Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Quan hệ thương mại Việt Nhật và các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá sang Nhật Bản.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.44 KB, 78 trang )

mục lục
Lời mở đầu 3
Chơng I: Khái quát tình hình kinh tế Nhật Bản 5
1.1 Tình hình kinh tế xã hội Nhật Bản trong thập niên 90 thế kỷ XX trở lại đây 5
1.1.1 Sự bất ổn định kinh tế Nhật Bản trong thập niên 90 của thế kỷ XX 5
1.1.2 Suy thoái và khủng hoảng kinh tế Nhật Bản trong thời kỳ này là suy thoái,
khủng hoảng về cơ cấu kinh tế 5
1.1.2.1 Đồng Yên lên giá ảnh hởng trực tiếp đến lĩnh vực xuất khẩu và đầu t 6
1.1.1.3 Vấn đề việc làm và thu nhập cho ngời lao động đã và đang là vấn đề nan giải
7
1.1.1.4 Nguyên nhân của sự phát triển không ổn định của nền kinh tế Nhật Bản 8
1.1.2 Triển vọng phục hồi nền kinh tế năm đầu thế kỷ XXI và những nỗ lực cải cách
của Thủ tớng Koizumi 12
1.2 Thơng mại của Nhật với các khu vực và thế giới trong những năm gần đây
15
1.2.1 Lợi ích kinh tế của Nhật Bản trong quan hệ thơng mại với các khu vực và thế
giới 15
1.2.2 Đánh giá cán cân thơng mại của Nhật Bản trong thời gian qua 18
1.2.3 Thị trờng và cơ cấu hàng hoá và xuất nhập khẩu của Nhật Bản 19
1.2.3.1 Thị trờng xuất nhập khẩu của Nhật Bản 19
1.2.3.2 Cơ cấu xuất nhập khẩu 21
1.3 Chiến lợc phát triển kinh tế đối ngoại của Nhật Bản trong những năm gần đây
25
1.3.1 Chiến lợc phát triển kinh tế đối ngoại 25
1.3.2 Những xu hớng chủ yếu của kinh tế đối ngoại Nhật Bản trong những năm đầu
của thế kỷ XXI 26
1
Chơng II: Thực trạng quan hệ thơng mại Việt - Nhật trong
những năm qua 35
2.1 Các giai đoạn lịch sử phát triển quan hệ kinh tế thơng mại Việt-Nhật 35
2.1.1 Sơ lợc về quan hệ thơng mại Việt Nhật trớc năm 1973 35


2.1.2 Giai đoạn 1973 đến 1975 37
2.1.3 Giai đoạn từ 1976 đến 1986 39
2.1.4 Giai đoạn 1987 đến nay 43
2.2 Những thành tựu và hạn chế trong quan hệ thơng mại giữa hai nớc 52
2.2.1 Thành tựu trong lĩnh vực xuất nhập khẩu giữa hai nớc 52
2.2.2 Quy chế tối huệ quốc giữa Nhật Bản và Việt Nam 60
2.2.3 Những hạn chế và nguyên nhân trong quan hệ thơng mại giữa hai nớc 61
2.3 Cơ hội và thách thức đối với quan hệ thơng mại của Việt Nam với Nhật Bản 67
Chơng III: Triển vọng mối quan hệ thơng mại Việt Nhật và
các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam
sang Nhật Bản 73
3.1 Triển vọng quan hệ Việt - Nhật: 73
3.2 Định hớng xuất khẩu hàng Việt Nam snag Nhật Bản đến năm 2010 75
3.2.1 Định hớng chung 75
3.2.2 Định hớng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực 77
3.3 Các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng Việt Nam sang thị trờng Nhật 84
3.3.1 Các giải pháp mang tính vĩ mô 84
3.3.2 Các giải pháp đối với các doanh nghiệp 87
Kết luận 93
Tài liệu tham khảo 94
2
Lời mở đầu
Kể từ khi hai nớc chính thức công nhận lẫn nhau về mặt ngoại giao ngày 21-9-1973
đến nay quan hệ thơng mại hai nớc Việt Nhật đã có những bớc phát triển tốt đẹp. Với
dân số 127,1 triệu ngời (tháng 1 năm 2001), GDP bình quân đầu ngời đạt xấp xỉ
37.434.67 nghìn USD (4.034,33 nghìn tỷ JPY) vào năm 2000, Nhật Bản là thị trờng
tiêu thụ hàng hoá lớn thứ hai thế giới sau Mỹ, đồng thời là nớc có kim ngạch nhập
khẩu hàng năm lên tới 300-400 tỷ USD. Từ năm 1992 trở lại đây, Nhật Bản là nhà
viện trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam. Bình quân mỗi năm, Chính phủ Nhật Bản tài
trợ cho Việt Nam khoảng 90 tỷ JPY, chiếm khoảng hơn 40% tổng số viện trợ phát

triển chính thức mà Việt Nam vẫn nhận đợc từ các nhà tài trợ song phơng và đa ph-
ơng. Đồng thời Nhật Bản cũng là một trong những nhà đầu t lớn nhất tại Việt Nam.
Tính tới tháng 9 năm 2002, tổng số vốn đầu t của Nhật Bản vào Việt Nam là 3.681,4
triệu USD (368 dự án), đứng thứ t trong các nớc và vùng lãnh thổ, sau Singapo, Đài
Loan và Hồng Kông. Đặc biệt là trong những năm gần đây, Nhật Bản đã trở thành
bạn hàng lớn của Việt Nam. Riêng kim ngạch xuất khẩu năm 2001 đạt 2,5 tỷ USD
tức gần 533.176,391 triệu JPY, lớn gấp đôi so với thị trờng đứng thứ hai về nhập
khẩu hàng hoá Việt Nam. Hiện nay, Nhật Bản là đối tác lớn nhất của Việt Nam với
tổng kim ngạch xuất khẩu qua các năm 1999, 2000, 2001 là 75.841; 223,022;
316,735 triệu JPY. Sự gia tăng khối lợng kim ngạch trong những năm qua cho thấy
Nhật Bản vẫn luôn là thị trờng có vai trò hàng đầu với hoạt động xuất nhập khẩu của
nền kinh tế nớc ta. Trên thực tế, hàng hoá Việt Nam đợc bán trên thị trờng Nhật với
số lợng hết sức khiêm tốn, chỉ khoảng 6% tổng kim ngạch nhập khẩu cuả Nhật, trong
khi đó, Trung Quốc chiếm 13,2 %, Singapore chiếm 2,9 %, Malaysia chiếm 2,7 %.
Do đó, việc đẩy mạnh quan hệ thơng mại giữa hai nớc, nhất là việc nâng cao tỷ trọng
hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật là rất quan trọng.
Về mặt ngoại giao, hai nớc đã có nhiều cuộc tiếp xúc, đối thoại song phơng ở các
cấp, các ngành trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật,
3
nhằm tăng cờng hiểu biết và hợp tác lẫn nhau. Chuyến viếng thăm Việt Nam của Thủ
tớng Nhật Bản Junichiro Koizumi tháng 4 và chuyến viếng thăm Nhật Bản gần đây
của Tổng bí th Nông Đức Mạnh đã một lần nữa chứng minh cho sự hợp tác tốt đẹp
giữa hai nớc. Thủ tớng Koizumo khẳng định Nhật Bản sẽ tiếp tục ủng hộ chính sách
đổi mới của Việt Nam thông qua các biện pháp tăng cờng hợp tác và đầu t, viện trợ
cho Việt Nam. Qua hai chuyến viếng thăm này, hai nớc sẽ tiến tới ký kết Hiệp định
đảm bảo đầu t trong năm nay để thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nhật phát
triển hơn nữa.
Trên cơ sở thực trạng của quan hệ kinh tế đối ngoại Việt Nhật trong những năm qua,
tác giả đã quyết định lựa chọn đề tài: Quan hệ thơng mại Việt Nhật và các giải pháp
thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá sang Nhật Bản với hy vọng đa ra một cái nhìn tổng

