Tải bản đầy đủ (.docx) (70 trang)

Đánh giá tác dụng nhĩ châm các điểm, thần môn, giao cảm,tâm,thận trong điều trị mất ngủ không thực tổn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 70 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Mất ngủ là trạng thái không thõa mãn về số lượng và/hoặc chất lượng
của giấc ngủ, tồn tại trong một thời gian dài, làm ảnh hưởng đến sức khoẻ và
khả năng làm việc của người bệnh [23].
Các rối loạn thường gặp trong mất ngủ bao gồm khó đi vào giấc ngủ,
ngủ không yên giấc, dậy sớm không ngủ lại được hoặc tỉnh dậy nhiều lần
trong khi ngủ. Ở người cao tuổi, thời gian ngủ sẽ ít dần, có khuynh hướng ngủ
muộn hơn và thức dậy sớm hơn. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng nhất là chất
lượng của giấc ngủ, sau khi ngủ dậy phải cảm thấy tinh thần sảng khoái, phấn
chấn, thích làm việc.
Mất ngủ đã được đề cập từ lâu và ngày càng trở thành một hiện tượng
khá phổ biến trong xã hội hiện đại. Theo Tổ chức y tế thế giới, nghiên cứu ở
15 khu vực khác nhau trên thế giới ước tính khoảng 26,8% người bị mất ngủ
được khám và điều trị tại các trung tâm chăm sóc sức khoẻ ban đầu [6] . Theo
công bố của viện Gallup Mỹ năm 1990 nghiên cứu ở 8 nước cho thấy tỷ lệ
mất ngủ khá cao, riêng ở Mỹ có 10-20% người mất ngủ đáng kể, trong đó đa
số các trường hợp không được quan tâm đúng mức và điều trị thích hợp [6],
[72] . Ở Việt Nam, rối loạn giấc ngủ chiếm tỷ lệ cao (50-80%), thường gặp rối
loạn trầm cảm, rối loạn lo âu và các bệnh lý tâm sinh [6].
Mất ngủ kéo dài sẽ dẫn đến giảm trí nhớ, khó tập trung chú ý, giảm sút
khả năng lao động và hậu quả tất yếu là làm giảm chất lượng sống, nguy cơ
phát sinh một số bệnh hoặc làm nặng thêm bệnh đang mắc. Bên cạnh đó, còn
có sự liên quan giữa mất ngủ và các rối loạn tâm thần, nghiện rượu, lạm dụng
thuốc, chức năng miễn dịch, tim mạch, tử vong [50], [57],[78], [79].
Mất ngủ trong Y học cổ truyền gọi là chứng “Thất miên”, “Bất mị”,
“Bất đắc miên”... Nguyên nhân từ các tạng Tâm, Tỳ, Can, Thận, chủ yếu là do
Tâm và Tỳ hư, âm hư hoả vượng, khí của Tâm và Đởm hạ, Vị không điều hoà



2

và bị suy nhược sau khi bị bệnh. Sách Cảnh Nhạc toàn thư ghi: “Ngủ là gốc ở
phần âm mà thần làm chủ, thần yên thì ngủ được”. Thần sở dĩ không yên một
là do tà khí nhiễu động, hai là do tinh khí không đủ[42], [43] .
Y học cổ truyền có nhiều phương pháp để điều trị mất ngủ như dùng
thuốc, khí công, dưỡng sinh…Mỗi phương pháp đều có ưu điểm riêng và mục
đích cuối cùng là đưa bệnh nhân đến giấc ngủ tự nhiên.
Song song với các phương pháp đó, từ xưa nhĩ châm cũng đã được áp
dụng và cho thấy đây là một trong những phương pháp điều trị mất ngủ có
hiệu quả. Nhĩ châm là một phương pháp dễ thực hiện, chi phí thấp, rút ngắn
thời gian điều trị, giảm hậu quả bệnh lý và có thể áp dụng rộng rãi ở nhiều
tuyến y tế [29], [34], [35].
Nhóm điểm Thần môn, Tâm, thận, giao cảm từ lâu được biết là nhóm
huyệt kinh điển trên loa tai có tác dụng an thần, tuy nhiên cho đến nay vẫn
chưa có công trình nghiên cứu cụ thể nào về việc áp dụng nhóm huyệt này để
điều trị mất ngủ không thực tổn.
Nhằm kế thừa, phát huy vốn quý của Y học cổ truyền và góp phần
nghiên cứu về nhĩ châm trong điều trị mất ngủ, chúng tôi thực hiện đề tài
“Đánh giá tác dụng nhĩ châm các điểm, Thần môn, Giao cảm, Tâm, Thận
trong điều trị mất ngủ không thực tổn” với 2 mục tiêu:
1.

Đánh giá tác dụng nhĩ châm các điểm, Thần môn, Giao cảm, Tâm,
Thận trong điều trị mất ngủ không thực tổn.

2

So sánh tác dụng nhĩ châm các điểm, Thần môn,Giao cảm, Tâm,
Thận trên 2 thể: Tâm Tỳ hư và Tâm Thận bất giao.



