gia Lâm’’. Những ngôi đình được giới thiệu trong
sách nói trên và cả trong hồ sơ xếp hạng di tích cũng chỉ mang tính chất sơ lược.
1.3. Khái niệm thƣờng sử dụng trong luận án
- Thuật ngữ sử dụng trong kiến trúc: Gian, chái, dĩ, chân tảng, cột, bộ
vì, hiên, xà dọc, vì giá chiêng, câu đầu, đầu dư, con rường, ván nong/dong,
hoành mái, guốc/dép hoành, cốn chồng rường, bẩy hiên, tàu má, rui,
mè/gộprui, ván gió...
- Thuật ngữ sử dụng trong nghệ thuật: Hình tượng,, hình tượng nghệ
thuật, nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật dân gian truyền thống, nghệ nhân, họa
tiết, hoa văn, chạm, chạm thủng, chạm nông, chạm kênh bong, chạm lộng,
chạm nổi.
1.3. Tiểu kết chƣơng 1
Đình làng từ trước đến nay đã có một lịch sử nghiên cứu khá dày và

công phu của nhiều tác giả. Các tác giả tập trung nghiên cứu đình làng:
- Nghiên cứu đình làng tiếp cận về kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc.
Các tác giả nghiên cứu mang tính tổng quan, cơ bản đã đưa ra đặc điểm
riêng Việt của loại hình kiến trúc đình làng. Với những kết quả nghiên cứu
về kỹ thuật chạm khắc, đề tài trang trí là cơ sở để xác định khung niên đại
cho kiến trúc đình làng, đồng thời làm nền tảng cho việc nghiên cứu từng
đình làng cụ thể.
- Nghiên cứu đình làng tiếp cận dưới góc độ dân tộc học, văn hóa, tín
ngưỡng đã đạt được những thành tựu nổi bật về vai trò, chức năng của đình
làng: chức năng hành chính, tín ngưỡng và văn hóa cộng đồng làng. Điều
7


này cho ta thấy sức hấp dẫn về giá trị về lịch sử, văn hoá của đình làng.
Điều này cho ta thấy sức hấp dẫn và các giá trị về lịch sử, văn hoá thông
qua kiến trúc và trang trí trên kiến trúc đình làng.
- Nghiên cứu về đình làng tiếp cận dưới góc độ khảo cổ học mới chỉ có
một số tác giả đề cập. Các luận án này nghiên cứu về đình làng trong không
gian rộng, thời gian dài từ thế kỷ XVI đến XVIII, đã bước đầu khái quát diện
mạo loại hình kiến trúc đặc trưng trong kiến trúc cổ truyền dân tộc. Đặc biệt
nghiên cứu đình làng ở châu thổ Bắc Bộ sẽ là những tư liệu chân xác góp phần
đối chiếu về đặc điểm kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc trang trí cho các ngôi
đình ở Gia Lâm.
- Những vấn đề nghiên cứu đình làng ở Gia Lâm mới chỉ dừng lại
mang tính chất miêu tả và khái lược giá trị, chưa nêu được tính tổng quan
có tính hệ thống và chuyên biệt.
- Luận án đã giới thiệu chung về nguồn gốc ngôi đình, cũng như
vai trò của nó trong đời sống xã hội và tinh thần của người dân làng Việt,
đánh dấu một bước phát triển của cơ cấu làng xã cổ truyền. Nó là biểu
tượng của tính cộng đồng và dân chủ làng xã, là trung tâm văn hóa, là nơi

tập trung và lưu truyền các giá trị văn hóa dân tộc, các phong tục tập quán
tốt đẹp của cộng đồng làng.
CHƢƠNG 2
ĐÌNH LÀNG THẾ KỶ XVII – XVIII Ở GIA LÂM
2.1. Vài nét về vị trí địa lý và lịch sử vùng đất Gia Lâm
2.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
2.1.1.1.Vị trí địa lý
Gia Lâm là huyện ngoại thành và nằm ở phía Đông Bắc Thủ đô Hà
Nội. Ngăn cách nội thành Hà Nội bởi sông Hồng. Huyện Gia Lâm có 31 xã
và 4 thị trấn được giới hạn như sau: phía Đông, Đông Bắc giáp với tỉnh
Bắc Ninh; phía Nam, Đông Nam giáp tỉnh Hưng Yên; phía Tây giáp sông
Hồng (nối với trung tâm Hà Nội qua cầu Long Biên, Chương Dương,
8