quát về hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nớc trong những năm qua, và nêu lên một
số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang thị trờng Nhật
Bản. Kết cấu của khoá luận gồm ba chơng:
Chơng I : Khái quát tình hình kinh tế Nhật Bản
Chơng II : Thực trạng quan hệ thơng mại Việt Nhật trong những năm qua
Chơng III: Triển vọng mối quan hệ thơng mại Việt Nhật và các giải pháp thúc đẩy
xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Nhật Bản
Do những hạn chế về thời gian và không gian, nhất là về t liệu nên khoá luận này
không thể tránh khỏi những thiếu sót. Bởi vậy, tác giả rất mong nhận đợc sự chỉ bảo
của các thầy cô, bạn bè cũng nh những ngời quan tâm đến lĩnh vực xuất nhập khẩu
giữa Việt Nam và Nhật Bản.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thày giáo Phạm Duy Liên, ngời đã tận tình h-
ớng dẫn tôi trong quá trình viết luận văn, tới các cô chú đang làm việc tại Đại sứ
quán Việt Nam tại Nhật Bản và Cục xúc tiến thơng mại - Bộ thơng mại đã giúp đỡ,
tạo điều kiện để tôi hoàn thành khoá luận này.
Chơng I:
4
Khái quát tình hình kinh tế Nhật Bản
1.1 Tình hình kinh tế xã hội Nhật Bản trong thập niên 90
thế kỷ XX trở lại đây:
1.1.1 Sự bất ổn định kinh tế Nhật Bản trong thập niên 90 của thế kỷ XX:
Nhật Bản là một cờng quốc kinh tế đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển thần kỳ vào
trớc thập niên 90 khiến cả thế giới phải khâm phục. Sau giai đoạn phát triển cao độ
(1955-1973), trung bình mỗi năm kinh tế tăng trởng 10%, kinh tế Nhật Bản bớc vào
giai đoạn phát triển trung bình (1974-1991), kinh tế tăng trởng bình quân 4%. Thế
nhng, từ đầu thập niên 90 kinh tế Nhật Bản đã lún sâu vào giai đoạn suy thoái mặc
dù kể từ năm 1999 đến nay đã có dấu hiệu phục hồi nhng còn rất mong manh. Sự
phát triển không ổn định có thể coi là đặc trng của nền kinh tế Nhật Bản trong những
năm 90.
1.1.1.1 Suy thoái và khủng hoảng kinh tế Nhật Bản trong thời kỳ này là suy

thoái, khủng hoảng về cơ cấu kinh tế:
Khởi đầu của suy thoái những năm 90 là sự đổ vỡ của nền kinh tế bong bóng. Tăng
trởng kinh tế (GDP) của Nhật trong những năm này đã liên tục suy giảm. Từ năm
1990 đến năm 1993, động thái tăng trởng kinh tế suy giảm liên tục: 5,5%; 2,9%;
0,4%; Dấu hiệu phục hồi trở lại vào những năm 1994 - 1996 với tốc độ tăng trởng
qua các năm là: 0,6%; 1,4%; 2,9%. Nhng từ năm 1997 đến 1998, Nhật Bản lại lâm
vào khủng hoảng trầm trọng, kinh tế Nhật tăng trởng âm liên tục từ 0,7% đến
0,9%. Khủng hoảng kinh tế Nhật Bản gắn liền với ảnh hởng của cuộc khủng hoảng
tài chính tiền tệ Đông Nam á [23,11]. Năm 1999, nền kinh tế đã có dấu hiệu phục
hồi với tốc độ tăng trởng là 0,5%. Các chỉ số tăng trởng GDP hàng năm trên đây đã
phản ánh khái quát nhất suy thoái kinh tế Nhật Bản suốt những năm 90 của thế kỷ
XX.
5
Tuy nhiên, suy thoái dẫn đến khủng hoảng có tính chất cơ cấu của nền kinh tế Nhật
Bản trong những năm 90 khác với cuộc khủng hoảng kinh tế trớc đây. Đó là nền kinh
tế vẫn chìm trong tình trạng suy thoái kéo dài, sự phục hồi của một số ít doanh
nghiệp lớn đợc nhà nớc hỗ trợ vẫn không khắc phục đợc tình trạng này. Sự phát triển
mất cân đối trong cơ cấu kinh tế thể hiện ở việc mở rộng sản xuất chủ yếu trong các
lĩnh vực công nghệ cao nh sản xuất máy vi tính, điện thoại di động, tin học hoá mà
không chú trọng tới các ngành công nghiệp truyền thống khác cũng nh việc gia tăng
hoạt động đầu t của Nhật Bản ở nớc ngoài. Do đó, các ngành công nghiệp trong nớc
lâm vào tình trạng suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, đời sống của ngời lao động
trở nên bấp bênh vì hầu nh không còn tồn tại hình thức thuê mớn công nhân suốt đời
nh trớc đây, các xí nghiệp vừa và nhỏ cũng chịu ảnh hởng trực tiếp của cuộc khủng
hoảng cơ cấu kinh tế này.
1.1.1.2 Đồng Yên lên giá ảnh hởng trực tiếp đến lĩnh vực xuất khẩu và đầu t:
Trong suốt những năm 90, đồng Yên lên xuống thất thờng, lên cao nhất là 70
Yên/USD (1995), và thấp nhất là 145 Yên/USD (1998) [23,14]. Việc đồng Yên lên
giá làm giảm sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu Nhật Bản do giá thành tăng nhanh,
hàng hoá trở nên ế ẩm, làm ảnh hởng xấu tới ngoại thơng Nhật Bản, đặc biệt là những

công ty xuất khẩu. Một điểm đáng nói thêm ở đây là trong thập niên 90, các nớc
Châu á, nhất là Trung Quốc, ngày càng sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng công
nghiệp vừa cạnh tranh với Nhật trên thị trờng thế giới vừa thâm nhập vào thị trờng
Nhật. Đồng Yên lên giá quá nhanh làm cho các công ty Nhật Bản tranh nhau đầu t ra
nớc ngoài nhất là đầu t vào các nớc Châu á để tận dụng nguồn nguyên liệu dồi dào
và nhân công rẻ. Tất nhiên, giá nhân công cao ở Nhật không phải là vấn đề duy nhất.
Các ngành công nghiệp Nhật Bản có khả năng khắc phục đợc chi phí nhân công cao
dựa vào hệ thống giáo dục có chất lợng cao và hệ thống sản xuất có hiệu quả đợc các
xí nghiệp vừa và nhỏ duy trì. Việc đầu t ra nớc ngoài góp phần khắc phục hậu quả đổ
vỡ kinh tế bong bóng, sản xuất tại nớc ngoài lại gần với thị trờng tiêu thụ, không tốn
6
kém chi phí vận chuyển. Việc này không những có tác dụng tránh va chạm với các
chính phủ Âu Mỹ vốn phản đối việc hàng hoá Nhật lan tràn quá nhiều trên thị trờng
mà còn phát huy hiệu quả lớn trong việc giảm chi phí sản xuất. Song mặt khác, nó
cũng làm cho nền sản xuất trong nớc suy yếu đi, dẫn đến sự phá sản của hàng loạt
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nạn thất nghiệp ngày càng gia tăng.
1.1.1.3 Vấn đề việc làm và thu nhập cho ngời lao động đã và đang là vấn đề
nan giải:
Nớc Nhật vốn là quốc gia mà một vài thập kỷ gần đây có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất
trong số các nớc t bản phát triển (dới 2%). Khi nền kinh tế bong bóng đổ vỡ kéo
theo sự phá sản của một loạt các ngân hàng, công ty chứng khoán, các nhà máy, xí
nghiệp,.. từ đó dẫn đến tình trạng ngời lao động không có việc làm, hoặc còn việc
làm nhng thu nhập bị cắt giảm một phần vì các chủ doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, một
phần do giá cả hàng hoá tiêu dùng đều tăng vọt. Tỷ lệ ngời thất nghiệp theo thống kê
công bố vào đầu thập niên 90 chỉ có 2%, nhng đến nay đã lên tới 4,9% trong tháng 6
và tháng 7 năm 1999 [23,16]. Những năm cuối thế kỷ XX, ngời dân Nhật bắt đầu
hoang mang khi con số thất nghiệp năm 2000 là 3.200.000 ngời, tăng 30.000 ngời,
chiếm tỷ lệ 4,7% trong tổng số ngời lao động và đây là con số cao nhất kể từ năm
1953 đến nay. Tỷ lệ này gần nh cân bằng cho cả nam và nữ (nam 4,9%, nữ 4,7%)
[9,19]. Không chỉ có vậy, tỷ giá hối đoái giữa đồng Yên Nhật và đồng đôla Mỹ lên

