Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Đề cương ôn tập về tôn giáo tín ngưỡng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.26 KB, 9 trang )

MƠN: TƠN GIÁO TÍN NGƯỠNG
Câu hỏi: Chủ nghĩa Mác-Lênin về tơn giáo trong chủ nghĩa xã hội và quan
điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tơn giáo ở Việt Nam hiện nay.
Bài làm:
Việt nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng, tơn giáo, với khoảng 22
triệu tín đồ. Sự đa dạng về tơn giáo, tín ngưỡng đã góp phần làm phong phú, đặc
sắc nền văn hố Việt Nam, nhưng cơng tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tơn
giáo, tín ngưỡng cũng phức tạp hơn. Tơn giáo là vấn đề tâm linh, thuộc lĩnh vực
đời sống tinh thần. Tuy nhiên, các sinh hoạt tín ngưỡng tơn giáo có ảnh hưởng rất
lớn đến sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy, việc giải quyết đúng đắn
vấn đề tôn giáo là yêu cầu cấp bách của sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Nó đòi
hỏi phải nghiên cứu kỹ những quan điểm của chủ nghóa Mác - Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và những biến đổi thực tiễn CM nước ta về vấn đề tôn giáo.
Về quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về tơn giáo trong CNXH:
Theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng: Tơn giáo là một hình thái ý
thức xã hội, phản ánh hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan; qua sự phản ánh
của tơn giáo những lực lượng tự phát của tự nhiên và xã hội thành sức mạnh siêu
nhiên, có quyền uy tối thượng và vơ hình, tác động đến một cộng đồng có tổ chức.
Tơn giáo có bản chất sau:
Xét về phương diện là một hình thái ý thức xã hội, thì: tất cả mọi tơn giáo
chẳng qua là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc con người, của những lực lượng
ở bên ngồi chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó
những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế.
Trên phương diện là một hiện tượng xã hội, tơn giáo có bản chất: sự nghèo
nàn của tơn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng
chống lại sự nghèo nàn của hiện thực ấy. Tơn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị
áp bức, là trái tim của thế giới khơng có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của
những trật tự khơng có tinh thần. Tơn giáo là thuốc phiện của nhân dân.
Nguồn gốc của tơn giáo bao gồm: nguồn gốc kinh tế - xã hội; nguồn gốc
nhận thức và nguồn gốc tâm lý.
Tơn giáo có các tính chất sau:


Tính lịch sử: tơn giáo có một q trình ra đời tồn tại và mất đi trong những
điều kiện lịch sử nhất định.
Tính chất quần chúng: Tơn giáo đáp ứng đa số đời sống tinh thần của đa số
quần chúng nhân lao động.
Tính chất chính trị: Tơn giáo thể hiện rất rõ trong xã hội phân chia giai cấp.
Về giải quyết vấn đề tơn giáo: Trước hết đòi hỏi những người cộng sản phải
có thái độ khách quan, thận trọng. Đấu tranh chống lại các thành kiến tơn giáo thì
phải cực kỳ thận trọng; trong cuộc đấu tranh này ai làm tổn thương đến tình cảm
tơn giáo, người đó sẽ gây thiệt hại lớn. Cần phải đấu tranh bằng tun truyền,
bằng giáo dục.


Chỉ có đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân, thu hút rộng rãi, toàn diện
các giai tầng trong xã hội vào cuộc đấu tranh tự giác cách mạng mới có thể thật sự
giải phóng cho bị áp bức khỏi ách tôn giáo, còn tuyên chiến với tôn giáo, coi là
nhiệm vụ chính trị của đảng công nhân, thì nó sẽ bị thất bại.
Chủ nghĩa Mác - Lênin nêu ra một số phương pháp giải quyết vấn đề tôn
giáo như sau:
Một là, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền
với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Hai là, tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tính ngưỡng và không tín ngưỡng
của nhân dân, đồng thời chống việc lợi dụng tôn giáo.
Ba là, cần phải có quan điểm lịch sử khi giải quyết vấn đế tôn giáo.
Bốn là, phân biệt mặt chính trị và tư tưởng trong giải quyết vấn đề tôn giáo.
Về quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo ở Việt
Nam hiện nay:
Đặc điểm tôn giáo ở nước ta: Việt Nam là một quốc gia có nhiều hình thức
tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau đang tồn tại. Tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam có
tính đan xen, hoà đồng, khoan dung. Hệ thống tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam có
yếu tố nữ. Tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam tôn vinh những người có công với gia