Thanh Trì; cầu Đuống, cầu Phù Đổng nối các tỉnh phía Bắc); phía Bắc giáp
huyện Đông Anh.
2.1.1.2. Điều kiện tự nhiên
* Địa hình:
Địa hình Gia Lâm tương đối bằng phẳng, thấp dần từ Tây Bắc xuống
Đông Nam theo hướng chung của địa hình vùng đồng bằng Bắc Bộ và theo
hướng của dòng chảy sông Hồng.
Sông Hồng và sông Đuống tạo thuận lợi về giao thông đường thuỷ.
* Khí hậu, thuỷ văn:
Từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau là mùa đông lạnh, thời kỳ đầu thường
hanh khô nhưng đến nửa cuối của mùa đông lại thường ẩm ướt.
Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 23 - 24OC. Biên độ nhiệt trong
năm khoảng 12 - 13 OC, biên độ dao động nhiệt giữa ngày và đêm khoảng 6
- 7OC.
Độ ẩm trung bình hàng năm khoảng 82%, ít thay đổi theo các tháng,

thường chỉ dao động trong khoảng 78- 87%. Lượng mưa trung bình năm
khoảng 1.600 - 1.800 mm.
Sự chênh lệch lớn về mực nước giữa mùa khô và mùa lũ cũng ảnh
hưởng nhất định đến nông nghiệp sinh thái ở các vùng bãi. Nhìn chung đây
là vùng châu thổ được hình thành bởi hệ thống sông ngòi chằng chịt. Địa
hình tương đối bằng phẳng nên vị trí xây dựng các công trình kiến trúc,
trong đó có đình làng được lựa chọn trên những vùng đất cao, thuận tiện
giao thông đường thủy, đường bộ, đáp ứng yêu cầu phong thủy của kiến
trúc.
2.1.2. Vài nét về lịch sử vùng đất Gia Lâm
Tên gọi Gia Lâm bắt đầu vào thời Lý (1010- 1225). Sau đó quận
Gia Lâm đổi thành huyện, có lẽ vào thời Trần. Lỵ sở huyện Gia Lâm lần
lượt đóng ở các xã Đặng Xá, Phú Thị, Ái Mộ, Trường Lâm và hiện nay ở
Trâu Quỳ. Các thời Lý – Trần (1010 – 1400) huyện Gia Lâm thuộc phủ
Thiên Đức lộ Bắc Giang. Đời Lê Thánh Tông (1466), huyện Gia Lâm chia
9


về phủ Thuận An thuộc Thừa tuyên Bắc Giang, sau đó đổi là trấn Kinh
Bắc. Thời Nguyễn Minh Mệnh (1822) huyện Gia Lâm, phủ Thuận An
thuộc trấn Bắc Ninh. Năm 1831 trấn Bắc Ninh đổi là tỉnh Bắc Ninh. Năm
1862, huyện Gia Lâm chia về phân phủ Thuận Thành thuộc tỉnh Bắc Ninh.
Năm Duy Tân thứ 6 (1912) huyện Gia Lâm chia về phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc
Ninh. Tháng 2 năm 1949, huyện Gia Lâm thuộc về tỉnh Hưng Yên. Tháng
11 năm 1949 huyện Gia Lâm lại thuộc về tỉnh Bắc Ninh. Đến 31 tháng 5
năm 1961, huyện Gia Lâm nhập về ngoại thành Hà Nội. Ngày 06 tháng 11
năm 2003, Gia Lâm tách một phần để thành lập quận Long Biên.
2.2. Những đình làng tiêu biểu ở Gia Lâm thế kỷ XVII - XVIII
2.2.1. Tổng quan về hệ thống đình làng ở Gia Lâm
Theo số liệu thống kê năm 2014, ở Gia Lâm có 335 di tích lịch sử - văn

hoá. Trong đó đình làng là 123. Số lượng đình được phân bố không đồng
đều giữa các xã, phường, thị trấn. Hầu như làng nào cũng có đình.
Trong hệ thống đình làng ở Gia Lâm nêu trên, có 5 ngôi đình: Xuân
Dục, Tình Quang, Thanh Am, Công Đình, Trân Tảo tiêu biểu về kiến trúc,
nghệ thuật điêu khắc trang trí và niên đại xây dựng.
2.2.2. Những đình làng tiêu biểu thế kỷ XVII - XVIII
2.2.2.1.Đình Xuân Dục
- Đình Xuân Dục hiện có quy mô kiến trúc lớn, thể hiện qua diện tích
mặt bằng và chiều cao vượt trội trên kiến trúc xóm làng. Đình có quy
hoạch khá độc đáo, kiểu chữ Công, gồm đại đình, thiêu hương và hậu
cung. Đặc điểm gian giữa đình rất lớn với số đo (4,00m x 4,25m) và gian
chái với kích thước cắt dọc là 4,95m. Đây là ngôi đình có quy mô lớn.
- Đề tài trang trí: “Ngũ phúc khánh tiền”, sen, hồi văn, lá cúc lật, nhành
cúc, nhành mai, cụm mây, viền lá đề, vân xoắn, rồng, Tứ linh, Tứ quý, chữ
Thọ cách điệu, động vật, cảnh sinh hoạt: chuốc rượu, múa hát, người cưỡi
ngựa, tiên cưỡi rồng, “Lưỡng long triều nhật (nguyệt)”, “Lưỡng long với
nàng tiên”, “Bát bửu”.
- Từ những truyền thuyết về lịch sử xây dựng đình, qua khảo sát và so
sánh về mặt bằng kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc trang trí. Đặc biệt sự so
10