xuống thất thờng, giá cổ phiếu trên thị trờng chứng khoán cũng diễn biến rất phức tạp
đã khiến cho các nhà kinh doanh gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ các doanh nghiệp phá sản
ngày càng gia tăng. Tình trạng này càng làm gia tăng số lợng ngời thất nghiệp, và thu
nhập thực tế của ngời lao động cũng suy giảm do sản xuất kinh doanh đình đốn, giá
cả gia tăng.
1.1.1.4 Nguyên nhân của sự phát triển không ổn định của nền kinh tế Nhật Bản:
7
Có nhiều cách xác định nguyên nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế Nhật Bản những
năm 90, theo tôi có 5 nguyên nhân chính giải thích sự suy thoái này.
Một là, các nguyên nhân nảy sinh từ sự sụp đổ nền kinh tế bong bóng. Nền kinh tế
bong bóng chính là nền kinh tế tăng trởng cực nhanh của Nhật Bản cuối thập niên
80, song đó không phải là tăng trởng thực sự từ sự phát triển các hoạt động sản xuất
của cải vật chất mà chủ yếu tăng trởng giả tạo do đầu cơ vào mua bán bất động sản,
trái phiếu, các hàng hoá nghệ thuật có giá trị lớn. Nhiều cá nhân, doanh nghiệp đã dự
trữ một khối lợng lớn các tài sản dới dạng bất động sản và cổ phiếu các công ty. Do
đó, sản xuất và tiêu dùng bị kích thích mạnh bởi cơn sốt bất động sản và cổ phiếu
chứng khoán. Điều này làm cho kinh tế Nhật Bản tăng trởng rất cao vào những năm
của thập kỷ 80. Để hạn chế tốc độ tăng trởng quá nóng, Chính phủ phải nâng lãi suất
cho vay, vì vậy, nền kinh tế bị xì hơi, giá cổ phiếu và bất động sản tụt xuống rất
nhanh. Hậu quả là tiền nợ không đòi đợc lên tới con số rất cao, ảnh hởng nghiêm
trọng tới hệ thống tín dụng, ngân hàng. Tính đến cuối năm 1995, đã có hàng loạt
công ty bị phá sản, không có tiền trả nợ ngân hàng, khiến cho tổng số nợ khó đòi của
các ngân hàng đã lên tới 40.000 tỷ JPY (gần 400 tỷ USD). Nhiều ngân hàng và công
ty tài chính lâm vào tình trạng hết sức khó khăn, trong đó có cả 11 ngân hàng mạnh
nhất của Nhật Bản và cũng là của thế giới đã phải giảm tới 10% khả năng hoạt động
trong hai năm 1994-1995 [23,19]. Giới đầu t vốn trong nớc và ngoài nớc mất lòng tin
với thị trờng tài chính Nhật Bản. Tình trạng này ảnh hởng trực tiếp tới một bộ phận
khác về mặt cầu là đầu t của các xí nghiệp. Ngân hàng cha xử lý đợc các món nợ khó
đòi, không tích cực hoặc không có khả năng cho vay đối với các dự án mới, ảnh hởng
không nhỏ tới các xí nghiệp vừa và nhỏ. Các ngân hàng lúc đó không có khả năng

cho các doanh nghiệp vay tiền để mở rộng sản xuất nữa. Nhiều gia đình, cá nhân lo
sợ trớc sự mất mát về tài sản nên đã hạn chế chi tiêu. Các yếu tố này là nguyên nhân
dẫn đến cầu tiêu dùng giảm mạnh, thị trờng trong nớc tiêu điều, nền kinh tế lâm vào
tình trạng suy thoái. Tính đến năm 1995, đã có tới 15.000 công ty của Nhật bị phá
sản, chỉ riêng 6 tháng đầu năm 1998, con số này đã lên đến 10.262. Năm 1999, kinh
8
tế Nhật Bản có dấu hiệu phục hồi trở lại song chỉ với tốc độ hết sức chậm chạp, tốc
độ tăng trởng khoảng 0,5% chứ cha thể tăng trở lại nh trớc thời kỳ khủng hoảng
[23,21].
Nguyên nhân thứ hai dẫn tới suy thoái kinh tế là sự yếu kém, lạc hậu của hệ thống
ngân hàng, tài chính Nhật Bản. Sự yếu kém, lạc hậu thể hiện ở một số khía cạnh nh:
hệ thống ngân hàng, tài chính Nhật Bản đã nhiều năm chịu sự kiểm soát chặt chẽ của
Bộ Tài Chính và Ngân hàng Nhật Bản là các cơ quan đại diện cho Chính phủ Nhật
Bản đã không còn phù hợp trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế và tự do cạnh tranh
hiện nay. Mặt khác, sự liên kết giữa các quan chức chính phủ với giới doanh nghiệp
đã ngày càng tỏ ra bị tha hóa, không có hiệu quả. Vào những năm trớc thập niên 90,
Nhật Bản có tới 7 trong số 10 ngân hàng đứng đầu thế giới, nhng vào cuối thập niên
90 thì 20 ngân hàng hàng đầu Nhật Bản nằm ở thứ hạng rất thấp so với các ngân hàng
nớc ngoài, tụt hậu khoảng 10 năm so với các ngân hàng Mỹ. Chính Phủ và Ngân
hàng Trung Ương đã không thấy hết sự năng động, thích ứng của các xí nghiệp, phản
ứng của thị trờng nên đã áp dụng các chính sách không phù hợp. Thêm vào đó là
những mối quan hệ mờ ám giữa các quan chức chính phủ với các ngân hàng đã dẫn
đến nhiều vụ tham nhũng nghiêm trọng cha bị phanh phui. Theo đánh giá của Quỹ
tiền tệ quốc tế IMF, nền kinh tế Nhật Bản sẽ còn gặp nhiều khó khăn nếu nh không
giải quyết đợc các vấn đề của khu vực tài chính ngân hàng.
Thứ ba là sự già hoá dân số là gánh nặng của các chính sách đảm bảo phúc lợi.
Nhật Bản hiện nay đang là nớc có chỉ số tuổi thọ dân c cao nhất thế giới. Với dân số
127,1 triệu ngời (2001), trong đó lực lợng lao động chiếm 67,76 triệu ngời (1998), tỷ
lệ tăng dân số hàng năm rất thấp 0,18% (2000), thì gánh nặng đè lên vai những ngời
trong độ tuổi lao động là rất lớn. Nhng sự già hoá dân số ở Nhật Bản không phải do

cuộc khủng hoảng kinh tế Nhật Bản những năm 90 mà là kết quả của sự phát triển
kinh tế Nhật Bản những năm trớc đây. Khi nền kinh tế tăng trởng cao, thì chính sách
đảm bảo phúc lợi cho ngời già đợc gia tăng, đây là một trong những nguyên nhân chủ
9
yếu khiến cho tuổi thọ của ngời dân Nhật Bản rất cao. Tỷ lệ ngời già trên 65 tuổi
chiếm 15% dân số, dự báo đến năm 2005 số ngời trên 65 tuổi là 19,3%, 2050 con số
này sẽ lên tới 35% [23,24]. Mặt khác, do làm việc quá căng thẳng, chịu nhiều sức ép
nên xu thế hiện nay của những ngời trẻ tuổi là họ không muốn sinh con, hoặc cùng
lắm chỉ sinh 1 con, bình quân 1 phụ nữ Nhật Bản chỉ sinh 1,42 con và thông thờng thì
ngời phụ nữ trong gia đình thờng ở nhà làm công việc nội trợ, không tham gia vào lao
động xã hội. Ngoài ra, còn có những ngời không thích kết hôn mà chỉ sống độc thân
nên tình trạng mất cân đối cơ cấu dân số là tất nhiên. Nhật Bản đang đứng trớc thách
thức số ngời già tăng nhanh nhng số trẻ em ngày càng ít.
ảnh hởng của vấn đề dân số già và tỷ lệ sinh đẻ thấp trên đây đối với nền kinh tế
Nhật Bản đã gây nên tình trạng thiếu sức lao động, nhất là lao động trẻ trong lĩnh vực
khoa học kỹ thuật, từ đó làm giảm năng suất lao động xã hội và tăng trởng kinh tế. Sự
già hoá dân số còn kéo theo một loạt các hậu quả khác nh: làm giảm thu nhập và sức
mua, giảm tỷ lệ tích luỹ trong gia đình do đó làm giảm đầu t vào phát triển kinh tế,
giảm đóng thuế, giảm đóng góp tiền hu, tăng gánh nặng tài chính cho ngân sách Nhà
nớc, Theo dự báo của các nhà nhân khẩu học từ năm 2007 trở đi, dân số Nhật sẽ
suy giảm nghiêm trọng, chỉ còn 67 triệu ngời năm 2100. Rõ ràng, sự già hoá dân số
ở Nhật Bản là một trong những nguyên nhân không nhỏ làm cho nền kinh tế Nhật
Bản lâm vào khủng hoảng trầm trọng.
Một nguyên nhân nữa không thể không kể đến là sự yếu kém của bộ máy nhà nớc,
tình hình chính trị không ổn định. Trớc đây sự liên kết giữa tam giác quyền lực (giới
chính trị, quan chức nhà nớc và doanh nghiệp) ở Nhật đã có tác động rất tích cực thì
trong thời điểm những năm 90 lại trở nên hết sức tiêu cực: tình hình chính trị rối ren,
bộ máy nhà nớc quản lý yếu kém, quan chức nhà nớc tham gia vào các vụ bê bối,
tham nhũng. Trải qua gần 40 năm cầm quyền, Đảng Dân Chủ-Tự Do Nhật đã mất
quyền lãnh đạo, trở thành đảng đối lập suốt những năm 1993-1996. Từ năm 1997 đến

