Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Luận văn thực trạng xuất khẩu đồ gỗ sang Nhật Bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.55 KB, 19 trang )

Tên: Võ Nguyễn Hải Châu
Lớp: 13DTM2

ĐỀ CƯƠNG
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU GỖ VÀ CÁC SẢN
PHẨM GỖ CỦA VIỆT NAM SANG NHẬT BẢN
1. Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ SẢN XUẤT, XUẤT KHẨU GỖ VÀ

CÁC SẢN PHẨM GỖ CỦA VIỆT NAM
1.1. Xuất khẩu hàng hóa trong xu thế hội nhập toàn cầu
1.1.1.Khái niệm xuất khẩu hàng hóa
1.1.2.Vai trị của xuất khẩu
1.1.2.1.
Đối với kinh tế Việt Nam
1.1.2.2.
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam
1.2. Giới thiệu tổng quan về ngành đồ gỗ xuất khẩu Việt Nam
1.2.1.Giới thiệu về gỗ và các sản phẩm gỗ
1.2.2.Đặc điểm sản xuất – kinh doanh gỗ và các sản phẩm gỗ của Việt Nam
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến ngành công nghiệp đồ gỗ xuất khẩu sang Nhật Bản
1.3.1.Nhân tố bên ngồi
1.3.1.1.
Mơi trường vĩ mơ
1.3.1.1.1.
Yếu tố kinh tế, văn hố, xã hội
1.3.1.1.2.
Yếu tố chính trị, pháp luật, chính phủ
1.3.1.1.3.
Yếu tố khoa học, công nghệ
1.3.1.1.4.
Yếu tố môi trường tự nhiên


1.3.1.2.
Môi trường vi mô
1.3.1.2.1.
Các đối thủ cạnh tranh
1.3.1.2.2.
Khách hàng
1.3.1.2.3.
Nhà cung ứng nguyên liệu
1.3.1.2.4.
Sản phẩm thay thế
1.3.2.Môi trường bên trong doanh nghiệp
1.3.2.1.
Nguồn nhân lực

1


Nguồn vốn
1.3.2.3.
Công tác Marketing
1.3.2.4.
Sản xuất, quản lý
1.3.2.5.
Công tác thông tin
2. Chương 2: THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN VỀ GỖ VÀ SẢN PHẨM TỪ GỖ
2.1. Tổng quan quan hệ thương mại Việt Nam- Nhật Bản
2.2. Giới thiệu tổng quan về thị trường đồ gỗ Nhật Bản
2.2.1.Tiềm năng của thị trường đồ gỗ Nhật Bản
2.2.2.Quy mô thị trường đồ gỗ Nhật Bản
2.2.3.Các kênh phân phối hàng đồ gỗ nhập khẩu của Nhật Bản

2.2.4.Nguồn nhập khẩu đồ gỗ Nhật Bản
2.2.5.Các định chế và đòi hỏi của thị trường đồ gỗ Nhật Bản
2.2.5.1.
Các quy định pháp luật và thủ tục khi nhập khẩu
2.2.5.2.
Các quy định pháp luật khi kinh doanh đồ gỗ
2.2.6.Chính sách thuế quan
2.2.7.Tình hình thị trường đồ gỗ Nhật Bản
2.2.8.Sở thích của người tiêu dùng Nhật Bản đối với sản phẩm gỗ
2.3. Cơ hội và thách thức khi xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang Nhật Bản
2.3.1.Cơ hội
2.3.2.Thách thức
3. Chương 3: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU SẢN PHẨM GỖ VIỆT NAM SANG
THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN TRONG THỜI GIAN QUA
3.1. Thực trạng xuất khẩu sản phẩm gỗ của các doanh nghiệp Việt Nam sang thị
trường Nhật Bản
3.1.1.Sản phẩm gỗ xuất khẩu sang Nhật Bản so với việc xuất sang Mỹ và EU
3.1.2.Kim ngạch và tốc độ phát triển xuất sản phẩm gỗ sang Nhật qua các năm so
với Mỹ và EU
3.1.3.Hình thức xuất khẩu sang Nhật Bản trong thời gian qua
3.2. Đánh giá những thuận lợi, khó khăn- hạn chế, tồn tại, thách thức, triển vọng
của ngành gỗ Việt Nam khi xuất sang Nhật Bản
3.2.1.Những Thuận lợi
3.2.2.Những khó khăn- hạn chế
1.3.2.2.

2


3.2.3.Những tồn tại

3.2.4.Những thách thức
3.2.5.Triển vọng xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Nhật Bản

trong những năm sắp tới
3.2.6.Đánh giá về chiến lược xuất khẩu ngành gỗ
3.2.6.1.
Đánh giá về chiến lược xuất khẩu ngành gỗ của Bộ Thương mại
(nay là Bộ Công thương)
3.2.6.2.
Đánh giá thực trạng chiến lược xuất khẩu sản phẩm gỗ sang Nhật
Bản của các doanh nghiệp có quy mơ vừa và nhỏ
4. Chương 4: CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC KHÓ KHĂN, HƯỚNG TỚI ĐẨY
MẠNH XUẤT KHẨU SẢN PHẨM GỖ VIỆT NAM SANG NHẬT BẢN.
4.1. Cơ sở đề xuất các giải pháp khắc phục khó khăn, hướng tới đẩy mạnh xuất
khẩu sang thi trường Nhật Bản, hướng phát triển của ngành đồ gỗ xuất khẩu
4.1.1.Cơ sở đề xuất các giải pháp khắc phục khó khăn, hướng tới đẩy mạnh xuất
khẩu thị trường Nhật Bản
4.1.2.Phương hướng phát triển ngành đồ gỗ xuất khẩu
4.1.2.1.
Định hướng phát triển thị trường xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt
Nam đến năm 2020
4.1.2.1.1.
Phát triển thị trường xuất khẩu sản phẩm gỗ
4.1.2.1.2.
Định hướng cụ thể về thị trường xuất khẩu sản phẩm gỗ
4.2. Các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm gỗ sang thị trường Nhật Bản
4.2.1.Giải pháp đối với Nhà nước
4.2.1.1.
Hoàn thiện môi trường pháp lý và thực hiện các quy định cam kết
song phương giữa Việt Nam và Nhật Bản