sánh “cánh gà’’, “ván lá gió’’ còn lại ở hai gian cạnh gian giữa với hình
thức chạm nổi, bong kênh, thể hiện đề tài rồng, tiên cưỡi rồng, lưỡng long
triều nguyệt có nét tương đồng, kế thừa phong cách kiểu cánh gà ở đình Tây
Đằng, đình Thanh Lũng (niên đại thế kỷ XVI) và như cầu nối với những
cánh gà của một số kiến trúc có niên đại vào cuối thế kỷ XVII mà điển hình
ở đình Công Đình. Trong đó có sự so sánh nét tương đồng về trang trí của
“cánh gà’’ đình Phù Lưu (Từ Sơn, Bắc Ninh). Về hiện vật, đình Xuân Dục
còn lưu giữ nhiều sắc phong có niên đại sớm, trong đó có sắc niên đại Cảnh

Trị thứ 8 (1671). Đã cho thấy niên đại xây dựng đình Xuân Dục vào đầu thế
kỷ XVII theo tư liệu lịch sử là phù hợp.
2.2.2.2. Đình Công Đình
- Đình Công Đình có quy mô vừa phải so với các ngôi đình cùng niên
đại như đình Trân Tảo.
- Đề tài trang trí: Rồng, “Lưỡng long triều hổ phù”, phượng chầu mặt
trời, rồng, cúc mãn khai, cánh sen, “Tứ linh”, “Trúc hóa long”, “Mai hóa
long”.
- Lòng bụng 2 câu đầu gian giữa toà đại đình có ghi rõ: “Tuế thứ Mậu
Thân thập nhị nguyệt nhị thập lục nhật Dần thời thụ trụ thượng lương đại
cát hảo” (Giờ Dần ngày 26 tháng 12 năm Mậu Thân dựng cột cất nóc rất là
tốt lành) và “Cảnh Trị lục niên thập nhị nguyệt nhị thập lục nhật...” (Ngày
26 tháng 12 năm Cảnh Trị thứ 6 tức năm 1668) (bản ảnh số 30). Qua phong
cách nghệ thuật trang trí với hình thức chạm nổi, chạm lộng ở “cánh gà”,
đầu dư về đề tài rồng và cửa võng chạm đề tài “Lưỡng long triều hổ phù”
của đình Công Đình có sự tương đồng với nghệ thuật trang trí những ngôi
đình cùng thời. Từ đó khẳng định đình Công Đình khởi dựng năm 1668.
Đây là bằng chứng khảo cổ học quan trọng để nghiên cứu những ngôi đình
có cùng phong cách nghệ thuật. Theo truyền thuyết tại địa phương về xây
dựng đình so với tư liệu lịch sử là phù hợp.
2.2.2.3. Đình Tình Quang
Với 6 hàng chân cột của một kiến trúc 5 gian 2 chái, với mặt cắt dọc là
26,68m. Đây là ngôi đình có quy mô lớn, phản ánh đương thời làng Tình
11


Quang khá giàu có, thể hiện rõ nét về sự phát triển nghệ thuật kiến trúc
đình làng thuộc xứ Bắc.
- Đề tài trang trí: Rồng, rồng ổ, lân, lân bắt rắn, uống rượu, “Tiên nữ
cưỡi rồng”, cụm mây, vân xoắn, hạt tròn, lá cúc lật, phượng, sóng nước,

“trúc hóa long”.
- Đình Tình Quang hiện chưa tìm thấy tài liệu ghi niên đại khởi dựng.
Nhưng bằng vào sự so sánh trí kiến trúc đình Công Đình và nghệ thuật
điêu khắc trang trí đình Trân Tảo (Phú Thị). Với các đề tài trang trí ở các
cốn là những hình tượng “Tiên cưỡi rồng’’, các cảnh sinh hoạt dân gian
như uống rượu, rồi chạm khắc trên các đầu dư, đầu kẻ hiên hình tượng
rồng, phượng, lân, ly, trúc hóa long cho thấy nó tương đồng với nghệ thuật
trang trí đình Trân Tảo (có niên đại chính xác năm Cảnh Trị nguyên niên
1663). Từ những truyền thuyết về xây dựng đình, qua khảo sát và so sánh
về mặt bằng kiến trúc, nghệ thuật trang trí kiến trúc nêu trên cho thấy niên
đại xây dựng đình Tình Quang trước thời Chính Hòa (1680 – 1705) theo tư
liệu lịch sử là phù hợp.
2.2.2.4. Đình Trân Tảo
Đánh giá đặc điểm: tuy chỉ có 3 gian, 2 chái với 4 hàng chân cột nhưng
các bước gian rất lớn: gian giữa 4,63m và các gian bên đều trên 4m. Như
vậy, khoảng rộng của gian cơ bản đã tạo không gian rộng.
- Đề tài trang trí: Vân xoắn, lá cúc, lá đề, tùng, hạc, rồng, lân, ly, cua,
cá, ếch, rùa, dải mây, “Tứ linh”, sen, “tiên cưỡi rồng”, hồi văn có kèm đồ
thờ, cúc mãn khai, chim, hổ, nai, chồn, sóc, sóng nước, “Tam đa”( dơi,
hươu, tùng), cây cỏ.
- Trang trí kiến trúc đình Trân Tảo có những chủ đề “Tiên cưỡi rồng’’,
Hổ vồ nai, quản tượng, các cảnh sinh hoạt dân gian ở các cốn như ở đình
Tình Quang. Các đầu dư chạm rồng có nét tương đồng với đầu dư đình
Công Đình (khởi dựng năm 1668). Đặc biệt trên câu đầu gian giữa còn lưu
lại dòng lạc khoản ghi rõ niên đại khởi dựng “Tuế tại Lê triều Quý Mão
niên thập nhị nguyệt Ất Sửu nhị thập nhị nhật Canh Thân thụ trụ thượng
lương đại cát” (Dựng cột cất nóc vào ngày 22 (ngày Canh Thân) tháng 12
12