nay, tuy đã trở lại cầm quyền, Đảng Dân chủ - Tự do đã nhiều lần đa ra các biện pháp
cải cách kinh tế song vì nhiều nguyên nhân khác nhau mà nền kinh tế vẫn cha phục
10
hồi đợc. Có thể nói, chính những yếu kém trong vai trò lãnh đạo chính trị và quản lý
phát triển nền kinh tế của Đảng Dân chủ- Tự do đã góp phần làm cho nền kinh tế của
đất nớc này suy yếu.
Nguyên nhân cuối cùng là sự bất cập của mô hình kinh tế Nhật Bản trớc những thử
thách, yêu cầu của giai đoạn mới. Kinh tế Nhật Bản hiện nay có thể hình dung là
một cơ cấu hai tầng, một bên là những ngành có năng suất cao nh: điện tử, xe hơi,
một bên là các ngành có năng suất thấp nh dịch vụ, tiền tệ, ngân hàng, Trong đó,
Chính phủ và giới kinh doanh luôn có quan hệ mật thiết với nhau, Nhà nớc bảo hộ
chặt chẽ các ngành sản xuất phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng nội địa. Mô hình kinh tế
này đã trở nên không phù hợp nữa. Thực tế cho thấy, vốn đầu t của các công ty Nhật
Bản thờng đợc cung cấp từ nguồn vốn tiết kiệm của cả nớc thông qua ngân hàng với
lãi suất rất thấp, không phải cạnh tranh trong thị trờng mở về tài chính nh các nớc ph-
ơng Tây. Trong khi đó, các ngân hàng dới dự trợ giúp của Chính phủ đã cung cấp tài
chính một cách thụ động cho các doanh nghiệp. Điều này đã làm cho hoạt động của
các ngân hàng trì trệ, kém hiệu quả và đứng trớc nguy cơ bị các ngân hàng lớn của
Mỹ và các nớc Tâu Âu nuốt chửng. Đó là trờng hợp Công ty chứng khoán Merrill của
Mỹ đã tuyên bố rằng họ sẽ tuyển 2000 trong số 7500 nhân viên của Công ty chứng
khoán Yamaichi cùng với giành quyền quản lý 50 chi nhánh nớc ngoài của công ty
này ngay sau khi Yamaichi phá sản 1 tháng.
Ngoài những nguyên nhân trên, còn phải kể đến nguyên nhân gián tiếp làm cho
nền kinh tế Nhật Bản sa sút, đó là ảnh hởng của cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ
Đông Nam á năm 1997-1998. Hoạt động xuất nhập khẩu và đầu t của Nhật Bản vào
thị trờng này chịu thiệt hại nặng nề vì các nớc Đông Nam á vốn là những đối tác
quan trọng của Nhật. Tính đến nửa đầu năm 1998, xuất khẩu của Nhật sang Châu á
giảm 21,1%. Về lĩnh vực đầu t, hoạt động của các ngân hàng Nhật tại Châu á bị thu
hẹp do không có khả năng duy trì hoạt động và kém cạnh tranh so với các ngân hàng
nớc ngoài khác kéo theo đầu t trực tiếp của Nhật vào khu vực giảm mạnh. Năm 1998,

11
các công ty Nhật dự định đầu t ra nớc ngoài là 1,2 nghìn tỷ JPY, giảm 56,5% so với
năm trớc, trong đó 20% tổng số tiền đợc đầu t vào Châu á, giảm 3,6% so với năm
1997 [23,41]. Đặc biệt là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực đã có tác động
mạnh mẽ tới nền tài chính Nhật Bản. Cuộc khủng hoảng đã làm rối loạn các quan hệ
tài chính tiền tệ giữa các công ty trong nớc với các công ty nớc ngoài làm không ít
các tổ chức tài chính tiền tệ phá sản. Chỉ tính đến đầu năm 1998, các khoản nợ khó
trả lên tới 6700 tỷ JPY, chiếm khảng 15% GDP. Cuộc khủng hoảng còn làm giảm chỉ
số Nikkei và đồng Yên, đồng Yên đã đạt tới mức kỷ lục 147,24 Yên/đôla [23,163].
1.1.2 Triển vọng phục hồi nền kinh tế năm đầu thế kỷ XXI và những nỗ lực cải
cách của Thủ tớng Koizumi:
Với tốc độ tăng trởng kinh tế khả quan năm 2000, nhiều ngời đã hy vọng rằng nền
kinh tế lớn thứ hai thế giới này sẽ nhanh chóng phục hồi. Sau nhiều năm suy thoái,
nền kinh tế lại có mức tăng trởng dơng song tốc độ tăng trởng còn ở con số hết sức
khiêm tốn. Bớc vào năm 2001, sự suy giảm tốc độ tăng trởng kinh tế vẫn còn tiếp
diễn, có thể nhận thấy qua con số thống kê từng quý của năm 2001: Quý I: 0,1%;
Quý II: -0,7%, Quý III: -0,5% [9,11]. Những tháng đầu năm 2002, trong một số lĩnh
vực nhất là xuất khẩu, tình hình có vẻ sáng sủa hơn song vẫn cha ổn định và thiếu
chắc chắn. Tổng giá trị sản phẩm quốc nội (GDP) của nớc này trong 3 tháng đầu năm
tăng 1,4%, cao nhất trong 2 năm trở lại đây. Mức tăng tơng đơng với tốc độ tăng tr-
ởng 5,7%/ năm, cao hơn cả Mỹ. Ông Kiichi Miyazawa, Bộ trởng Tài chính Nhật Bản
khẳng định rằng: Kể từ nay trở đi, nền kinh tế Nhật Bản sẽ hồi phục, và cơ sở của
sự hồi phục này là sự cải thiện về tình hình lợi nhuận của các doanh nghiệp trong thời
gian qua, đặc biệt là các công ty công nghệ cao và khu vực kinh tế mới. Sự xuống
giá của đồng Yên sẽ tác động tích cực tới xuất khẩu và không hề gây trở ngại đối với
việc các nhà đầu t nớc ngoài tiếp tục mua trái phiếu Chính phủ Nhật Bản. Chính sự
phục hồi nhanh chóng của các hoạt động xuất khẩu và sự gia tăng mạnh mẽ trong chi
tiêu tiêu dùng đã làm cho tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Nhật tăng tới 1,4%
12
trong thời gian nói trên. Các con số thống kê cho thấy, tốc độ tăng trởng kinh tế trong