đình, với làng xã và đất nước. Tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam hầu hết là nông dân
lao động. Một số tôn giáo bị các thế lực phản động trong nước và ngoài nước lợi
dụng vì mục đích chính trị.
Trong những năm qua tôn giáo ở nước ta đã đạt được một số kết quả,
song vẫn còn nhiều khó khăn hạn chế cần khắc phục, nó thể hiện qua một số
điểm sau:
Về kết quả đạt được:
Đồng bào tôn giáo có nhiều đóng góp trong quá trình xây dựng và bảo vệ tổ
quốc.
Nhìn chung Đảng, Nhà nước ta đã xây dựng được chủ trương, đường lối,
chính sách lãnh đạo tôn giáo theo pháp luật.
Các cấp, các ngành đã chủ động, tích cực thực hiện các chủ trương, đường
lối, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước.
Công tác tôn giáo góp phần ngăn chặn các hoạt động lợi dụng tôn giáo
chống phá Đảng, Nhà nước.
Về những khó khăn, hạn chế:
Hoạt động tôn giáo còn có diễn biến phức tạp và tiềm ẩn nhân tố mất ổn
định.
Một số người chưa tuân thủ pháp luật còn truyền đạo trái phép và tuyên
truyền mê tín dị đoan.
Một số nơi nhất là vùng dân tộc thiểu số, một số người lợi dụng tôn giáo để
hoạt động chống đối, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định
chính trị.
Những khó khăn, hạn chế trên do một số nguyên nhân chủ yếu sau:


Thứ nhất, là do các thế lực thù địch tranh thủ giành giật lôi kéo tín đồ, lợi
dụng tôn giáo.
Thứ hai, đó là sự chậm đổi mới về nội dung, phương thức hoạt động của
công tác tôn giáo. Các chủ trương, chính sách của Đảng về công tác tôn giáo chậm

được cụ thể hoá, thể chế hoá. Một số cấp uỷ, chính quyền, cán bộ làm công tác tôn
giáo còn chủ quan, nôn nóng, coi nhẹ về công tác tôn giáo. Đội ngũ cán bộ làm
công tác tôn giáo còn thiếu, còn yếu.
Với những kết quả đạt được, những khó khăn, hạn chế và nguyên nhân
của những khăn, hạn chế đó. Đảng, Nhà nước ta đã có những quan điểm,
chính sách về tôn giáo trong giai đoạn hiện nay, như sau:
Về phương hướng: Hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo phải nhằm tăng
cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát
huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc, vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Về quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về tôn giáo trong giai
đoạn hiện nay có những nội dung cơ bản sau:
Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân,
đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Hai là, Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc,
không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần
chúng.
Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Năm là, vấn đề theo đạo và truyền đạo.
Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp
pháp theo quy định của pháp luật.
Các tổ chức tôn giáo được nhà nước thừa nhận được hoạt động theo pháp
luật và được pháp luật bảo hộ, được hoạt động tôn giáo, mở trường đào tạo chức
sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sách và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự
tôn giáo của mình theo đúng quy định của pháp luật.
Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải
tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo,

hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm
các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và cách thức truyền đạo trái phép, vi
phạm các quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Các chính sách cụ thể về tôn giáo được quy định trong các văn bản quy
phạm pháp luật như sau:
Đối với sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của tín đồ: Tín đồ các tôn giá được tự
do sinh hoạt tôn giáo tại gia đình và nơi thờ tự, nghiêm cấm việc phân biệt, đối xử,