(tháng Ất Sửu) năm Quý Mão triều Lê tức năm 1663). Có thể khẳng định,
đình Trân Tảo được khởi dựng vào năm 1663. Như vậy so với truyền
thuyết xây dựng đình của nhân dân địa phương là phù hợp.
So với đình Tình Quang thì đây là ngôi đình có quy mô khá đồ sộ,
khoảng cách các gian khá đồng đều (gian giữa và các gian bên), tuy nhiên
gian chái vẫn lớn hơn so với các gian khác. Đó là đặc điểm để đáp ứng nhu
cầu, chức năng của nó.
- Đề tài trang trí: Vân xoắn, lá cúc, rồng, “Tứ linh”, “Tứ quý”, “Mai
hóa long”, “Trúc hóa long”, “Tùng hóa long”, “Cúc hóa long”, đào, lựu,
chữ Thọ cách điệu.
- Từ những truyền thuyết về lịch sử xây dựng đình qua khảo sát và so
sanh về mặt bằng kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc trang trí. Đặc biệt, hiện
trên thân cột vẫn còn dấu tích mộng sàn. Một số đầu dư được chạm nổi,
bong kênh, lộng với đề tài rồng có nét tương đồng với đầu dư đình Tình
Quang. Cho thấy niên đại ngôi đình được xây dựng vào cuối thế kỷ XVII –
đầu thế kỷ XVIII theo tư liệu lịch sử là phù hợp.
2.3. Tiểu kết chƣơng 2
Những đặc điểm đình làng tiêu biểu thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm:
- Về vị trí xây dựng ở khá gần sông. Đình Xuân Dục, đình Thanh Am,
đình Tình Quang, đình Công Đình nằm gần sông Thiên Đức (sông Đuống
hiện nay), đình Trân Tảo gần sông Cầu Giàng (Nghĩa Giang). Đồng thời
các ngôi đình đều được dựng trên một thế đất thoáng rộng theo thuật phong
thủy. Đình thường quay hướng Nam, Tây Nam, Đông Nam tức là có yếu tố
Nam.
- Khởi đầu, những ngôi đình này chỉ có tòa đại đình kết cấu hình chữ
“Nhất’’, dưới thời Nguyễn bổ sung các hạng mục khác như thiêu hương,
hậu cung, tả - hữu vu, phương đình để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt cộng
đồng và do biến động về chức năng của đình làng.
- Đại đình thường có 5 gian, 2 chái với 6 hàng chân cột. Gian giữa
thường lớn hơn các gian cạnh để phục vụ tế lễ. Gian chái lớn hơn các gian