năm tài chính 2002 là 0%, khả quan hơn so với dự báo của IMF là -1,3% nhờ sự phục
hồi kinh tế của thị trờng Mỹ và các nớc Châu á [6,158]. Tuy nhiên, các quan chức
chính quyền Nhật lại cảnh báo không nên lạc quan rằng các con số thống kê tích cực
nói trên sẽ tiếp tục trong những tháng tới. Các nhà phân tích kinh tế cho rằng, phải
mất nhiều tháng nữa, nền kinh tế Nhật Bản mới có thể tăng trởng một cách vững
chắc.
Tình hình kinh tế đã Nhật Bản năm 2000 và 2001 cho thấy Chính phủ và các doanh
nghiệp đã ra sức cố gắng đa nền kinh tế Nhật Bản đi lên, và họ đã thành công trong
bớc đầu khẳng định rằng tốc độ suy thoái đã đợc kìm hãm và tiến trình cải cách
không bị chệch hớng. Tháng 4 năm 2001, Koizumi Junichiro đợc bầu làm Thủ tớng,
và chỉ sau 2 tháng kể từ khi nhậm chức, ông đã đa ra một chơng trình cải cách nền
kinh tế, đa nớc Nhật thoát khỏi khủng hoảng. Mục tiêu của chơng trình cải cách lần
này là tập trung chấn chỉnh cơ cấu kinh tế trong vòng từ hai đến ba năm, chấp nhận
mức tăng trởng âm, để sau đó có thể đạt đợc mức tăng trởng dơng. Các giải pháp của
Thủ tớng Koizumi tập trung chủ yếu vào các nội dung sau:
Thứ nhất, giải quyết dứt khoát các khoản nợ khó đòi để bình thờng hoá hệ thống tín
dụng. Mặc dù nợ khó đòi là một vấn đề nan giải, song ngân sách không bố trí khoản
chi nào cho việc giải quyết nợ mà Chính phủ thực hiện bằng biện pháp xoá nợ và mua
lại nợ. Cho đến tháng 3 năm 2003, tập trung giải quyết nợ khó đòi của các ngân hàng
lớn (14 ngân hàng hàng đầu Nhật Bản có thể xoá ít nhất 6,5 nghìn tỷ JPY) [15, 8]. Để
cung cấp tài chính cho các hoạt động của mình do việc xoá nợ, các ngân hàng Nhật
Bản đang tích cực giải quyết bằng việc bán bớt các tài sản ở nớc ngoài. Chính phủ sẽ
xây dựng các quy định pháp lý mới để cố gắng loại bỏ các khoản nợ xấu trong vòng
2-3 năm tới. Ngoài việc mua lại nợ và xoá nợ, các ngân hàng còn tiến hành thanh lý
nợ theo pháp luật hiện hành (cho các xí nghiệp chịu nợ phá sản) hoặc ngân hàng huỷ
13
bỏ một phần nợ. Trong trờng hợp ngân hàng không có khả năng thanh lý theo 3 cách
này thì cơ quan hồi thu và chỉnh lý nợ sẽ xử lý các khoản nợ đó.
Thứ hai là cải cách hệ thống thuế để kích thích phát triển. Cải cách thuế tập trung
vào thuế thu nhập, thuế tài sản thừa kế, thuế mua bán chứng khoán, để các cá nhân

tham gia nhiều hơn vào thị trờng chứng khoán. Hiện nay, tiền để dành của ngời Nhật
lên tới 14.000.000 tỷ JPY (khoảng 12.000 tỷ USD, trung bình mỗi ngời dân khoảng
100.000 USD) và 70% do ngời già nắm giữ [13,9]. Nếu cải cách thuế, một phần số
tiền đó sẽ mua chứng khoán và làm cho giá chứng khoán tăng lên.
Thứ ba là tiến hành cải cách cơ cấu. Cải cách cơ cấu là mục tiêu luôn đợc Chính
phủ đa lên hàng đầu. Thủ tớng Koizumi đã xúc tiến bảy chơng trình cải cách bao
gồm: t nhân hoá; thực hiện chơng trình hỗ trợ cá nhân nh là một hệ thống xã hội
khuyến khích khả năng của cá nhân; tăng cờng chức năng bảo hiểm và phúc lợi xã
hội; thành lập quỹ hỗ trợ cho nghiên cứu và giáo dục đối với khu vực t nhân; cải thiện
cơ sở hạ tầng để tạo một môi trờng cho phép mọi ngời sống và làm việc theo ý muốn;
tối đa hoá quyền lực của chính quyền địa phơng để tăng tính tự lập và năng động; cải
cách tài chính bằng cách thay đổi sự cứng nhắc đối với các hình thức phân bổ nguồn
vốn của chính quyền nhà nớc và địa phơng, điều chỉnh lại các nguồn thu nhập và
phân bổ ngân sách giữa các khu vực sao cho hiệu quả và linh hoạt hơn. Cùng với việc
cải cách cơ cấu kinh tế vĩ mô, các doanh nghiệp Nhật Bản cũng cải tổ, sắp xếp lại tổ
chức và định hớng lại sản xuất cho phù hợp với điều kiện mới.
Thứ t là, tập trung xây dựng hệ thống kinh tế có sức cạnh tranh trong môi trờng
kinh tế hiện nay. Nhật Bản xúc tiến đầu t vào các ngành công nghiệp mới trong đó
Chính phủ chú trọng tới các biện pháp về thuế để kích thích t nhân tham gia vào thị
trờng chứng khoán, thực hiện chơng trình trọng điểm e-japan để đạt tới mục tiêu
trong 5 năm tới Nhật Bản trở thành nớc hàng đầu về công nghệ thông tin. Ngoài ra,
Nhật Bản rất nỗ lực trong hợp tác kinh tế với các nớc Asean + 3, Chính phủ đang xem
14
xét tới việc thiết lập một khu vực tự do thơng mại Đông á trớc 2010 để tận dụng u
thế của thị trờng rộng lớn này.
Trên đây là những giải pháp chủ yếu của Thủ tớng Koizumi đề ra và tiến hành trong
năm 2001. Dù rằng tốc độ tăng trởng kinh tế Nhật Bản năm 2001 không đạt đợc nh
mong đợi, và trong năm 2002, tình hình kinh tế vẫn khó khăn và tăng trởng yếu ớt
song có thể hy vọng về một tốc độ tăng trởng khá nếu Nhật Bản tiếp tục giữ vững đ-
ờng lối cải cách của mình, đồng thời tiếp tục đa ra những chính sách mới một cách

nhanh chóng, kịp thời. Hơn thế nữa, trong thời gian tới nền kinh tế thế giới và khu
vực sẽ có thể tăng trởng với mức độ cao hơn năm 2001, đây sẽ là điều kiện thuận lợi
để nền kinh tế Nhật Bản đạt tốc độ tăng trởng dơng.
1.2 Thơng mại của Nhật Bản với các khu vực và thế giới
trong những năm gần đây:
1.2.1 Lợi ích của Nhật Bản trong quan hệ thơng mại với các khu vực và thế
giới:
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, đặc biệt là lĩnh vực công
nghệ cao nh thông tin, sinh học, trong những năm gần đây, là sự thay đổi cơ cấu
kinh tế thế giới cũng nh sự thay đổi của bản thân mỗi nền kinh tế. Sự phát triển mạnh
mẽ của khoa học công nghệ đã góp phần làm cho các quốc gia Đông Nam á trớc đây
còn lạc hậu nhiều so với Nhật nay đã nâng cao năng lực cạnh tranh của mình và trở
thành đối thủ cạnh tranh quyết liệt với Nhật Bản. Điển hình là Hàn Quốc, Singapore
đã từng bớc xoá bỏ quan hệ một chiều phụ thuộc vào Nhật Bản cũng nh các quốc gia
phát triển khác chuyển sang thành đối tác thực sự trong nhiều lĩnh vực. Sự gia tăng
mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế làm cho các quốc gia ràng buộc với
nhau một cách chặt chẽ và cạnh tranh cũng ngày càng quyết liệt hơn. Song, trong
quan hệ thơng mại với các khu vực và thế giới, Nhật Bản có thể tận dụng và phát huy
đợc các thế mạnh của mình.
15
Thứ nhất, quan hệ thơng mại với các nớc cho phép Nhật Bản xâm nhập vào thị trờng
các nớc này vì cơ sở nguyên nhiên liệu cũng nh thị trờng tiêu thụ sản phẩm sẽ rộng
mở hơn. Việc khai thông thị trờng quốc gia với quốc tế cho phép bổ sung những mặt
yếu và phát huy lợi thế so sánh của mình. Nhật Bản đã tận dụng lợi thế này một cách
có hiệu quả. Thực tế đã chứng minh rằng, không một quốc gia nào có thể phát triển
đợc nếu chỉ xây dựng thị trờng nội địa mà không tính đến thị trờng bên ngoài với chủ
trơng tạo lập một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Và thực tế đã chứng minh là nền kinh tế
bế quan toả cảng là hoàn toàn không phù hợp, nhất là trong xu thế toàn cầu hoá.
Chúng ta đều biết Nhật Bản là một quốc gia nghèo tài nguyên thiên nhiên, nhng lại là
một nớc có nền kinh tế cờng thịnh thứ hai thế giới. Những thành công mà Nhật Bản