được đảm bảo các điều kiện như có chức sắc, nơi thờ tự, có kinh sách phục vụ sinh
hoạt tôn giáo.
Đối với hoạt động của chức sắc, nhà tu hành: chức sắc, nhà tu hành được đi
lại hoạt động bình thường trong phạm vi phụ trách, là người chịu trách nhiệm trước
pháp luật về các hoạt động tôn giáo trong phạm vi phụ trách.
Đối với các tổ chức tôn giáo: Các tổ chức tôn giáo có đường hướng hành
đạo gắn bó với dân tộc, có tôn chỉ mục đích, có Hiến chương, Điều lệ phù hợp với
luật pháp, có cơ cấu tổ chức hợp lý và bộ máy nhân sự đảm bảo tốt cả hai mặt đạo
và đời được xem xét để cho phép hoạt động.
Đối với các hoạt động về tổ chức: các tổ chức tôn giáo hợp pháp về tổ chức,
được tiến hành các hoạt động như tổ chức đại hội, hội nghị, mở trường đào tạo
chức sắc, phong chức, suy cử, bổ nhiệm và điều chuyển chức sắc...
Đối với các tôn giáo tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội: Các chức sắc,
nhà tu hành được hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội như mọi công dân theo quy
định của pháp luật.
Đối với hoạt động quốc tế của tôn giáo: Nhà nước tôn trọng mối quan hệ
quốc tế của các tôn giáo. Quan hệ quốc tế của các tôn giáo phải tôn trọng chủ
quyền, pháp luật của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và thông lệ quốc tế.
Giải pháp thực hiện chính sách tôn giáo trong tình hình mới:
- Tiếp tục thống nhất nhận thức, nâng cao trách nhiệm cho các cấp uỷ Đảng,
chính quyền, MTTQ, đoàn thể nhân dân, đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo và

quần chúng nhân dân, tín đồ, chức sắc các tôn giáo, quan điểm chính sách của
Đảng và pluật nhà nướcvề tôn giáo.
- Chú trọng nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về công tác tôn giáo. Tiếp
tục hoàn thiện chính sách pháp luật về tôn giáo phù hợp với quan điểm, chính sách
của Đảng và nhà nước và tình hình thực tiễn trong giai đoạn phát triển mới của đất
nước.
- Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt tôn giáo theo
hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được nhà nước công nhận đúng các
quy định của pháp luật.
- Chủ động phòng ngừa, đấu tranh với việc lợi dụng tôn giáo, tránh nóng vội
hoặc hữu khuynh, thụ động trong giải quyết các vụ việc liên quan đến tôn giáo.
Đẩy mạnh công tác vận động quần chúng với những hình thức, phươngthức phù
hợp.
- Tập trung chỉ đạo, tạo sự chuyển biến tích cực hơn nữa về kt – xh, không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào vùng sâu, vùng xa,
trong đó có đồng bào theo đạo trên cơ sở đó tăng cường lòng tin của đồng bào với
Đảng và nhà nước, tránh để kẻ thù lôi kéo đồng bào.
- Tiếp tục củng cố, xây dựng hệ thốg chính trị ở cơ sở trong vùng đồng bào
có đạo vững mạnh, đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên là người có đạo. Coi
trọng côngtác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và có chính sách đãi ngộ đặc thù đối với
cán bộ làm côngtác tôn giáo.
- Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền quan điểm, chính sách tôn giáo
của Đảng và nhà nước; đồng thời tăng cường các hoạt động đối ngoại tôn giáo làm


cho cộng đồng người VN ở nước ngoài và các nước trên thế giới hiểu đúng chính
sách tôn giáo của Đảng và nhànước CHXHCNVN./.
*/ Liên hệ chính sách tôn giáo, dân tộc ở Lào Cai
Lào Cai là tỉnh miền núi, biên giới Tây Bắc, có diện tích tự nhiên 6.3873,7
km2, chiếm 1,92% diện tích cả nước, là tỉnh có diện tích lớn thứ 19/63 tỉnh, thành