khác vì nó có kẻ góc, cốn góc để tạo đầu đao, mái hồi. Vậy thì những ngôi
13


đình này thường có tầu đao, lá mái. Đình Trân Tảo chỉ có 3 gian, 2 chái với
4 hàng chân cột. Như vậy, cũng có đình to, đình nhỏ do phụ thuộc vào 2
yếu tố cơ bản: điều kiện kinh tế và số lượng dân đinh ít nhiều.
- Khởi dựng đình sử dụng sàn gỗ, sau này thay thế bằng lát nền
gạch.Chưa sử dụng tường bao, ván đố mà để trống xung quanh. Tường bao
chỉ bổ sung dưới thời Nguyễn.
- Tỷ lệ so sánh giữa chiều cao từ nóc thượng lương xuống nền so với
chiều cao từ giọt gianh xuống nền gần gấp trên dưới 3 lần. Chứng tỏ thân
đình thấp, mái đình rộng.
- Tỷ lệ phân chia hoành mái thường theo kiểu thức “Thượng tứ, hạ
ngũ’’. Mực dù đình Trân Tảo có 4 hàng chân nhưng chia khoảng hoành
“Thượng tứ, hạ ngũ”. Bên cạnh đó Công Đình, có 6 hàng chân cột nhưng
lại chia khoảng hoành thành “Thượng tam, hạ tứ”. Như vậy việc phân chia
khoảng hoành không phụ thuộc vào kích thước cắt ngang mà do từng quan
niệm của địa phương.
- Về điêu khắc trang trí, những ngôi đình này có nhiều chủ đề miêu tả
cảnh sinh hoạt dân gian, những hình tượng con thú, cây cỏ, hoa lá. Hình
tượng rồng chiếm số lượng lớn trong các mảng trang trí. Đi kèm với rồng là
những đao mác, vân xoắn. Chưa thấy hình tượng rùa, đặc biệt chưa có đề tài
“Tứ linh” trong các mảng trang trí.
- Kỹ thuật điêu khắc thường sử dụng chạm lộng, chạm bong.
- Trong 5 đình làng tiêu biểu, đình Xuân Dục dựng đầu thế kỷ XVII,
đình Trân Tảo và Công Đình được khởi dựng dưới thời Cảnh Trị (1663 –
1671). Đình Tình Quang có khả năng đình Tình Quang khởi dựng cùng thời
với đình Trân Tảo và Công Đình. Riêng đình Thanh Am, có khả năng dựng
cuối thế kỷ XVII, sang đầu thế kỷ XVIII

Chƣơng 3
NHỮNG GIÁ TRỊ LỊCH SỬ - VĂN HÓA CỦA ĐÌNH LÀNG Ở
GIA LÂM THẾ KỶ XVII - XVIII
3.1. Những đặc trƣng của đình làng thế kỷ XVII - XVIII ở Gia Lâm
3.1.1. Vị trí xây dựng
14


Đình làng thế kỷ XVII - XVIII bao giờ đình cũng được xây dựng ở bìa
làng, một nơi thoáng đãng, phía trước thường là cánh đồng, cánh bãi,
không bị nhà dân che mặt, gần sông nước.
Những đình làng ở Gia Lâm thế kỷ XVII – XVIII thường quay hướng
Nam, hướng Tây hoặc hướng Tây Nam.
3.1.2. Quy mô kiến trúc
Từ những tư liệu trên cho thấy, gian giữa các đình đều lớn hơn so với
các gian bên. Gian chái có số đo lớn hơn các gian khác. Khoảng mặt cắt
ngang giữa các cột cái với cột cái là lớn nhất tuy không thống nhất giữa các
đình. Về cơ bản khoảng cách giữa các cột cái với cột quân đều trên 2,00m;
khoảng cách giữa các cột quân với cột hiên khoảng từ trên 1,20m. Đình
làng ở Gia Lâm thế kỷ XVII – XVIII có quy mô khá lớn so với các loại
hình di tích khác.
3.1.3. Nghệ thuật điêu khắc trang trí
Trong điêu khắc trang trí trên kiến trúc, những ngôi đình này có những
đặc trưng chung ở hai khía cạnh:
- Kỹ thuật chạm khắc: đa phần trang trí trên các ngôi đình sử dụng kỹ
thuật chạm lộng, bong kênh ở đầu dư, nghé, đầu kẻ, cốn, cánh gà. Những
đường nét chạm khắc chắc khỏe, khối gọn, mềm mại và ấm cúng.
- Đề tài trang trí khá phong phú phản ánh nhiều mặt đời sống tinh thần
xã hội là những cảnh sinh hoạt cộng đồng, phản ánh tính dân gian rất cao.
Bên cạnh đó có đề tài tùng, trúc, ít nhiều có tác động của tầng lớp nho sĩ.

- Đề tài thể hiện nhiều nhất là hình tượng rồng, mây, vân xoắn. Mặc dù
trong trang trí có rất nhiều hình tượng rồng, lân, ly, phượng nhưng chưa
thấy hình tượng rùa để tạo thành bộ “Tứ linh” hoàn chỉnh.
3.1.4. Niên đại của các ngôi đình
- Chưa phát hiện được ngôi đình nào xây dựng trước thế kỷ XVII
mà chủ yếu được dựng từ nửa cuối thế kỷ XVII trở về sau.
- Cũng trong giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVII đã phát hiện nhiều
đình làng ở Gia Lâm dựng trước thời Chính Hòa.
15


- Đình làng ở Gia Lâm thế kỷ XVII – XVIII được ra đời trong bối
cảnh chung của sự nở rộ các đình làng.
3.2. Đình làng ở Gia Lâm thế kỷ XVII – XVIII trong hệ thống kiến
trúc đình làng Việt Nam
3.2.1. Mối quan hệ với hệ thống đình làng ở Gia Lâm
3.2.1.1. Vị trí xây dựng
- Về vị trí xây dựng, đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm thường
ở gần các dòng sông. Đến thời Nguyễn nhiều đình xây dựng xa sông hiện
tượng tách làng, những làng này không ở gần sông.
Từ thời Nguyễn về sau, hướng của các ngôi đình cũng đa dạng, không
theo truyền thống, mà đình hướng ra đường cái. Có lẽ do nhận thức truyền
thống bị suy lạc, mang tính thực dụng hoặc giai đoạn này ngôi đình do
chuyển chức năng nặng tính Đền thờ nhiều hơn.
3.2.1.2. Quy mô kiến trúc
Đình làng ở Gia Lâm thế kỷ XVII – XVIII vẫn là công trình kiến trúc
có quy mô lớn hơn các ngôi đình được xây dựng sau này. Ngoại trừ một số
làng có công trình khác to lớn như đền, chùa do triều đình cho xây dựng
hoặc có sự tham góp của một số quý tộc như chùa đền Bà Tấm (Dương
Xá), chùa Đại Dương tức chùa Sủi (Phú Thị), đền Gióng (Phù Đổng).