4.2.1.2.
Nhà nước cần quy hoạch và xây dựng chiến lược trong thu hút đầu
tư nước ngoài
4.2.1.3.
Nhà nước cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu sản
phẩm gỗ thuộc mọi thành phần kinh tế tiếp cận dễ dàng các nguồn vốn
cần thiết với chi phí vốn cạnh tranh
4.2.1.4.
Quy hoạch kế hoạch pháp triển nguồn nguyên liệu cho sản phẩm
gỗ xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản

3


Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ đối với thị
trường Nhật Bản
4.2.1.6.
Giải pháp về khuyến khích hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực
4.2.2.Giải pháp đối với các doanh nghiệp
4.2.2.1.
Cần nghiên cứu kỹ nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng Nhật
Bản và các đặc điểm tiêu dùng của họ
4.2.2.2.
Cần có sự định vị chính xác về sản phẩm của doanh nghiệp sang
thị trường Nhật Bản
4.2.2.3.
Cần tiến hành hoạt động xúc tiến tổng hợp
4.2.2.4.
Xây dựng kế hoạch, chiến lược sản xuất, phương thức kinh doanh
linh hoạt, phù hợp với yêu cầu thực tiễn

4.2.2.5.
Đẩy mạnh việc xây dựng thương hiệu và tăng cường quảng bá sản
phẩm
4.2.2.6.
Doanh nghiệp cần tăng cường đầu tư, đổi mới công nghệ, đào tạo
công nhân lành nghề
4.2.2.7.
Xây dựng văn hóa trong kinh doanh xuất khẩu sang Nhật Bản
4.2.1.5.

4


BÀI LÀM
1. Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ SẢN XUẤT, XUẤT KHẨU GỖ VÀ

CÁC SẢN PHẨM GỖ CỦA VIỆT NAM
1.1. Xuất khẩu hàng hóa trong xu thế hội nhập tồn cầu
1.1.1.Khái niệm xuất khẩu hàng hóa
Xuất khẩu là việc bán hàng hoá và dịch vụ vượt qua biên giới quốc gia trên cơ
sở dùng tiền tệ làm đơn vị thanh tốn. tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc
gia hoặc đối với cả hai quốc gia. xuất khẩu là hoạt động rất cơ bản của kinh tế đối
ngoại, đã xuất hiện từ rất lâu và ngày càng phát triển.
Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế của các quốc gia
trong phân công lao động quốc tế, tạo nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. hoạt động xuất
khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện với nhiều loại hàng hoá khác nhau.
phạm vi hoạt động xuất khẩu rất rộng cả về không gian và thời gian.
1.1.2.Vai trò của xuất khẩu
1.1.2.1.
Đối với kinh tế Việt Nam

Xuất khẩu hàng hố nằm trong khâu phân phối và lưu thơng hàng hố trong q
trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích liên kết giữa sản xuất và tiêu dùng giữa
nước này với nước khác, vai trò của xuất khẩu được thể hiện qua các điểm sau:
- Xuất khẩu là phương tiện chính tạo nguồn vốn cho nhập khẩu phục vụ cơng
nghiệp hố - hiện đại hố đất nước.
- Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất
phát triển.
- Xuất khẩu tác động tích cực dến giải quyết cơng ăn việc làm và cải thiện đời
sống nhân dân.
- Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các hoạt động kinh tế đối ngoại của
nước ta.
1.1.2.2.
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam
Hoạt động xuất khẩu với các cơng ty có ý nghĩa rất quan trọng. thực chất nó là
hoạt động bán hàng của các công ty xuất nhập khẩu và thu lợi nhuận từ hoạt động này
góp phần quyết định sự tồn tại và phát triển của công ty. Lợi nhuận là nguồn bổ sung
vào nguồn vốn kinh doanh, các quỹ của công ty, lợi nhuận cao cho phép công ty đẩy
mạnh tái đầu tư vào tài sản cố định, tăng nguồn vốn lưu động để thực hiện hoạt động
xuất nhập khẩu, giúp công ty ngày càng mở rộng và phát triển.
Xuất khẩu hàng hố cịn có vai trị nâng cao uy tín của cơng ty trên trường quốc
tế, nó cho phép công ty thiết lập được các mối quan hệ với nhiều bạn hàng ở các nước
khác nhau và sẽ rất có lợi cho cơng ty nếu duy trì tốt mối quan hệ này. Để có được điều

5


này công ty phải đáp ứng tốt các yêu cầu của khách hàng về giá cả, chất lượng hàng
hoá, phương thức giao dịch, thanh tốn,...
Xuất khẩu ngày nay ln gắn liền với cạnh tranh do vậy địi hỏi các cơng ty phải
ln đổi mới và hồn thiện cơng tác quản lý sản xuất, kinh doanh... sao cho phù hợp

với tình hình thực tế để hoạt động đạt hiệu quả cao. Kết quả của hoạt động xuất khẩu
sẽ cho phép công ty tự đánh giá được về đường lối chính sách, cách thức thực hiện của
mình để có những điều chỉnh phù hợp giúp công ty phát triển đi lên.
1.2. Giới thiệu tổng quan về ngành đồ gỗ xuất khẩu Việt Nam
1.2.1.Giới thiệu về gỗ và các sản phẩm gỗ