phố của Việt Nam với tổng dân số: 615.620 người, bình quân 96,4 người/km2.
Toàn tỉnh có 25 dân tộc sinh sống (dân tộc Kinh chiếm 37,31%; Dân tộc Mông
chiếm 21,27%; Dân tộc Tày chiếm15,25%; Dân tộc Dao chiếm 13,34%, còn lại là
các dân tộc khác chiếm 12,83%.
Do các yếu tố địa lý, lịch sử, hiện nay ở Lao Cai có khoảng 3.553 hộ/19.521
khẩu/8 huyện có dân theo đạo Tin lành và đạo Liên hữu cơ đốc. Từ 2005 đến nay,
thực hiện Chỉ thị số 01/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, tỉnh Lào Cai đã cho
phép 34 điểm/ 1.178 hộ/4.592 khẩu trong 50 thôn, xã, thị trấn thuộc 5 huyện đăng
ký sinh hoạt đạo tập trung. Gần đây đạo Tin lành và đạo Liên hữu cơ đốc hoạt
động có những diễn biến phức tạp, đã có một số hành động chống đối với cấp uỷ,
chính quyền địa phương. Thường xuyên quan hệ chặt chẽ với Hội thánh Tin lành
miền Bắc và Tin lành miền Nam để nhận sự chỉ đạo, tài liệu, kinh phí, vật chất,...
phục vụ truyền đạo như ở huyện Bảo Thắng, Sa Pa, Bảo Yên, Bắc Hà,...Họ liên tục
làm đơn đề nghị với cấp uỷ chính quyền các cấp đòi thành lập Hội thánh và tự do
truyền đạo, tự bầu ra các đối tượng cầm đầu phụ trách các điểm truyền đạo, như ở
thị trấn Phong Hải, Bảo Thắng; xã Hầu Thào, Tả Phìn, Sa Pa; xã Dền Thàng huyện
Bát Xát; Điện Quan, huyện Bảo Yên,…họ tự xây dựng nhà nguyện trên bình
phong nhà ở, chờ thời cơ công khai chuyển thành nhà truyền đạo trái phép. Đến
nay trên địa bàn tỉnh Lào Cai thường xuyên có khoảng 42 điểm học đạo tập trung
và có 32 nhà nguyện bình phong; tổ chức dạy võ thuật cho những thanh niên theo
đạo Tin lành, thành lập các hội nhánh chi hội liên giáo hạt ở các địa phương, tụ tập
đông người để cầu nguyện và phổ biến kinh nghiệm truyền đạo. Ngoài ra, họ còn
lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo phát tán nhiều tài liệu, băng hình phản động có
nội dung chia rẽ dân tộc, đăng tin, bài trên báo điện tử và gửi cho đài RFA, RFI vu
cáo chính quyền địa phương vi phạm chính sách dân tộc, tôn giáo, nhân quyền để
kêu gọi quốc tế can thiệp, hỗ trợ. Lợi dụng tự do tín ngưỡng, chúng tuyên truyền
lập các Blog cá nhân nói xấu Đảng, chính quyền địa phương, nói xấu chế độ. Đặc
biệt bọn cầm đầu cực đoan trong phái Tin lành miền Bắc và Liên hữu cơ đốc đã
móc nối với bọn phản động trong và ngoài nước kích động, lôi kéo người Mông di
cư tự do sang Lào thực hiện âm mưu lập “nhà nước Mông tự trị” ở Bắc Lào.

Trước tình hình trên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh Lào Cai
luôn xác định: thực hiện tốt chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo và đại đoàn kết