gặt hái đợc có sự đóng góp không nhỏ của thơng mại quốc tế.
Thứ hai là nhờ có thơng mại quốc tế mà việc giao lu văn hoá đã xâm nhập vào Nhật
Bản, làm cho cuộc sống ngời dân trở nên phong phú hơn, chất lợng cuộc sống đợc
nâng cao hơn. Đồng thời, quan hệ thơng mại với các nớc còn làm cho tự do dân chủ ở
Nhật phát triển mạnh, tạo lập cơ sở cho sự hiểu biết lẫn nhau, xoá tan những thù hằn
trong quá khứ. Đây là một trong những điều kiện quan trọng để bành trớng vai trò
của Nhật về phơng diện kinh tế và chính trị trên toàn cầu. Có thể thấy rằng quan niệm
của ngời Nhật về bên trong và bên ngoài rất đậm nét và có phần hạn chế sự xâm nhập
bên ngoài vào trong nớc. Chính vì vậy, việc mở rộng quan hệ buôn bán với các nớc
trên thế giới buộc Nhật Bản phải cải cách lại cơ chế bên trong cho phù hợp. Trớc tiên
là hệ thống ngân hàng, hiện đang là lĩnh vực cản trở sự phục hồi của Nhật Bản.
Quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế làm cho sự cạnh tranh trở nên gay gắt hơn.
Nhiều doanh nghiệp nớc ngoài đã xâm nhập vào thị trờng Nhật, mang lại cho thị tr-
ờng Nhật những tác phong làm việc mới, cách thức kinh doanh mới, Vì vậy, ng ời
Nhật phải liên tục đổi mới, nghiên cứu tìm ra những phơng thức mới trong kinh
doanh để dành đợc u thế và khẳng định đợc vai trò của mình trên thế giới.
16
Bên cạnh đó, tham gia vào thơng mại quốc tế còn tạo điều kiện cho Nhật Bản tham
gia một cách tích cực hơn nữa vào việc giải quyết các vấn đề của toàn cầu có liên
quan đến sự phát triển kinh tế, đến sự tồn vong của Nhật Bản. Đặc biệt là vấn đề về
môi trờng, Nhật Bản không thể tự mình giải quyết hết đợc các vấn đề về môi trờng.
Trong quá trình công nghiệp hoá ở Nhật Bản trớc đây, ngời ta cha chú trọng đúng
mức tới môi trờng, hậu quả là Nhật Bản ở trong tình trạng ô nhiễm môi trờng nặng.
Nhật Bản là nớc có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt nên Nhật Bản phải đầu t rất lớn
vào các biện pháp hạn chế những hậu quả do ô nhiễm môi trờng. Tuy nhiên, Nhật
Bản khó có thể giải quyết vấn đề này một mình mà cần có sự hợp tác quốc tế để cùng
giải quyết.
Tóm lại, không thể phủ định vai trò của quan hệ thơng mại với các khu vực và thế
giới trong sự ổn định và phát triển của Nhật Bản. Tuy nhiên, thông qua thơng mại
quốc tế, các quốc gia khu vực Đông á đã nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo ra một

môi trờng kinh doanh thuận lợi cho Nhật, bên cạnh đó nó còn đe doạ tới một số lĩnh
vực kinh tế của Nhật đợc Nhà nớc bảo hộ. Mặt khác, sự phụ thuộc vào nhau giữa các
quốc gia để đảm bảo an ninh kinh tế trở nên phức tạp hơn. Khi một nền kinh tế nào
đó suy yếu đi thì sẽ ảnh hởng rất lớn tới kinh tế thế giới và khu vực và ngợc lại.
1.2.2 Đánh giá cán cân thơng mại của Nhật Bản trong thời gian qua:
Từ năm 1983, Nhật Bản đợc biết đến nh một quốc gia có thặng d thơng mại lớn nhất
thế giới. Xu hớng gia tăng mức d thừa cán cân thơng mại kéo dài suốt cho tới năm
1994 và giảm nhẹ trong những năm 1995, 1996, sau đó tiếp tục tăng cao, đạt mức d
thừa kỷ lục là 13.990 tỷ JPY năm 1998. Song, mức d thừa năm 1998 không phải do
hoạt động xuất khẩu gia tăng mà do mức xuất và nhập thực tế đều giảm, nhng mức
giảm của kim ngạch xuất khẩu thấp hơn nhập khẩu 4,5%.
Bảng 1, Thống kê kim ngạch xuất nhập khẩu của Nhật Bản từ năm 1995-2000:
(Đơn vị: triệu USD)
17
Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000
Xuất khẩu 443.116 410.901 420.957 387.927 419.367 479.333
Nhập khẩu 335.882 349.152 338.754 280.484 311.262 379.511
Cán cân th-
ơng mại
107.234 61.749 82.203 107.443 108.105 99.822
(Nguồn: Thống kê nớc ngoài, niên giám thống kê 2001).
Trong hai năm 1999 và 2000, mức thặng d thơng mại vẫn tiếp tục giảm sút, riêng
năm 2000 giảm 12,7% so với năm 1999 và đây là năm thứ hai giảm liên tục. Sang
năm 2001, thặng d thơng mại giảm mạnh nhất là trong những tháng đầu năm, Nhật
Bản nằm trong tình trạng nhập siêu với mức 95,3 tỷ JPY. Nguyên nhân chính của
hiện tợng này bởi nhu cầu hàng hoá Nhật trên thị trờng Mỹ giảm do sự giảm sút của
nền kinh tế Mỹ. Kim ngạch xuất khẩu của Nhật Bản trong tháng 1 tăng 3,1% đạt
3623,4 tỷ JPY, trong khi đó nhập khẩu tăng 24,3%, tức 3718,6 tỷ JPY. Trong lĩnh
vực xuất khẩu, mặc dù đồng yên có xu hớng giảm mạnh so với đồng đôla Mỹ, nhng
do nhu cầu bên ngoài yếu đi khiến cho xuất khẩu liên tục giảm sút. Kim ngạch xuất

khẩu liên tục giảm sút, quý I, quý II lần lợt giảm là 3,6%, 4,8%, kim ngạch xuất khẩu
quý III đạt 12.049,9 tỷ JPY, giảm 7,8 % so với cùng kỳ năm trớc. Tính riêng mức
xuất khẩu giảm 7,8% đạt 4136 tỷ JPY, trong khi đó kim ngạch nhập khẩu tăng 2,4%,
đạt 3375 tỷ JPY. Theo thống kê của Bộ Tài chính, mức thặng d trong 9 tháng đầu
năm 2001 đạt 3305 tỷ JPY, giảm 43,1% so với cùng kỳ khoá trớc. Đây là mức giảm
lớn nhất kể từ năm 1978 đến nay. Xuất khẩu giảm mạnh do sự suy giảm nhu cầu trên
thế giới, nhất là nhu cầu về các sản phẩm thuộc khu vực công nghệ thông tin (IT).
Bên cạch đó, cuộc khủng bố 11-9 cũng ảnh hởng không nhỏ tới thơng mại Nhật, làm
gián đoạn hoạt động xuất khẩu sang thị trờng Mỹ.
1.2.3 Thị trờng và cơ cấu hàng hoá và xuất nhập khẩu của Nhật Bản:
1.2.3.1 Thị trờng xuất nhập khẩu của Nhật:
18
Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu trong những năm gần đây của Nhật cho thấy
có xu hớng chuyển dịch sang Châu á.
Bảng 2, Thị trờng xuất khẩu Nhật Bản:
( Đơn vị: %)
Châu á
Trung
Đông
EU Mỹ Mỹ la
tinh
Châu Phi Châu Đại
Dơng
1998
1999
2000
34,7
37,3
41,1
3,6

2,6
2,3
18,4
17,8
16,3
30,5
30,7
29,7
5,4
4,7
4,4
1,5
1,3
1,1
2,5
2,5
2,1
(Nguồn: Japan almanac 2002).
Bảng 3, Thị trờng nhập khẩu Nhật Bản:
(Đơn vị: %)
Châu á
Trung
Đông
EU Mỹ Mỹ la
tinh
Châu Phi Châu Đại
dơng
1998
1999
2000