Nghề sản xuất và chế biến đồ gỗ đã được hình thành, tồn tại và phát triển lâu
đời ở nước ta. Đây là ngành nghề có truyền thống đã hàng tram ngàn năm, gắn liền với
nhiều làng nghề, phố nghề, được biểu hiện qua nhiều sản phẩm tinh xảo và hoàn mỹ.
Những kỹ năng, kinh nghiệm sản xuất được đút rút, lưu truyền từ thế hệ này sang thế
hệ khác làm cho ngành nghề này ngày càng phong phú, đa dạng.
1.2.2.Đặc điểm sản xuất – kinh doanh gỗ và các sản phẩm gỗ của Việt Nam
Thị trường xuất khẩu chủ yếu các sản phẩm gỗ của Việt Nam giai đoạn trước
năm 1990 là khối các nước Đông Âu, Liên Xô theo những thỏa thuận song phương.
Sau 1990, thị trường này suy giảm bởi những biến động chính trị. Từ sau năm 2000 thị
trường xuất khẩu chính lad Mỹ, EU, Nhật Bản, Nga và nhiều nước ASEAN.
Sau sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, cơng nghiệp
chế biến gỗ của Việt Nam ngày càng thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư nước
ngồi, cịn các nhà đầu tư trong nước thì mạnh dạn mở rộng sản xuất với quy mô lớn,
nên hoạt động đầu tư trong lĩnh vực sản xuất và chế biến gỗ xuất khẩu đang tăng rất
mạnh. Hiện nay, cả nước có khoảng 3.900 doanh nghiệp khác nhau chế biến gỗ và xuất
khẩu gỗ, khoảng 95% số doanh nghiệp là sở hữu tư nhân, 5% số doanh nghiệp thuộc sở
hữu nhà nước. Doanh nghiệp FDI chỉ chiếm 10% về số lượng nhưng chiếm 35% về
xuất khẩu. Có 26 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào chế biến gỗ ở Việt Nam như Đài
Loan, Hàn Quốc, Anh, Nhật Bản, Trung Quốc,… Các doanh nghiệp FDI đều có cơng
nghệ sản xuất hiện đại, chất lượng sản phẩm cao và ổn định. Cả nước có 3 cụm cơng
nghiệp chế biến gỗ là: thành phố Hồ Chí Minh – Bình Dương, Bình Định – Tây
Nguyên và Hà Nội – Bắc Ninh. Các doanh nghiệp quy mô lớn và FDI có cơng nghệ và
thiết bị chế biến hiện đại. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa có điều kiện và vốn đầu
tư để trang bị công nghệ hiện đại. Công nhân chế biến gỗ hoạt động tại các doanh

nghiệp hiện nay có trên 300.000 người. Năng lực chế biến khoảng 15 triệu m3 gỗ
tròn/năm. Các nghiên cứu về chế biến gỗ đã hướng vào tiết kiệm nguyên liệu gỗ và
6


nâng cao hiệu quả trong chế biến. Ngành chế biến gỗ Việt Nam tăng mạnh không chỉ
về số lượng nhà máy, quy mơ sản xuất mà cịn ở việc đầu tư thiết bị hiện đại để nâng
cao chất lượng sản phẩm, cạnh tranh trên bình diện quốc tế.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến ngành công nghiệp đồ gỗ xuất khẩu sang Nhật Bản
1.3.1.Nhân tố bên ngồi
1.3.1.1.
Mơi trường vĩ mơ
1.3.1.1.1.
Yếu tố kinh tế, văn hoá, xã hội

Sau gần hai năm gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), nền kinh tế
Việt Nam tiếp tục phát triển, quan hệ hai nước Việt Nam- Nhật Bản tiếp tục được lãnh
đạo hai nước nâng lên thành đối tác chiến lược. Bên cạnh đó, ngày 25 tháng 12 năm
2008, hai nước đã chính thức ký “ Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam- Nhật Bản” sẽ
càng tạo thêm cơ hội để các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam đẩy
mạnh xuất khẩu sản phẩm vào thị trường Nhật Bản. Tuy nhiên, chúng ta cũng gặp
nhiều khó khăn, thách thức như: Giá nguyên liệu gỗ đầu vào tiếp tục tăng, lãi suất cho
vay của toàn hệ thống ngân hàng đồng loạt tăng, làm tăng chi phí tài chính đối với tất
cả doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu sản phẩm gỗ sang Nhật Bản. Sự liên tục tụt dốc
thảm hại của thị trường chứng khoán- một trong những kênh huy động vốn, giải quyết
vốn hiệu quả cho doanh nghiệp; thị trường bất động sản tiếp tục đóng bang. Ngành
cơng nghiệp đồ gỗ xuất khẩu sang Nhật cũng bị ảnh hưởng rất lớn của cuộc khủng
hoảng tài chính bắt nguồn từ Mỹ, đã lan toả rất nhanh và làm giảm sức tiêu thụ đến sản
phẩm gỗ xuất khẩu Việt Nam sang Nhật. Trong năm 2014, tình hình kinh tế - xã hội
Việt Nam diễn ra trước bối cảnh thế giới tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp. Kinh tế

thế giới phục hồi chậm hơn so với dự báo. Trước tình hình đó, mặc dù thống kê cho
thấy kinh tế Việt Nam đã xuất hiện dấu hiệu phục hồi, nhưng năng suất và sức cạnh
tranh của nền kinh tế vẫn chưa mấy được cải thiện.
So với kế hoạch chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế 5,8% mà Quốc hội đưa ra thì năm
2014 đạt 5,98% quả là con số đáng mừng cho nền kinh tế Việt Nam. Mức tăng trưởng
năm 2014 cao hơn mức tăng trưởng 5,25% của năm 2012 và 5,42% của năm 2013 cho
thấy dấu hiệu tích cực của nền kinh tế trước bối cảnh chính trị có nhiều bất ổn khi
Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép HD 981 trong vùng đặc quyền kinh tế lãnh thổ
Việt Nam. Mức tăng trưởng có dấu hiệu hồi phục này đã giúp cho nền kinh tế vĩ mơ có
được sự ổn định - mục tiêu mà Việt Nam theo đuổi trong nhiều năm nay, đặc biệt là
sau khi lạm phát lên tới trên 20% trong năm 2008 - năm đầu tiên Việt Nam chịu tác
động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu.