dân tộc là vấn đề chiến lược có tầm quan trọng đặc biệt, nên đã đề ra nhiều giải
pháp và các biện pháp thiết thực để thực hiện tốt chính sách tín ngưỡng, tôn giáo
của Đảng với những nguyên tắc nhất quán là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, đoàn kết gắn bó giữa đồng bào dân tộc thiểu số với đồng bào
theo đạo trong các xã, bản bảo đảm ổn định chính trị, phát triển sản xuất, vì cuộc
sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Tinh thần đó được thể hiện bằng các chỉ thị,
nghị quyết và kế hoạch thực hiện của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, HĐND, UBND các
cấp và được cụ thể hoá bằng các giải pháp, kế hoạch phù hợp với yêu cầu, nhiệm
vụ trong từng năm của tỉnh.
Hơn 25 năm thực hiện đường lối đổi mới xây dựng phát triển KT-XH của tỉnh
Lao Cai, những nguyên tắc cơ bản về thực hiện chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo
của Lao Cai lại càng được thể hiện rõ. Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Tỉnh vừa qua, Tỉnh
uỷ đã khẳng định quan điểm: Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo đường lối của Đảng và chính sách của Chính
phủ. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng
bào không theo tôn giáo. Chăm lo phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, nâng cao đời sống
của đồng bào dân tộc ở các xã. Tỉnh uỷ, UBND đã duy trì và thực hiện tốt chính sách
tín ngưỡng, tôn giáo; nhiều chính sách đã thực sự đi vào cuộc sống nhằm đảm bảo cho
đồng bào các dân tộc, tôn giáo thực hiện được quyền tự do tín ngưỡng theo đúng pháp
luật, thực sự bình đẳng về mọi mặt. Đồng thời nghiêm cấm sự phân biệt đối xử đối với
công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để
hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật, chính sách của Nhà nước, kích
động, chia rẽ đồng bào các dân tộc, tôn giáo; gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia. Mọi
tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp, theo quy định
của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận đã hoạt động theo pháp
luật và được pháp luật bảo hộ, được mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản

kinh sách và giữ gìn, sửa chữa cơ sở thờ tự tôn giáo của mình theo đúng quy định của
pháp luật.
Những năm gần đây, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ và được sự quan tâm của
các cấp, các ngành, các địa phương trong toàn tỉnh, tình hình KT-XH, văn hoá, an
ninh, quốc phòng của Lao Cai đã có nhiều chuyển biến quan trọng và khởi sắc. Cơ
sở hạ tầng của nền kinh tế quốc dân như: mạng lưới điện, giao thông, thuỷ lợi, bưu
chính- viễn thông, phát thanh-truyền hình, trường học, bệnh viện,...đã được xây
dựng và phát triển nhanh. Các vấn đề về đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội, nhất là
công tác xoá đói giảm nghèo ở các xã vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, vùng có giáo dân sinh sống được cấp uỷ, chính quyền các cấp quan tâm
giải quyết và thực hiện có hiệu quả. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội được bảo đảm. Đời sống của đồng bào các tôn giáo và tín đồ tôn giáo được


quan tâm và ngày càng có nhiều hộ gia đình bà con biết vươn lên làm giàu chính
đáng bằng chính sức lao động của mình.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nhìn chung tình hình KTXH ở Lào Cai vẫn còn nhiều khó khăn, phát triển chưa đồng đều, chưa vững chắc.
Đời sống của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là đồng bào Mông ở các
bản vùng núi cao biên giới vẫn còn nhiều thiếu thốn; một số vấn đề bức xúc trên các
lĩnh vực đời sống văn hoá, xã hội chậm được giải quyết. Một bộ phận đồng bào tôn
giáo do dân trí thấp, trình độ canh tác còn lạc hậu, thiếu kinh nghiệm sản xuất, thiếu
đất canh tác..., từ đó dẫn đến số hộ nghèo vẫn còn, làm cho mức sống của đồng bào
còn gặp nhiều khó khăn. Sâu xa hơn là do cấp uỷ, chính quyền cấp xã, bản chưa huy
động tốt các nguồn lực để tập trung đầu tư đúng mức về cơ sở hạ tầng và chưa khắc
phục kịp thời những khó khăn, hạn chế trong thực hiện chính sách tự do tín ngưỡng,
tôn giáo ở địa phương, nên chưa tạo được những chuyển biến lớn trong phát triển
sản xuất, cải thiện đời sống, nâng cao dân trí đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số
và đồng bào tôn giáo... Lợi dụng tình hình đó, kẻ địch và các phần tử xấu triệt để
khai thác, khoét sâu mâu thuẫn trong nhân dân để kích động, phá hoại, chia rẽ khối
đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo. Điều đáng chú ý là những năm gần đây, các thế