3.2.1.3. Nghệ thuật điêu khắc trang trí
Những ngôi đình này phản ánh khá rõ nét bối cảnh xã hội đương thời,
mà nổi lên trên hết là ước vọng khát khao của người nông dân về cuộc
sống ấm no, hạnh phúc. Ước vọng cầu mưa, cầu mùa cho mùa màng bội
thu của cư dân nông nghiệp lúa nước thông qua hình tượng rồng, mây. Ước
vọng của con người để vươn tới cuộc sống tốt đẹp, tồn tại cùng đất trời, thể
hiện sức sống vĩnh cửu thông qua việc cầu Thọ, cầu Phúc với những hình
ảnh về cây Tùng, con Hạc, con Dơi. Trên trang trí kiến trúc chưa thấy
những hình tượng miêu tả chiến tranh, chắc rằng đây hẳn là ước vọng hoà
bình v.v.. và còn nhiều những ước mơ khác nữa.
Những đình làng ở Gia Lâm được dựng dưới thời Nguyễn vắng hẳn
những đề tài trang trí như cảnh sinh hoạt múa hát dân gian, những hươu,
16


hổ... mà thay vào đó những đề tài có tính quy phạm, đề cao phú quý như
“Tứ linh”, “Tứ quý”...
Về kỹ thuật chạm khắc, những đình làng thế kỷ XVII – XVIII thường
sử dụng lối chạm bong, chạm lộng thì sang thời Nguyễn lại thường sử dụng
chạm nông, chạm soi đường chỉ hoặc một số trường hợp chạm lộng sử dụng
trong đề tài “Bát vật”. Những đề tài “Tứ linh” ở các Cốn thường sử dụng
chạm nổi, phần đầu các con vật thường được tạo riêng (chạm tròn) sau đó
gắn vào phần thân. Đường nét chạm khắc của những đình làng thế kỷ XVII
– XVIII tạo sự chắc khỏe, mập mạp, ấm cúng bao nhiêu thì kỹ thuật chạm
khắc dưới thời Nguyễn có vẻ đơn giản, sắc nét nhưng có phần gai góc. Đây
là đặc điểm khác biệt cơ bản về nghệ thuật điêu khắc trang trí so với những
đình làng được sửa chữa hoặc làm mới dưới thời Nguyễn trong hệ thống
đình làng ở Gia Lâm.
3.2.1.4. Niên đại
Sau thời Chính Hòa đến hết thế kỷ XVIII, ở Gia Lâm cũng chưa tìm

thấy ngôi đình nào được khởi dựng. Chỉ đến thời Cảnh Hưng, một số đình
làng được tu sửa. Sang thời Nguyễn, một số đình được xây dựng nhưng
chủ yếu vẫn là việc tu sửa, mở rộng quy mô các hạng mục Hậu cung,
Phương đình, Tả - Hữu vu và một số công trình phụ trợ khác.
3.2.2. Mối quan hệ với hệ thống kiến trúc đình làng Việt Nam
3.2.2.1. Vị trí xây dựng
Hầu hết các đình làn Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII đều
được dựng ở không gian thoáng đãng, cao hơn xung quanh, thường ở bìa
làng, phía trước có đầm ao, xa hơn là cánh đồng cánh bãi để đình không bị
che bởi nhà dân. Vị trí dựng đình được chọn theo quan niệm “phong thủy”
trong tín ngưỡng truyền thống.
3.2.2.2.Quy mô kiến trúc
Đình làng xây dựng thời Mạc có quy mô kiến trúc không lớn như
đình Tây Đằng (xứ Đoài), đình Lỗ Hạnh (xứ Kinh Bắc) là một vài trường
hợp điển hình. Chỉ bước sang thế kỷ XVII, với sự nở rộ của nó ở cuối thế

17


kỷ XVII, đầu XVIII thì những đình làng được ra đời với quy mô kiến trúc
lớn.
Do lệ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế và nhận thức của từng làng xã nên đã
xây dựng đình to, đình nhỏ khác nhau. Các khoảng hoành được phân chia
không thống nhất, có đình chia khoảng hoành kiểu “thượng tam, hạ tứ”, có
đình chìa kiểu “thượng tứ, hạ ngũ”. Đây là đặc điểm của từng đình, từng địa
phương, không chỉ ở Gia Lâm.
Một điểm khác là theo thời gian khởi dựng: khởi đầu đình làng không
có tường bao mà chủ yếu có gác thờ lửng, hậu cung kiểu chuôi vồ còn ít
thấy được xuất hiện ở thế kỷ XVII - XVIII này.
3.2.2.3.Nghệ thuật điêu khắc trang trí