7


Năm 2014 là một năm không thành công đối với nền kinh tế Nhật Bản về thực
thi những ý tưởng chính sách đã được đề ra từ những năm trước. Việc tăng thuế bán
hàng từ 5% lên 8% theo kế hoạch vào ngày 1/4/2014 đã khiến nền kinh tế Nhật Bản rơi
vào suy thoái kỹ thuật, với hai Quý (Quý II và Quý III/2014) tăng trưởng âm liên tiếp.
Niềm tin kinh doanh của các công ty lớn và niềm tin tiêu dùng của các hộ gia đình
Nhật Bản sụt giảm mạnh. Đồng yên suy yếu chưa tạo động lực hỗ trợ xuất khẩu. Lạm
phát vẫn xa rời mục tiêu 2%. Bên cạnh đó, tỷ lệ nợ cơng gia tăng, dân số lao động suy
giảm, vẫn là những thách thức dài hạn mà chính phủ Nhật Bản đang phải đối mặt để cố
gắng hồi sinh nền kinh tế của đất nước.
Như vậy, sang năm 2015 này kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Nhật Bản sẽ
còn tiếp tục gặp nhiều khó khăn, điều này ít nhiều sẽ gây nhiều cản trở trong việc xuất
khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang Nhật.
1.3.1.1.2.
Yếu tố chính trị, pháp luật, chính phủ

Việt Nam với một nền chính trị ổn định, được bạn bè quốc tế khen ngợi và được
xem là điểm đến đầu tư ổn định, an toàn trong khu vực và trên thế giới. Đây là một lợi
thế to lớn, thuận lợi cho doanh nghiệp trong cũng như ngoài nước đầu tư vào sản xuất,
kinh doanh và xuất khẩu sản phẩm gỗ.
Về lĩnh vực quan hệ quốc tế, Việt Nam đã được bầu làm thành viên không
thường trực của tổ chức Liên hiệp quốc nhiệm kỳ năm 2008-2009. Đây là trong những
thuận lợi, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Mặt hàng đồ gỗ
xuất khẩu hiện đã vươn lên đứng thứ 5 trong nhóm các mặt hàng có kim ngạch xuất
khẩu lớn của Việt Nam, chỉ đứng sau dầu thô, dệt may, giày dép và thủy sản và sẽ là
một trong những ngành xuất khẩu trọng điểm trong những năm tới. Ngành công nghiệp
chế biến và xuất khẩu sản phẩm gỗ của nước ta nói chung và đối với việc xuất khẩu
sản phẩm gỗ sang thị trường Nhật Bản nói riêng ln được sự quan tâm, khuyến khích
từ phía Chính phủ. Điều này được thể hiện thơng qua các chính sách của Chính phủ
dưới đây:
- Chính phủ có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp chế biến gỗ bằng việc bãi bỏ
giấy phép nhập khẩu gỗ, hạ mức thuế nhập khẩu gỗ xuống 0%, giảm thuế VAT xuống
5% cho mặt hàng gỗ có nguồn gốc từ rừng tự nhiên.
- Quỹ hỗ trợ phát triển, một tổ chức tài chính nhà nước được thành lập nhằm
cho vay, bảo lãnh tín dụng, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư cho các dự án xuất khẩu trong đó
có các dự án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất, chế biến mặt hàng gỗ xuất khẩu.
- Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ số 19/2004/CT-TTg ngày 01/06/2004 đã đặt
ra một số giải pháp phát triển ngành chế biến gỗ và xuất khẩu sản phẩm gỗ, và các văn
bản của các Bộ, ngành trong việc phát triển cho ngành xuất khẩu gổ Việt Nam.
8


- Chính sách thưởng kim ngạch xuất khẩu.
- Hàng gỗ thủ công mỹ nghệ, hàng đồ gỗ cao cấp làm từ nhóm gỗ 1A trở lên, đã
được chế biến hồn chỉnh vẫn được xuất khẩu. Sản phẩm này khi xuất khẩu chỉ cần kê
khai với Hải quan đầy đủ số lượng, chủng loại, khơng cần xuất trình nguồn gốc gỗ.

Việc kiểm tra nguồn gốc gỗ phải được thực hiện tại cơ sở sản xuất (đầu nguyên liệu
vào xưởng). Cũng tại Cơng văn này, Văn phịng Chính phủ chỉ đạo giao Bộ Cơng
thương chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành liên quan, rà sốt trình Chính phủ điều
chỉnh các nội dung chính sách xuất khẩu lâm sản chưa phù hợp để tạo điều kiện quản
lý thơng thống cho các hoạt động xuất, nhập khẩu gỗ và các lâm sản khác, nhằm
khuyến khích sản xuất phát triển mạnh mẽ.
- Văn bản số 11270/BTC-CST, ra ngày 23/9/2008 của Bộ Tài chính "Về việc
thuế xuất khẩu hàng hóa sản xuất từ nguyên liệu, vật tư nhập khẩu". Theo đó, hàng hóa
xuất khẩu được sản xuất từ nguyên liệu, vật tư nhập khẩu phải chịu thuế xuất khẩu theo
quy định. Cụ thể, mức thuế đối với mặt hàng gỗ ván sàn và một số mặt hàng khác là
10%. Việc đánh thuế xuất khẩu 10% ngay sau khi văn bản được ban hành mà không
cần có lộ trình cho doanh nghiệp thực hiện đã làm nhiều doanh nghiệp khơng kịp xoay
sở vì đã chót ký hợp đồng với đối tác ngay từ đầu năm, không thể thương thảo lại được
nữa. Đây là vấn đề mà Bộ Tài chính nên cân nhắc, xem xét lại.
1.3.1.1.3.
Yếu tố khoa học, công nghệ
Sau gần hai năm gia nhập WTO, các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu đồ
gỗ Việt Nam sang Nhật Bản càng có nhiều cơ hội để tiếp cận nhiều công nghệ mới.
Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ sang thị trường Nhật Bản chỉ phát triển nhanh từ
mốc thời điểm từ năm 2004 trở lại đây nên máy móc sản xuất chế biến gỗ tương đối
được đầu tư mới, nhiều máy móc thiết bị và cơng nghệ mới được chuyển giao từ các
nước công nghiệp phát triển như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan…
Theo kết quả thống kê từ việc thu thập số liệu thực tế ở 141 doanh nghiệp (90
doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước và 51 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi). Kết quả phân tích cho thấy tổng cộng có 90 doanh nghiêp có máy móc hiện
đại (chiếm 63.8%), 26 doanh nghiệp có máy móc ở mức độ trung bình (chiếm
18.4%) và 25 doanh nghiệp máy móc cịn lạc hậu (chiếm 17.7%)
Nhìn chung, trừ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đến từ Đài Loan,
Trung Quốc, Hàn Quốc, Mỹ, Hàn Quốc …và các doanh nghiệp trong nước có tên
tuổi và đã khẳng định mình ở thị trường trong nước và quốc tế như: Cơng ty Khải