lực thù địch đang ra sức câu kết, móc nối, nuôi dưỡng lực lượng chống lại chính
sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, phá hoại sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc XHCN của nhân dân ta. Bằng các thủ đoạn vừa tinh vi, vừa trắng
trợn, chúng ráo riết tuyên truyền, lừa gạt, kích động, xúi giục đồng bào Mông khiếu
kiện, tranh chấp đất đai,..... Có nơi, dựa vào tự do tín ngưỡng, tôn giáo, lợi dụng địa
bàn vùng cao biên giới lấy cớ hành lễ gây áp lực, đòi yêu sách, gây rối an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Nhận thức rõ tình hình trên, Ban Thường vụ
Tỉnh uỷ Lao Cai đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các ban ngành, đoàn thể và lực lượng
vũ trang đứng chân trên địa bàn tỉnh cảnh giác, đề phòng trước những âm mưu, thủ
đoạn thâm độc của các thế lực phản động, thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo
để chống phá chính quyền địa phương, từ đó đã có những chủ trương và giải pháp
thích hợp, thiết thực, kịp thời ngăn chặn và dập tắt âm mưu, hành động phá hoại
nhiều mặt của chúng, góp phần giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm QP-AN trên địa
bàn.
Để tiếp tục giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, làm yên lòng dân
và đấu tranh có hiệu quả với những âm mưu "diễn biến hoà bình", lợi dụng vấn đề tự
do tín ngưỡng, tôn giáo trong tình hình hiện nay ở các tỉnh Tây Bắc, Đảng bộ và các
ban, ngành đoàn thể của tỉnh Lao Cai đã và đang tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện có hiệu quả các nhiệm vụ và những giải pháp cơ bản như:
Một là, tập trung xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh; đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, vận động, khơi dậy tinh thần yêu nước, truyền thống đấu
tranh bất khuất, kiên cường, một lòng, một dạ theo Đảng, theo cách mạng của đồng


bào các dân tộc, tôn giáo. Qua đó nâng cao giác ngộ ý thức dân tộc, đề cao lợi ích
quốc gia, lợi ích dân tộc, trong đó có lợi ích của đồng bào các dân tộc thiểu số;
đồng thời vạch trần mọi âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ
của các thế lực thù địch để đồng bào các dân tộc, các tôn giáo hiểu rõ bản chất,
luôn đề cao cảnh giác, góp phần đấu tranh làm thất bại mọi mưu đồ phá hoại của
chúng. Thường xuyên chăm lo xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền địa phương

các cấp, nhất là cấp cơ sở thật sự trong sạch, vững mạnh; củng cố các tổ chức
quần chúng, như Mặt trận Tổ quốc, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Cựu
chiến binh,....đồng thời phát huy vai trò của các già làng, trưởng bản, trưởng
dòng họ, các chức sắc, chức việc làm nòng cốt, tạo thành lực lượng đấu tranh
phòng chống "diễn biến hoà bình" mạnh mẽ, rộng khắp ở địa phương, cơ sở.
Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, cùng nhân
dân bàn bạc tìm cách tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc nảy sinh, không để
phát sinh thành "điểm nóng".
Hai là,tăng cường chủ động đấu tranh với mọi âm mưu, thủ đoạn của địch từ
bên ngoài, tập trung vào số đối tượng cốt cán, cầm đầu phản động người Mông.Tăng
cường kế hoạch phối hợp giữa các lực lượng quân đội và công an đấu tranh với các
nhóm phản động người Mông, như: “Châu Phạ - Đảng Cộng sản Mông” tại sào huyệt
của chúng ở Lào. Tiếp tục phối hợp với các tỉnh, thành phố đấu tranh ngăn chặn hoạt
động lôi kéo người sang Lào tập hợp lực lượng chống phá Lào và Việt Nam, lập
“Vương quốc Mông”. Đồng thời, tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh
ngoại giao, quan hệ hợp tác quốc tế, nhất là với Lào, Trung Quốc trong công tác ngăn
chặn, hạn chế hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng địa bàn Lào, Trung Quốc để
tạo bàn đạp móc nối đưa người đi nước ngoài huấn luyện, chuyển lực lượng và hoạt
động chống phá vào các tỉnh Tây Bắc để lập “Vương quốc Mông”.
Ba là, tham mưu cho cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương chỉ đạo và có kế
hoạch củng cố phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, nhất là những địa bàn phức
tạp, có nhiều người theo đạo Tin lành. Hướng vào việc củng cố hệ thống chính trị cơ sở,
tuyên truyền làm cho đồng bào theo đạo hiểu và thực hiện đúng các chủ trương, chính
sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước, không để phần tử xấu tuyên truyền xuyên tạc, lợi
dụng chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước để kích thích phát triển đạo. Thực tế thời
gian qua, có nhiều người bị lôi kéo theo đạo mang tính chất phong trào, mức độ tín
ngưỡng chưa sâu sắc, khi được ta tuyên truyền, giải thích, họ đã tự nguyện quay lại theo
phong tục, tự do tín ngưỡng truyền thống. Cần tiếp tục có biện pháp thiết thực quan tâm
giúp đỡ họ, nhưng cách làm phải khéo léo. Đối với các xã, bản có đông người theo đạo
Tin lành, đặc biệt là số xã, bản đang bị ảnh hưởng của hoạt động tuyên truyền lập