Những đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm nói riêng và đình làng
trước đó và đồng đại ở Việt Nam nói chung được chạm khắc nhiều đề tài
mang tính biểu tượng phản ánh ước vọng muôn đời muôn thuở của người
nông dân Việt. Đó là ước vọng được mùa trên nền tảng trí tuệ.
Một đặc điểm trên trang trí kiến trúc, chưa thấy xuất hiện hình tượng
rùa (là một trong “Tứ linh”). Đây cũng là đặc điểm của những ngôi đình
đồng đại và trước đó ở châu thổ Bắc Bộ. Hiện chúng ta mới tìm thấy bộ “tứ
linh” tạm thời có niên đại sớm nhất trên khánh đồng chùa Lâm Phúc (Hoài
Đức, Hà Nội), niên đại Cảnh Hưng thứ 6 (1745).
Qua nghệ thuật điêu khắc trang trí, có thể thấy ước vọng cầu mưa, cầu
mùa cho mùa màng bội thu của cư dân nông nghiệp lúa nước thông qua
hình tượng rồng, mây. Ước vọng của con người là cao cả để vươn tới cuộc
sống tốt đẹp, họ đã mong sự tồn tại cùng đất trời, như thể hiện sức sống
vĩnh cửu thông qua việc cầu Thọ, cầu Phúc là những hình ảnh về cây Tùng,
con Hạc, con Dơi. Trên trang trí kiến trúc chưa thấy những hình tượng
miêu tả chiến tranh, chắc rằng đây hẳn là ước vọng hoà bình v.v.. và cùng
nhiều ước mơ khác.
3.3. Giá trị lịch sử và văn hóa của các ngôi đình ở Gia Lâm
3.3.1 Những giá trị lịch sử

18


Đình làng ở Gia Lâm (Hà Nội) nói riêng và đình làng Việt Nam nói
chung ra đời là hiện tượng lịch sử xã hội Việt Nam.
Đình là công trình của tập thể, và về mặt nào đó, có gắn với chế độ
ruộng công, trong nhiều trường hợp, khi làng xã quyết định dựng đình, thì
tất cả dân đinh, nghĩa là mọi người được chia ruộng công, đều có nghĩa vụ
phải đóng góp.Những ngôi đình ở Gia Lâm thế kỷ XII, đầu thế kỷ XVIII
thường ở ven các dòng sông giao thương như sông Hồng, sông Đuống, sông

Nghĩa Trụ và các chi lưu của nó, mặt nào đó cho thấy đương thời kinh tế
thủ công nghiệp và thương mại đã có vẻ như tương đối phát triển, mặc dù,
nền kinh tế này vẫn nằm trong phạm trù kinh tế nông nghiệp.
Sau thời Chính Hòa, chúng ta khó có thế tìm thấy ngôi đình nào được
xây dựng mới ở Gia Lâm. Có thể nói rằng, chính từ sự kiêm tính ruộng đất
đã đè nén đến cuộc sống người nông dân, về cơ bản họ bị kiêm tính ruộng
đất đã dẫn đến các cuộc khởi nghĩa nông dân nổi dậy. Một trong những
cuộc khởi nghĩa nông dân ấy, ở Gia Lâm là một trong những địa bàn của
khởi nghĩa quận He Nguyễn Hữu Cầu? Chính bởi vậy, sự vắng bóng của
kiến trúc đình làng ở Gia Lâm giai đoạn này đã phản ánh thực tế của lịch sử
xã hội đương thời.
Sang thời Nguyễn, sau chiến tranh, trên đất Bắc cũng khá ổn định cho
nên một số nơi cũng được dựng đình mới mà trên đất Gia Lâm, cũng bắt
gặp ngôi đình Trạm dựng năm Gia Long thứ 17 (1818) và đình Nha dựng
năm Minh Mệnh thứ 3 (1822). Từ đó người ta có thể coi như hiện tượng ra
đời của đình làng đã đánh dấu bàn tay chính trị của tầng lớp thống trị muốn
thò xuống xã thôn một cách mạnh mẽ và chặt chẽ hơn, đó là một con đường
phát triển để củng cố sự thống nhất của cộng đồng.
Như vậy, thông qua kiến trúc đình làng cũng đã phần nào phản ánh tình
hình kinh tế của làng xã đương thời. Bên cạnh đó phản ánh vấn đề lịch sử,
trong mối quan hệ giữa triều đình phong kiến trung ương tập quyền với
cộng đồng làng quê thông qua thành hoàng làng và các vấn đề xã hội.
3.3.2. Những giá trị văn hóa
Thành hoàng làng được triều đình phong sắc chức năng vương cũng là
nâng cao vị thế “Thánh nhân”. Chính bởi vậy đình làng thế kỷ XVII 19