Vy, Tập đồn Kỹ nghệ Gỗ Trường Thành, cơng ty Savimex, Tập đồn Tiến
Timper…, còn lại đa phần các doanh nghiệp vừa và nhỏ khác có tốc độ đổi mới máy
móc, cơng nghệ và trang thiết bị cho sản xuất diễn ra chậm, đầu tư máy móc chưa
9


đồng đều, mức đầu tư còn thấp, đầu tư chưa theo một định hướng phát triển rõ rệt
mà chỉ đầu tư theo đơn hàng.
Sự hạn chế và yếu kém về công nghệ sản xuất do thiếu vốn để đầu tư đổi mới
máy móc ít nhiều cũng làm khó khăn trong việc tạo ra sản phẩm có chất lượng và có
độ bền cao, làm hạn chế khả năng cạnh tranh so với các sản phẩm cùng loại của
Trung Quốc, Đài Loan...
Theo kết quả khảo sát và đánh giá của Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, hiện
tại các doanh nghiệp chưa đầu tư nhiều cho công tác nghiên cứu ứng dụng khoa học
công nghệ. Tuy nhiên, công nghiệp chế biến gỗ hiện tại được đánh giá là lĩnh vực kỹ
thuật tương đối đơn giản, chưa địi hỏi kỹ thuật, cơng nghệ cao… Thực tế có ít doanh
nghiệp nghiên cứu cải tiến công nghệ thiết bị để cải thiện chất lượng dây chuyền sản
xuất, đồng thời góp phần giảm chi phí đầu tư thiết bị nhằm nâng cao khả năng cạnh
trạnh.
Đến nay, rất ít kết quả nghiên cứu khoa học của các đơn vị nghiên cứu, đào tạo
được áp dụng vào thực tế sản xuất do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân
chưa theo kịp hoặc chưa đáp ứng nhu cầu thực tế sản xuất.
1.3.1.1.4.
Yếu tố môi trường tự nhiên
Việt Nam ta có khí hậu nhiệt đới ẩm, thích hợp cho việc trồng và phát triển
rừng nguyên liệu gỗ cho sản xuất. Trong những năm qua, mặc dù các ngành, các cấp
đã có nhiều nỗ lực trong việc trồng rừng, đã thực hiện chương trình “5 triệu hecta
rừng trồng”, và bảo vệ rừng nên diện tích rừng trồng ngày càng được gia tăng, diện
tích rừng bị chặt phá, bị cháy đã giảm dần qua các năm. Tuy nhiên, sản lượng gỗ
khai thác vẫn chưa đủ đáp ứng cho sản xuất và vẫn phải tiếp tục nhập khẩu.

Diện tích rừng trồng tập trung năm 2014 ước tính đạt 226,1 nghìn ha, tăng 6,1%
so với năm 2013. Tỷ lệ vốn rừng trên đầu người của ta còn thấp: 0,12 ha/người so với
của thế giới là 0,97 ha/người. Sản lượng gỗ khai thác liên tục tăng từ năm 2004 đến
nay; năm 2014 đạt 6,456 triệu m3, cao gấp trên 2,3 lần năm 1995, tăng bình quân hơn
4,5%/năm. Trong 6 tháng đầu năm 2015, sản lượng gỗ khai thác đạt 3,47 triệu m3, tăng
11,7% so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu do nhu cầu của thị trường tiêu thụ cả trong
và ngoài nước đều tăng cao. Đó là một trong những yếu tố có sức hấp dẫn đối với
khách hàng nước ngồi.
1.3.1.2.
Mơi trường vi mô
1.3.1.2.1.
Các đối thủ cạnh tranh
Mặt hàng đồ gỗ nội thất như: Các loại tủ, bàn ghế trong nhà, bàn ghế văn phòng
xuất khẩu sang Nhật của các doanh nghiệp Việt Nam đang phải cạnh tranh gây gắt với
các sản phẩm cùng loại của Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan và Inđônêsia… Năng lực

10


cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam xét về khía cạnh năng lực
sản xuất, chất lượng sản phẩm, vốn…cịn yếu. Trong khi đó, các doanh nghiệp lớn có
tên tuổi trong nước thì chú trọng nhiều vào thị trường Mỹ, EU vì bán được những đơn
hàng lớn, dễ thiết kế mẫu mã chứ ít quan tâm thị trường Nhật. Doanh nghiệp vừa và
nhỏ thì yếu về năng lực tiếp thị, thiếu vốn cho việc đổi mới máy móc, trang thiết bị
hiện đại, dẫn đến sức cạnh tranh của sản phẩm bị yếu so với sản phẩm cùng loại của
Trung Quốc do có ưu thế về nguồn nguyên liệu phong phú, nhân công tương đối rẻ.
Bên cạnh đó, nguồn ngun liệu gỗ của Việt Nam cịn hạn chế về chủng loại, ta vẫn
phải nhập khẩu số lượng lớn nguyên liệu làm cho giá thành sản phẩm tăng cao, giảm
sức cạnh tranh.
1.3.1.2.2.

Khách hàng
Trong giai đoạn 2010-2014, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nhóm hàng gỗ và các
sản phẩm từ gỗ (mã HS44) của Việt Nam sang Nhật Bản ln tăng, trung bình
24%/năm. Việt Nam là nước xuất khẩu đứng thứ 7 tại thị trường Nhật Bản về nhóm
hàng gỗ và các sản phẩm từ gỗ với tổng lượng xuất khẩu đạt 596,14 triệu USD năm
2014.
Những năm gần đây, nhu cầu nhập khẩu gỗ và sản phẩm từ gỗ của Nhật Bản
tương đối ổn định, trung bình khoảng 10 tỷ USD/năm, với mức tăng trưởng giai đoạn
2010-2014 là 2%/năm.
Tiêu dùng riêng cho đồ gỗ tại Nhật Bản sấp xỉ 1000USD/hộ/
tháng. Đặc biệt,
trong xã hội công nghiệp với mức độ rất cao như hiện nay, người
Nhật Bản ngày
càng có nhu cầu sử dụng đồ vật bằng chất liệu gỗ thay thế các vật
liệu sắt, nhơm…
Do tình hình suy thối của nền kinh tế Nhật Bản trong thời gian rất
dài, ảnh hưởng
của khủng hoảng tài chính tồn cầu đã ảnh hưởng rất lớn đến mức
sống của người
dân, đặc biệt gây ảnh hưởng tiêu cực đến niềm tin vào tương lai nền
kinh tế của đất
nước. Điều này khiến người dân Nhật Bản hạn chế tiêu dùng hơn, cụ
thể là hạn chế
chi tiêu cho những mặt hàng đắt tiền mà chú trọng hơn đến những
mặt hàng rẻ tiền.