37,1
39,6
41,7
9,2
9,9
13,0
13,9
13,8
12,3
23,9
21,6
19,0
3,3
3,1
2,9
1,4
1,3
2,9
5,6
5,0
4,7
(Nguồn: Japan almanac 2002).
Từ số liệu trên ta thấy, thị trờng chính của Nhật là Mỹ, Châu á và EU. Thị trờng
Châu á trong thời gian gần đây đã chiếm tỷ trọng cao trong quan hệ thơng mại với
Nhật Bản, trong khi đó, thị trờng Mỹ và EU lại có xu hớng giảm.
Thơng mại của Nhật với Châu á năm tăng trởng cao nhất là trong lĩnh vực xuất khẩu
20,1% so với năm 1999 trong khi đó Mỹ và EU chỉ tăng 5,0% và 0,4%. Điều đó cho
thấy Châu á đã trở thành đối tác quan trọng của Nhật Bản.
19
Sang năm 2001, kim ngạch nhập khẩu từ Châu á có chiều hớng tăng. Trong tháng 1,

kim ngạch xuất khẩu sang Châu á của Nhật đạt 1385,9 tỷ JPY, tăng 5,6%, nhập khẩu
tăng 28,7% đạt 1570,7 tỷ JPY. Mức xuất sang Mỹ trong cùng kỳ đạt 1132,7 tỷ JPY
và nhập khẩu đạt 676,3 tỷ JPY. Việc gia tăng kim ngạch xuất nhập khẩu của Nhật
Bản với Châu á nằm trong chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhật. Ngoài ra, sự
suy giảm của nền kinh tế Mỹ và sự phục hồi của các nớc khu vực Đông á sau khi
thoát khỏi khủng hoảng tài chính tiền tệ đã góp phần làm cho quan hệ thơng mại giữa
Nhật Bản và Châu á ngày càng phát triển. Tuy tỷ trọng xuất nhập khẩu với Châu á
tăng song hoạt động xuất nhập khẩu của Nhật Bản nói chung năm 2001 với các thị tr-
ờng khác có phần giảm sút. Theo nh nhiều dự báo của các nhà nghiên cứu, nếu Nhật
Bản không có những biện pháp hợp lý thì sẽ có nguy cơ rơi vào tình trạng nhập siêu.
Bảng 4, Mức tăng trởng của kim ngạch xuất nhập khẩu Nhật Bản năm 2000 so
với năm 1999:
(Đơn vị: triệu JPY (%))
Quốc gia-Vùng
lãnh thổ
Xuất khẩu Tăng trởng so
với năm 1999(%)
Tỷ
lệ(%)
Nhập khẩu Tăng trởng
so với năm
1999(%)
Tỷ
lệ(%)
Cân bằng th-
ơng mại
(triệu JPY)
Tổng cộng 51.654.198 8,6 100,0 40.938.423 16,1 100,0 10.715.775
Châu á
21..254..2.20 20,1 41,2 17.062.690 22,1 41,7 4.191.535

Trung Quốc 3.274.448 23,2 6,3 5.941.358 21,9 14,5 2.666.910
Hàn Quốc 3.308.751 27,0 6,4 2.204.703 20,9 5,4 1.104.048
Đài Loan 3.874.045 18,2 7,5 1.930.141 32,6 4,7 1.943.881
NIEs 12.356.404 20,6 23,9 5.008.202 22,1 12,2 7.348.202
Asean 7.381.211 19,6 14,3 6.423.810 22,1 15,7 957.401
Châu Đại Dơng 1.109.597 8,0 2,1 1.928.696 9,2 4,7 819.099
úc
923.830 3,9 1,8 1.595.908 9,5 3,9 672.078
Bắc Mỹ 16.165.440 5,0 31,3 8.727.724 2,1 21,3 7.434.716
Hoa Kỳ 15.355.867 5,1 29,7 7.778.861 1,8 19,0 7.577.006
Châu Mỹ Latinh 2.265.297 2,2 4,4 1.183.276 7,4 2,9 1.082.021
Mexico 561.557 12,3 1,1 257.126 36,9 0,6 304.431
Đức 2.155.178 1,6 4,2 1.371.925 5,0 3,4 783.253
Anh 1.598.434 1,1 3,1 709.180 5,2 1,7 889.254
Pháp 803.801 3,6 1,6 691.297 1,1 1,7 112.504
Hà Lan 1.356.814 0,8 2,6 216.174 0,4 0,5 1.140.640
EU 8.431.938 0,4 16,3 5.042.937 3,7 12,3 3.389.001
Nga 61.404 12,3 0,1 493.791 15,2 1,2 432.387
Trung Đông 1.044.818 6,0 2,0 5.310.155 53,9 13,0 4.263.337
Châu Phi 544.124 13,0 1,1 534.937 15,0 1,3 9.187
(Nguồn: Bộ Tài Chính Nhật Bản).
20
1.2.3.2 Cơ cấu xuất nhập khẩu:
Một đặc điểm của cơ cấu xuất khẩu Nhật Bản những năm gần đây là sự tăng nhanh
chóng của những sản phẩm liên quan đến công nghệ thông tin (những sản phẩm có
hàm lợng công nghệ cao) bao gồm chất bán dẫn và thiết bị điện tử, thiết bị truyền
thông, dụng cụ đo lờng điện tử, sợi cáp quang, các thiết bị quang học và khoa học
khác. Ngợc lại, Nhật Bản nhập khẩu chủ yếu là nguyên nhiên liệu do đặc điểm vốn
có là một nớc nghèo tài nguyên và chính sách kinh tế hớng xuất khẩu.
Bảng 5, Thể hiện cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Nhật Bản năm 2000:

(Đơn vị: tỷ JPY, %)
Sản phẩm Đơn vị Số lợng Giá trị Tỷ trọng
(%)
Tỷ lệ tăng trởng so
với năm 1999 (%)
Số lợng Giá trị
Tổng cộng 51.645 100,0 8,6
Lơng thực 227 0,4 5,2
Sản phẩm dệt may 915 1,8 1,7
Hoá chất 3.805 7,4 8,6
+ Hoá chất hữu cơ 1.193 2,3 4,7
+ Nhựa 1.000 t 4.739 1.057 2,0 2,8 8,8
Sản phẩm phi kim 602 1,2 12,3
Kim loại và sản phẩm
kim loại
2.852 5,5 5,2
+ Sắt thép triệu tấn 29,0 1.600 3,1 3,3 4,4
+ Sản phẩm kim loại 694 1,3 3,9
Máy móc 11.096 21,5 9,3
+ Thiết bị văn phòng 3.064 6,0 1,2
+ Thiết bị điện tử 13.670 26,5 18,2
+ Thiết bị truyền hình 1.000 32.727 1.395 2,7 13,0 15,1
+ Đầu video, cassette 1.000 23.723 924 1,8 15,1 18,8
+ Thiết bị nghe nhìn 60.426 624 1,2 2,9 17,6
+ Thiết bị truyền thông 920 1,8 21,5
+ Bán dẫn và linh kiện
điện tử
4.576 8,9 22,8
Thiết bị ngành giao
thông vận tải

10.828 21,0 0,3
+ Xe ô tô 1.000 5.188 6.930 13,4 2,3
Dụng cụ chính xác 2.773 5,4 15,3
+ Thiết bị quang học và
khoa học
2.626 5,1 17,2
21
Khác 4.887 9,5 3,0
(Nguồn: Thống kê của Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản).
Xuất khẩu các sản phẩm điện tử - bán dẫn là thế mạnh của xuất khẩu Nhật Bản. Năm
2000, xuất khẩu trong lĩnh vực này tăng 18,2% so với năm 1999. Trong 3 tháng đầu
năm 2001, xuất khẩu các sản phẩm bán dẫn điện tử có mức tăng là 31,2% so với cùng
kỳ năm trớc. Do sự suy giảm của nền kinh tế toàn cầu mà xuất khẩu các sản phẩm
này có chiều hớng giảm, tháng 5 năm 2001 giảm 15,7%, xuất khẩu các sản phẩm bán
dẫn sang Mỹ giảm 29,3%, EU giảm 37,6%, Châu á giảm 8,2%. Sự đóng góp của
thiết bị điện và điện tử, thiết bị chính xác làm cho kim ngạch xuất khẩu nhóm tăng
60%. Đầu năm 2001, hoạt động xuất khẩu ô tô có sự giảm sút mạnh trong 4 tháng
đầu năm là 13,4% so với cùng kỳ năm trớc, mặc dù xuất khẩu phụ tùng ô tô năm
2000 tăng 14%. Thời gian gần đây, sức cạnh tranh của ô tô Nhật giảm so với trớc,
đây là một trong những lý do khiến cho lợng xuất khẩu ô tô sang Mỹ giảm 23%, EU
giảm 20,1%.
22
Bảng 6, Kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản năm 2000 đợc phân theo nhóm sản
phẩm trong bảng 6:
(Đơn vị: tỷ JPY, %)
Sản phẩm Đơn vị Số lợng Giá trị Chiếm tỷ lệ
(%)
Tỷ lệ tăng trởng so với năm
1999(%)
Tổng cộng 40.938 100,0 16,0