“Vương quốc Mông”, cần tham mưu cho cấp ủy, chính quyền có kế hoạch củng cố toàn


diện về mọi mặt, đồng thời tiếp tục tăng cường lực lượng xuống địa bàn “nằm vùng”,
bảo đảm quản lý được địa bàn, đối tượng, làm chỗ dựa cho cấp ủy, chính quyền cơ sở. Ở
những nơi có hoạt động tôn giáo trái pháp luật (tụ tập đông người để truyền đạo, tham dự
các khóa học tôn giáo ở trong và ngoài nước, đưa người nơi khác đến truyền đạo, xây
dựng nhà thờ, nhà nguyện... nhưng không tuân thủ các quy định hiện hành), cần phải
kiên trì cảm hóa giáo dục, răn đe. Nếu thái độ ngoan cố, tiếp tục có hoạt động vi phạm,
cần đưa ra kiểm điểm vạch mặt trước quần chúng hạ uy tín và thu thập, củng cố tài liệu,
chứng cứ pháp lý để xử lý công khai trước pháp luật khi có yêu cầu.
Bốn là, quán triệt và thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI của Đảng;thực hiện có hiệu quả các chương trình phát triển KT-XH gắn với
củng cố QP-AN của Đảng, Chính phủ như: Chương trình 135, Chương trình xoá
đói giảm nghèo, Chương trình quân, dân y kết hợp,…Tập trung huy động nguồn
nhân lực, vật lực cho đầu tư phát triển kinh tế của Tỉnh, nâng cao đời sống cho
đồng bào dân tộc thiểu số; ưu tiên đầu tư cho chương trình xoá đói, giảm nghèo,
nhất là ở những vùng có đông đồng bào dân tộc, tôn giáo, vùng sâu, vùng xa, vùng
biên giới, vùng đặc biệt khó khăn; huy động mọi nguồn lực xã hội cùng Nhà nước,
và chính quyền các địa phương chăm lo tốt hơn đời sống vật chất tinh thần của
nhân dân; giải quyết những khó khăn, bức xúc của đồng bào. Thúc đẩy phát triển
KT-XH ở các vùng đồng bào dân tộc Mông gắn với những chương trình cụ thể
như: tập trung giải quyết đất sản xuất cho đồng bào, giúp họ thực hiện chuyển dịch
cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá, nâng cao thu nhập; đẩy
mạnh công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, hỗ trợ nhà ở, phát triển y tế,
giáo dục; có chính sách ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ người dân tộc
thiểu số, tạo nguồn nhân lực trí thức để phát triển lâu dài.
Cùng với những giải pháp cơ bản trên, cần đặc biệt quan tâm chăm lo đến
đời sống văn hoá- tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số, tôn giáo; tạo điều
kiện thuận lợi cho đồng bào dân tộc tổ chức các lễ hội truyền thống và giao lưu văn

hoá, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá của từng dân tộc, tôn giáo... Đó là động lực
to lớn cho sự phát triển bền vững, thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch giữa các
dân tộc, đồng thời cũng là giải pháp quan trọng để củng cố mối quan hệ bình đẳng
giữa các dân tộc, tôn giáo trên địa bàn Tỉnh./



×