11


Chính tình hình này đã tạo cơ hội tốt cho các mặt hàng nhập khẩu từ

các doanh
nghiệp Việt Nam với giá rẻ hơn hàng nội địa (cho dù chất lượng nhìn
chung có kém
hơn) thâm nhập ngày càng nhiều vào thị trường Nhật Bản.
Do diện tích nhà ở, văn phịng ở Nhật Bản nhỏ, dẫn đến kích thước đồ
dùng
trong nhà cũng phải nhỏ hơn so với sản phẩm cùng loại xuất khẩu đi
Mỹ, châu
Âu…Đây là điểm chú ý đối với các nhà xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt
Nam.
Do diện tích sinh hoạt, làm việc rất hẹp nên người Nhật rất chú
trọng đến
tính năng đa dạng của sản phẩm, vì vậy cần tạo ra những sản phẩm
có thể sử dụng nhiều mục đích. Kích thước đồ gỗ phải đa dạng để
người tiêu dùng dễ có sự lựa chọn phù hợp. Trên một sản phẩm cần
phải có sự kết hợp giữa nguyên liệu gỗ với nhiều loại
nguyên phụ liệu khác nhằm tạo sự phong phú hơn về mẫu mã.
1.3.1.2.3.
Nhà cung ứng nguyên liệu
Cái khó khăn lớn nhất của ngành sản xuất đồ gỗ xuất khẩu nói chung và đối
với thị trường Nhật Bản nói riêng hiện nay là vấn đề nguyên liệu cho sản xuất. Hơn
80% nguồn nguyên liệu phải nhập khẩu từ các nước như: Malaysia, Myanma,
Campuchia, Philippines, Châu Phi, Newzeland…
Về nguồn nguyên liệu gỗ trong nước thì kể từ năm 2014 Chính phủ quyết định
đóng cửa rừng tự nhiên, do vậy nguồn ngun liệu gỗ nội địa chỉ cịn trơng chờ vào gỗ
rừng trồng. Nguồn gỗ trong nước không phù hợp với nhu cầu sản xuất đồ gỗ xuất khẩu
và cũng chưa có chứng chỉ FSC. Hiện nay, trên địa bàn cả nước mới có khoảng 20.000
ha rừng được cấp chứng chỉ.
Hiện ngành đồ gỗ trong nước đang phải nhập khẩu tới 4 triệu m³ gỗ/năm, chiếm
80% tổng nguyên liệu sử dụng của toàn ngành cho xuất khẩu. Như vậy dù trong những

năm gần đây kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ tăng vượt mức 3 tỷ USD/năm, nhưng
trong đó phải chi đến 1 tỷ USD cho nhập khẩu nguyên liệu. Nếu cứ kéo dài tình trạng
này, kim ngạch xuất khẩu gỗ trong tương lai sẽ có nguy cơ giảm mạnh khi giá nhập
khẩu gỗ và chi phí vận chuyển đều tăng. Các doanh nghiệp chế biến gỗ trong nước
cũng sẽ yếu dần do không thể cạnh tranh nổi với những nước trong khu vực có khả

12


năng tự cung ứng nguyên liệu như Trung Quốc, Malaysia.... Kim ngạch nhập khẩu gỗ
nguyên liệu tăng không chỉ do các doanh nghiệp tăng lượng gỗ nguyên liệu nhập khẩu
mà còn do giá nhập khẩu nhiều chủng loại gỗ nguyên liệu tăng so với cùng kỳ. Bên
cạnh đó, các doanh nghiệp cũng đã chủ động mở rộng tìm thêm các nhà cung cấp khác
như: Canada, Nam Phi, Mỹ, Nga, Brazil…Tuy nhiên, phải mua số lượng rất lớn và giá
nguyên liệu gỗ của các nước này rất cao vì có chứng nhận FSC. Mặt khác, cước phí
vận chuyển cao, thời gian nhận hàng chậm đã làm giảm sự chủ động của doanh nghiệp
trong kế hoạch sản xuất.
Vấn đề khó khăn nhất của các doanh nghiêp ngành sản xuất đồ gỗ Việt Nam
là nguồn nguyên liệu. Trong bối cảnh này, vấn đề phát triển và tự chủ nguồn nguyên
liệu gỗ trong nước đang trở nên cấp bách hơn bao giờ hết.
1.3.1.2.4.
Sản phẩm thay thế
Với nhu cầu nhập khẩu sản phẩm gỗ của Nhật Bản những năm gần đây
khoảng 5.2 tỷ USD/năm, người Nhật có mức thu nhập cao, với mức tiêu dùng riêng
cho đồ gỗ tại Nhật Bản sấp xỉ 1000USD/hộ/ tháng. Đặc biệt, trong xã hội công
nghiệp với mức độ rất cao như hiện nay, người Nhật Bản ngày càng có nhu cầu sử
dụng đồ vật bằng chất liệu gỗ thay thế các vật liệu sắt, nhôm… Sản phẩm thay thế ít có
khả năng tác động nhiều đến sản phẩm gỗ. Tuy nhiên, do đặc điểm nguồn nguyên liệu
gỗ ngày càng khan hiếm, ý thức về bảo vệ môi trường của khách hàng ngày càng tăng
nên bên cạnh việc sử dụng đồ gỗ thuần túy thì một xu hướng đang gia tăng là sử dụng

đồ gỗ có kết hợp những chi tiết bằng vật liệu khác như: Kim loại, kính, nhựa, da, vải
… Việc kết hợp giữa nguyên liệu gỗ và các vật liệu khác vừa làm tăng tính hấp dẫn
cho sản phẩm, vừa làm tăng giá trị cho sản phẩm, đồng thời đáp ứng cho nhu cầu ngày
càng đa dạng của khách hàng đối với sản phẩm gỗ đang là xu hướng ngày càng tăng.
1.3.2.Môi trường bên trong doanh nghiệp
1.3.2.1.
Nguồn nhân lực
Thông qua cuộc khảo sát thực tế ở một số doanh nghiệp trong ngành gỗ, hiện
tại mức lương cơ bản cho người lao động có tay nghề tính theo ngày dao động từ
40.000 đồng/ngày/người đến 50.000 đồng/ngày/người. Với mức này, giá nhân công
của lao động Việt Nam ta vẫn cịn đang có một lợi thế cạnh tranh lớn so với các
nước trong khu vực, đặc biệt là cạnh tranh trực tiếp với chi phí nhân cơng lao động
của Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan, trong việc làm ra sản phẩm gỗ xuất sang thị
trường Nhật Bản.