Lơng thực 4.966 12,1 1,5
+ Thịt 1000t 2.405 921 2,3 7,2 3,7
+ Thuỷ sản 1000t 3.043 1.650 4,0 4,0 0,2
Nguyên liệu thô 2.642 6,5 3,6
+ Bột giấy 1000t 3.133 207 0,5 1,8 23,4
+ Quặng sắt triệu
tấn
131,7 348 0,8 9,7 7,4
Nhiên liệu 8.317 20,3 47,2
+ Dầu thô triệu kl 249,8 4.819 11,8 0,4 58,5
+ Khí hoá lỏng triệu
tấn
53,7 1.406 3,8 3,8 47,6
Hoá chất 2.855 7,0 8,3
+ Dợc phẩm triệu kg 53,4 515 1,3 0,7 1,5
Sản phẩm dệt may 2.642 6,5 11,6
+ Vải và phụ liệu
ngành may mặc
2.115 5,2 14,0
Sản phẩm phi kim 534 1,3 5,2
Kim loại và sản phẩm
kim loại
1.953 4,8 20,4
+ Sắt thép 394 1,0 19,7 17,4
Máy móc và thiết bị 12.924 31,6 17,0
+ Thiết bị văn phòng 2.904 7,1 28,5
+ Thiét bị nghe nhìn 879 2,1 22,8
+ Thiết bị truyền thông 573 1,4 29,1
+ Chất bán dẫn và linh
kiện điện tử

2.140 5,2 39,6
+ Xe ô tô 768 1,9 8,9 6,3
+ Thiết bị khoa học và
quang học
958 2,3 14,6
Loại khác 4.105 10,0 6,6
(Nguồn: Bộ Tài Chính Nhật Bản).
Trong cơ cấu nhập khẩu, dầu thô và các sản phẩm dầu vẫn tiếp tục gia tăng, năm
2000 so với năm 1999, mức nhập khẩu dầu thô tăng 0,4%, năm 2001, mức nhập khẩu
dầu thô tăng 1,5%. Bên cạnh đó, các sản phẩm dệt may cũng đợc nhập với tổng trị
giá năm 2000 so với 1999 tăng 11,6 tỷ JPY. Các mặt hàng thủ công mỹ nghệ gần đây
đợc nhập khẩu với số lợng tăng rất mạnh, trong 9 tháng đầu năm 2001, nhập khẩu
23
hàng thủ công mỹ nghệ chiếm tới 50% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng bách hoá của
Nhật. Đối với các mặt hàng thiết bị viễn thông, với chính sách đẩy mạnh tin học hoá
nền kinh tế, kim ngạch nhập khẩu cũng tăng lên. Năm 2000, giá trị nhập khẩu lên tới
29,1 tỷ JPY so với năm 1999 và trong 4 tháng đầu năm 2001, tăng 84,3% đạt 19,3 tỷ
JPY và có khả năng tăng lên nhiều trong tơng lai.
1.3 Chiến lợc phát triển kinh tế đối ngoại của Nhật Bản
trong những năm gần đây:
1.3.1 Chiến lợc phát triển kinh tế đối ngoại:
Trong suốt những năm của thập niên 90 thế kỷ XX tới nay, Nhật Bản chìm trong
khủng hoảng, đến nay mặc dù đã có dấu hiệu phục hồi khả quan, song cha có những
bớc tiến triển vững chắc. Là một đất nớc có nền kinh tế phụ thuộc vào bên ngoài rất
nhiều, nên sự bất ổn định của nền kinh tế Nhật bản ít nhiều chịu tác động của suy
thoái kinh tế thế giới nói chung. Nếu nh trong những năm của thập niên 70, 80, Nhật
Bản tự hào là nớc có tốc độ tăng trởng kinh tế cao nhất thế giới: 5,8% và 3,8% thì ng-
ợc lại từ thập niên 90 trở lại đây, tốc độ tăng trởng của Nhật Bản thấp hơn 1,6% so
với tốc độ tăng trởng kinh tế thế giới [23,201]. Nhận thức đợc tầm quan trọng của
kinh tế đối ngoại với nền kinh tế đất nớc, Chính phủ Nhật Bản đã có nhiều cải cách

nhằm khắc phục tình trạng trên. Tuy nhiên, Nhật Bản cũng gặp không ít khó khăn khi
tham gia vào thơng mại quốc tế. Thứ nhất, nền kinh tế chịu ảnh hởng nặng nề của
những năm suy thoái, sự yếu kém trong một số lĩnh vực nh tài chính - tiền tệ có tác
động lớn tới việc khắc phục nhanh chóng hậu quả của suy thoái kéo dài. Thứ hai là,
xu hớng toàn cầu hoá nền kinh tế buộc Nhật Bản phải cạnh tranh gay gắt để tồn tại,
nếu không có những đối sách hợp lý thì sẽ thất bại. Bên cạnh đó, Nhật bản cũng có
những thuận lợi, đó là khả năng phục hồi của nền kinh tế thế giới và sự thoát khỏi
khủng hoảng tài chính tiền tệ của các nớc Châu á làm cho nền kinh tế Nhật bản có
dấu hiệu khả quan hơn. Vì là một nớc có nền kinh tế phụ thuộc vào bên ngoài nên sự
24
tăng trởng kinh tế khu vực và thế giới sẽ là cán cân thúc đẩy kinh tế Nhật Bản đi lên.
Hơn nữa, toàn cầu hoá nền kinh tế một mặt đem lại sự cạnh tranh với nền kinh tế
Nhật, một mặt lại đem lại cơ hội để ngời Nhật thể hiện hết sự linh hoạt và năng động
của mình. Dới áp lực của xu thế này, Nhật Bản buộc phải có cái nhìn mới về những
lĩnh vực mà nớc này đang chậm trễ hợn so với trớc đặc biệt là trong lĩnh vực thông
tin.
Chiến lợc kinh tế đối ngoại mà Chính phủ Nhật Bản đa ra trong những năm gần đây
là mở rộng giao lu quốc tế và hoạt động kinh tế đối ngoại với bên ngoài, thiết lập khu
vực Nhật Bản - Tây Âu với khu vực Châu á- Thái Bình Dơng ngay trên đất Nhật để
phối hợp sức mạnh của các khu vực kinh tế lại với nhau. Tuy nhiên, chiến lợc này có
thực sự mang lại sự cất cánh cho một nền kinh tế vừa thoát khỏi khủng hoảng không
thì thực tiễn trong những năm tới sẽ trả lời câu hỏi này.
1.3.2 Những xu hớng chủ yếu của kinh tế đối ngoại Nhật Bản trong những năm
đầu thế kỷ XXI:
Để có đợc cái nhìn tổng thể về xu hớng chủ yếu của kinh tế đối ngoại Nhật Bản trong
những năm gần đây, chúng ta phải xem xét cụ thể trên 3 lĩnh vực. Đó là: thơng mại,
đầu t và viện trợ phát triển chính thức - ODA.
1.3.2.1 Thơng mại:
Toàn cầu hoá nền kinh tế thế giớigắn liền với sự phát triển của các thành tựu khoa
học kỹ thuật, nhất là thơng mại điện tử, ngày càng đóng vai trò quan trọng tới cơ cấu

mậu dịch, phơng thức trao đổi và thanh toán. Mặc dù Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ
hai thế giới nhng hoạt động buôn bán dịch vụ cha thực dự phát triển. Vì vậy, để nâng
cao vị thế của mình trên thế giới, Nhật Bản đang rất chú trọng tới các hoạt động buôn
bán dịch vụ, nhất là dịch vụ tiền tệ. Sự yếu kém của hoạt động này thể hiện rất rõ
trong cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu á 1997. Cuối năm 2000, Nhật Bản
đã đa ra chính sách mở rộng hơn nữa phạm vi Hiệp định trao đổi tiền tệ với các quốc
25

×