XVIII ở Gia Lâm thường quay hướng có yếu tố Nam. Một mặt, nó ứng xử
với khí hậu nhiệt đới gió mùa, mặt khác hướng nam còn được hiểu là
“Nam phương Thánh diện nhi thính thiên hạ” tức là Thánh nhân quay về

hướng nam mà nghe lời tỏ bày, cầu mong của chúng dân thiên hạ.
Đình thường dựng ở bìa làng trước hết để tránh nhà dân che mặt nhưng
ở mặt nào đó, đình dựng ở bìa làng là không gian giữa thiên nhiên và xã
hội. Hai yếu tố tự nhiên và xã hội trong một thể thống nhất làm cân bằng
mối quan hệ.
Vị trí của đình cao mang yếu tố dương, ao, hồ, giếng phía trước thuộc
âm. Đây vừa ảnh hưởng của thuật phong thủy, vừa ảnh hưởng của thuyết
“âm dương ngũ hành”. Tức là âm dương giao hòa mới sinh sôi phát triển.
Đình làng với không gian rộng, đảm bảo phục vụ lễ hội, thông qua hội
làng và các sinh hoạt văn hóa khác đã gắn kết các thành viên của cộng
đồng làng xã.
Đình làng là ngôi nhà công cộng của làng xã, chính bởi vậy kiến trúc
đình làng bao giờ cũng lớn hơn kiến trúc nhà dân, đình làng cũng tương tự
như nhà Rông ở Tây Nguyên.
Đình làng thế kỷ XVII - XVIII ở Gia Lâm cũng như các đình làng khác
đương thời thường không lát nền mà có sàn gỗ. Yếu tố không lát nền cho
thấy, đây còn ảnh hưởng của thuyết âm dương. Nếu lát nền thì âm dương
không giao hòa, âm dương cách trở, không thông được tam tầng thế giới,
không dài dòng lớn họ được.
Về mặt điêu khắc trang trí đình làng thế kỷ XVII - XVIII còn để lại
những mảng chạm khắc với nhiều đề tài phong phú, đa dạng như linh vật:
rồng, lân, phượng, các con vật: hổ, rắn, chim muông, hoa lá, cây cỏ..., rồi
những biểu tượng thiêng như đao mác, vân xoắn. Đặc biệt là hình tượng
con người: trẻ con, “Tiên cưỡi rồng”... Những đề tài trang trí ấy là bức
tranh sống động phản ánh những ước vọng của người dân đương thời.
Thông qua nghệ thuật điêu khắc trang trí đình làng ở Gia Lâm, có
thể thấy rằng đây là những tác phẩm đồ sộ, một kho tàng di sản văn hóa
khổng lồ của dân tộc.
20



3.4. Định hƣớng hoạt động đối với các di tích đình làng thế kỷ
XVII – XVIII ở Gia Lâm
3.4.1. Tác động đô thị hóa của Thủ đô đến hệ thống di tích và các di
tích đình làng
Tác động việc thay đổi cơ cấu tổ chức và cung cách quản lý thôn làng
trước đây bằng quản lý hành chính, đô thị
- Tác động về sự xáo trộn về dân cư (do người các nơi về mua đất tại
làng và người làng chuyển đi nơi khác) làm suy giảm tính thuần nhất, đồng
nhất trong cộng đồng cư dân.
- Đất đai ngày càng có giá, làm cho các di tích dễ bị xấm lấn hoặc bị
tác động về mặt xây dựng của cư dân đe dọa đến không gian, cảnh quan
kiến trúc của di tích.
- Không gian kiến trúc của làng ngày càng bị thu hẹp do sức ép của
việc xây dựng nhà, ảnh hưởng đến việc tổ chức các hoạt động văn hóa, lễ
hội.
- Trong bối cảnh đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ , tác động sự gắn kết
mọi người thường xuyên bị “hút” vào vòng quay của nhịp sống công
nghịêp, nhịp sống đô thị sôi động, ít có điều kiện giao lưu, tiếp xúc với
nhau thường ngày.
3.4.2. Tổ chức quản lý, hoạt động tại các đình làng ở Gia Lâm
- Thành lập và thường xuyên kiện toàn Ban quản lý di tích, Tiểu ban
quản lý di tích và xây dựng quy chế hoạt động:
- Xây dựng quy định quản lý di tích, đất đai, tài sản di tích.
- Định kỳ báo cáo tình hình, những biến động tại di tích.
3.4.3. Định hướng bảo tồn và phát huy giá trị của di tích ở Gia Lâm
- Xây dựng đề án dài hạn và trung hạn về “Tăng công tác quản lý –
đầu tư nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của di tích lịch sử văn hóa”.
- Quy hoạch tổng thể, lập tổng mặt bằng làm cơ sở cho quản lý đất
đai, tu bổ di tích, xếp hạng di tích.


21


×