13


Số lượng cơng nhân có tay nghề được đào tạo có bài bản về khai thác và chế
biến sản phẩm gỗ bị thiếu về số lượng và yếu về chất lượng, dẫn đến hiện tượng các
doanh nghiệp trong ngành tranh giành nhau về lao động có tay nghề.
Đội ngũ lao động chưa qua đào tạo là phổ biến, phương thức đào tạo theo kiểu
truyền nghề, cầm tay chỉ việc là chính nên trình độ tay nghề thấp, tính đồng đều trong
sản phẩm không cao.
Đội ngũ làm công tác thiết kế sản phẩm tuy có được đào tạo, song một là các
trường chỉ đào tạo cơ bản, không chuyên sâu, thiếu sự kết hợp giữa đội ngũ thiết kế
được đào tạo trong nhà trường với đội ngũ nghệ nhân. Các nghệ nhân về lĩnh vực sản
xuất đồ gỗ hầu như không được bồi dưỡng, tuyển chọn.
Theo kết quả khảo sát ở 141 doanh nghiệp cho thấy có đến 95 doanh nghiệp bị
áp lực thiếu lao động được qua đào tạo bài bản (chiếm 67.4%). Điều này dẫn đến tình

hình là năng suất lao động thấp, mẫu mã nhiều khi còn đơn điệu khơng phong phú, sản
phẩm khó bán trực tiếp đến người tiêu dung. Với kết quả này, để phát triển mạnh và
bền vững sang thị trường Nhật Bản, về lâu dài cần phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa Bộ
Lao động Thương binh và Xã hội, nhà trường và doanh nghiệp trong việc đào tạo
nguồn nhân lực phục vụ cho sự phát triển của ngành.
1.3.2.2.
Nguồn vốn
Theo kết quả khảo sát ở 141 doanh nghiệp có đến 87 doanh nghiệp bị áp lực
thiếu vốn (chiếm đến 61.7%).
Theo Ơng Nguyễn Tơn Quyền, Tổng thư ký Hiệp hội Lâm sản và Gỗ Việt
Nam thì mỗi năm ngành gỗ cần trên 1.000 tỉ đồng vốn, đến năm 2010 cần có
15.000-16.000 tỉ đồng. Nhà nước cho vay 20%, doanh nghiệp tự có 30%, như vậy
còn thiếu 50% vốn.
Để đạt mục tiêu xuất khẩu sản phẩm gỗ sang thị trường Nhật Bản đến năm
2020 là khoảng 700 triệu USD như dự kiến và để đẩy mạnh được việc xuất khẩu sản
phẩm gỗ sang Nhật Bản trong năm 2015 và trong những năm tới, đòi hỏi phải có
những chiến lược và những giải pháp cụ thể, khắc phục ngay các khó khăn đang tồn
tại, có các chính sách hỗ trợ về tài chính… đối với ngành chế biến xuất khẩu sản
phẩm gỗ
1.3.2.3.
Công tác Marketing

14


Product (sản phẩm): Trong khi các doanh nghiệp của Trung Quốc, Đài
Loan, Malaysia, các cơng ty nước ngồi khác… đang hoạt động tại Việt Nam để sản
xuất và xuất khẩu sản phẩm gỗ sang thị trường Nhật Bản đang tập trung đầu tư đáng
kể vào khâu nghiên cứu, phát triển sản phẩm thì những cơng ty sản xuất và xuất
khẩu có quy mơ vừa và nhỏ của Việt Nam ta lại chủ yếu đi nhận hợp đồng theo bản

vẽ từ các công ty đặt hàng Nhật hoặc mô phỏng lại kiểu dáng sản phẩm sẵn có. Việc
đầu tư nghiên cứu có bài bản chưa thật sự được quan tâm đúng mức, dẫn đến tính
cạnh tranh cho sản phẩm gỗ “Made in Vietnam” bị yếu so với các sản phẩm cùng
loại của các doanh nghiệp Trung Quốc, Đài Loan…
Place (phân phối): do sản phẩm gỗ của Việt Nam ta chỉ mới thâm nhập và phát
triển nhanh từ năm 2004 trở lại đây, một phần là do chi phí cho việc trực tiếp xây dựng
các đại lý, hệ thống siêu thị quá đắt so với khả năng tài chính nhỏ bé của các doanh
nghiệp có quy mơ vừa và nhỏ. Mặt khác, đối với các doanh nghiệp có quy mơ vừa và
nhỏ thì nguồn thơng tin về thị trường Nhật Bản có được chủ yếu qua kinh nghiêm,
truyền miệng, sách báo, ít các chuyến đi thực địa tại địa phương tiêu thụ sản phẩm. Do
đó, mà hoạt động phân khúc thị trường của các doanh nghiệp Việt Nam ở Nhật Bản
còn yếu, làm giảm hiệu quả của các hoạt động thâm nhập, mở rộng và duy trì thị
trường, đặc biệt là ở những phân khúc mới của thị trường.
- Promotion (xúc tiến): Hàng đồ gỗ của Việt Nam ít xuất hiện
rộng rãi trên
các phương tiện thông tin đại chúng ở thị trường Nhật, do chi phí
quảng cáo trên các
phương tiện thơng tin đại chúng ở Nhật rất cao. Hạn chế này bắt
nguồn từ tiềm năng
tài chính nhỏ bé của các doanh nghiệp trong nước. Một vài năm trở
lại đây, nhờ sự
hỗ trợ và tuyên truyền của Hiệp Hội gỗ và Lâm sản Việt Nam, Cục
Xúc tiến
Thương mại Việt Nam, cơ quan Tham tán Thương mại Việt Nam tại
Nhật Bản, Tổ
chức Xúc tiến Thương mại Nhật Bản Jetro cung cấp form mẫu tìm
kiếm khách hàng

15



tại Nhật Bản đã tạo điều kiện và cung cấp thông tin ngày một nhiều
hơn về thị
trường đồ gỗ Nhật Bản.
Chất lượng truyền tin và xúc tiến hỗn hợp của các doanh nghiệp
Việt Nam
cịn ở trình độ thấp, giản đơn, của các tài liệu giới thiệu về doanh
nghiệp, quảng cáo
về sản phẩm gỗ là các tập catalogue, brochure với nội dung cịn đơn
điệu và khơng
mang dấu ấn của quảng cáo chun nghiệp. Qua tìm hiểu thực tế
một số doanh
nghiệp có quy mô nhỏ và vừa, đa phần các ấn phẩm thương mại của
họ chỉ viết bằng
tiếng Anh, không thể hiện bằng tiếng Nhật, điều này đơi lúc khơng
làm hài lịng
khách hàng và đáp ứng được sự thích thú của người tiêu dùng Nhật
Bản. Và đây
cũng là điều cần phải lưu ý, sửa đổi, do người Nhật chỉ thích và ln
sử dụng ngôn
ngữ của họ khi giao dịch quốc tế.
Số lượng các doanh nghiệp có website riêng cịn ít, thiếu sự kết
nối nhau chặt
chẽ, ngôn ngữ trên trang web không thể hiện bằng tiếng Nhật, trong
khi người mua
hàng đồ gỗ của Nhật lại có thói quen tìm hiểu thơng tin sản phẩm đồ
gỗ trên mạng.
- Price (giá cả): Giá cả của các sản phẩm đồ gỗ của Việt Nam
tại thị trường
Nhật Bản nhìn chung tương đối hợp lý, được người tiêu dùng Nhật

Bản chấp nhận
và giá cả cũng tương đối đa dạng, có đủ giá cả từ bình dân cho đến
cao cấp, đây là

16


tín hiệu đáng mừng. Tuy nhiên, giá cả của sản phẩm đồ gỗ Việt Nam
ta đang cạnh
tranh rất quyết liệt với các sản phẩm cùng loại của Trung Quốc.
Nhận xét: Nhìn chung khâu Marketing của các doanh nghiệp
sản xuất và xuất
khẩu đồ gỗ Việt Nam tại Nhật Bản chưa được quan tâm, đầu tư đúng
mức, chưa
phát triển tương xứng với tiềm năng và lợi thế mà các doanh nghiệp
ngành đồ gỗ
xuất khẩu Việt Nam ta có được tại thị trường Nhật Bản này.
1.3.2.4.
Sản xuất, quản lý
Theo kết quả của việc khảo sát từ thực tế ở những năm trước
đây, doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu sản phẩm gỗ sang Nhật
Bản chủ yếu phát triển theo chiều rộng nay dồn vốn đầu tư theo
chiều sâu, đổi mới thiết bị, máy móc sản xuất, nâng cao chất lượng
sản phẩm, tạo chữ tín với khách hàng và chủ động tìm kiếm khách
hàng từ thị trường đồ gỗ Nhật Bản để mở rộng việc tiêu thụ sản
phẩm. Đồng thời "Khả năng quản lý tài chính, quản trị của doanh
nghiệp ngày càng được nâng cao, nhiều doanh nghiệp đã chú ý đến
việc nghiên cứu sáng tạo mẫu mã, đa dạng hóa sản phẩm, cũng như
kết hợp nhiều nguyên phụ liệu khác nhau trên cùng một sản phẩm
gỗ để nâng cao giá trị gia tăng". Trước đây, doanh nghiệp ngành gỗ

thường chờ khách hàng, nay đã năng động tìm đến các nhà phân
phối trong và ngoài nước mời gọi sử dụng đồ gỗ.
Hiện nay, đã có 314 doanh nghiệp của Việt Nam được cấp
chứng chỉ COC và
55% đồ gỗ của Việt Nam được sản xuất từ gỗ được cấp chứng chỉ
COC. COC
(Chain of Costudy) là tiêu chuẩn về chuỗi hành trình sản phẩm do Hội
đồng Quản
trị rừng thế giới (FSC - Forest Stewardship Council) ban hành lần đầu
vào năm

17


1993. Mơ hình quản lý nguồn gốc gỗ theo COC gồm 5 công đoạn cơ
bản được quy
định cực kỳ nghiêm ngặt, từ khai thác cho đến chế biến, liên kết
nhau thành một
chuỗi thông suốt và chặt chẽ.
1.3.2.5.
Công tác thông tin
Hiện nay, nhìn chung doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm gỗ của
Việt Nam
sang Nhật Bản còn mắc phải những hạn chế như: thiếu thông tin, tư
tưởng thụ động
chờ các đơn hàng cịn phổ biến. Ít các doanh nghiệp hoặc phái đồn
doanh nghiệp đi
khảo sát, thăm dò thị trường đồ gỗ Nhật Bản. Đặc biệt, các doanh
nghiệp ít tham gia
vào các kỳ hội chợ, triển lãm về đồ gỗ diễn ra hàng năm, hai năm

một lần ở Nhật.
Đây là thiếu sót rất lớn của các doanh nghiệp, từ đó dẫn đến sản
phẩm xuất khẩu
sang Nhật chưa đáp ứng sát gu tiêu dùng, thị hiếu, nhu cầu mới về
sản phẩm của
người tiêu dùng Nhật. So với việc nghiên cứu thị trường đồ gỗ Nhật
Bản của các
doanh nghiệp đồ gỗ Trung Quốc, Đài Loan đang hoạt động sản xuất
tại Việt Nam
thì các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu đồ gỗ Việt Nam còn bị
lạc hậu. Hơn một
nửa các công ty thương mại đồ gỗ của Nhật có văn phịng tại Việt
Nam, hoạt động
của họ rất có hiệu quả, họ thường xuyên theo dõi nắm vững tình hình
thị trường
Việt Nam.

18


19



×