3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Sinh lý giấc ngủ và rối loạn giấc ngủ
1.1.1. Sinh lý giấc ngủ
Ngủ là một trạng thái sinh lý bình thường của cơ thể có tính chất chu
kỳ ngày đêm; trong đó toàn bộ cơ thể được nghỉ ngơi, tạm ngừng các hoạt
động tri giác và ý thức, các cơ bắp giãn mềm, các hoạt động hô hấp tuần hoàn
giảm chậm lại [6]. Giấc ngủ là nhu cầu sinh lý bình thường của con người,
hoạt động của não trong giấc ngủ là một hoạt động hiệu quả nhằm đảm bảo sự
sống và phục hồi sức khoẻ của cơ thể sau một thời gian hoạt động. Ngay từ
khi lọt lòng mẹ, đứa trẻ ngủ 20 giờ một ngày. Càng lớn lên trẻ ngủ giảm dần,
đến 6 tuổi trẻ vẫn còn ngủ 10-12 giờ mỗi ngày. Người trưởng thành ở lứa tuổi
hoạt động mạnh nhất (18- 45 tuổi), nhu cầu mỗi ngày từ 7-8 giờ. Sau 60 tuổi có
thể 6 giờ là đủ, thậm chí những người già ngủ ít hơn [58], [81]. Nói chung cả
cuộc đời một người khoẻ mạnh dành 1/3 thời gian cho ngủ và 2/3 thời gian thức.
Khi mất ngủ kéo dài có thể dẫn tới suy nhược nặng, và nguy cơ tử vong
có thể xảy ra do sự giảm trầm trọng khả năng điều hoà nhiệt độ của cơ thể.
Mất ngủ mạn tính làm giảm chất lượng cuộc sống, người bệnh mệt mỏi, giảm
tập trung chú ý, giảm trí nhớ, rối loạn nhận thức, ảnh hưởng nặng nề đến công
việc hằng ngày. Rối loạn giấc ngủ liên quan đến nhịp thở, rối loạn nhịp tim và
tăng huyết áp. Một rối loạn giấc ngủ kéo dài, nếu không được điều trị sẽ là
nhân tố làm khởi phát rối loạn lo âu, trầm cảm, bệnh tật khác [6].
Việc nghiên cứu giấc ngủ có một ý nghĩa quan trọng trong y học nói
chung và Tâm thần học nói riêng. Mặt khác, nghiên cứu hoạt động của não
bộ trong giấc ngủ chúng ta có thể rút ra những nhận xét sau:
- Trong khi ngủ não không ngừng hoạt động



4

- Chức năng của não trong khi ngủ hoàn toàn khác với chức năng của
não lúc thức.
- Giấc ngủ có tác động phục hồi các quá trình sinh lý và tâm thần, có
vai trò trong việc sửa chữa các mô, điều nhiệt, chức năng miễn dịch, điều hoà
tính nhạy cảm của thụ thể noradrenergic và duy trì trí nhớ. Khi giấc ngủ bị rối
loạn, như trong chứng mất ngủ, có thể gây ra nhiều triệu chứng biến thiên trên
cơ thể và tâm thần, tuỳ thuộc vào mức độ trầm trọng và thời gian kéo dài của
rối loạn giấc ngủ [49], [58], [65].
Các giai đoạn bình thường của giấc ngủ
Ngày nay bằng kết quả nghiên cứu nhĩ sinh lý kết hợp với các hiện
tượng tâm sinh lý khác, người ta chia giấc ngủ thành 2 pha: pha nhanh hay
còn gọi là pha vận nhanh nhãn cầu (Rapid Eye Movement: REM) và pha
chậm hay còn gọi là pha không vận nhanh nhãn cầu (Non Rapid Eye
Movement: NREM) [58], [65], [81].
- Pha chậm (NREM): chia làm 4 giai đoạn, mỗi giai đoạn có một đặc
trưng riêng:
+ Giai đoạn 1: thiu thiu ngủ, chuyển tiếp từ thức sang ngủ, giai đoạn
này ngắn một vài phút, trên nhĩ não biểu hiện giảm hoạt tính sóng α (12-14
Hz) và ưu thế sóng θ (4 -7 Hz, 4-7 chu kỳ/giây). Nhãn cầu chuyển động chậm
lại, trương lực cơ giảm.
+ Giai đoạn 2: ngủ chưa sâu, xuất hiện hình thoi trên nhĩ não bắt đầu
giấc ngủ, người ngủ yên tĩnh không thấy cử động.
+ Giai đoạn 3: ngủ sâu, giảm hình thoi và chỉ xuất hiện sóng chậm (2-4
Hz) trên nhĩ não. chiếm từ 20-50% sóng delta.
+ Giai đoạn 4: ngủ rất sâu, chỉ còn sóng chậm trên nhĩ não (2-4Hz),
chiếm tới 50% sóng delta. Khi đánh thức người ngủ đột ngột dậy, ở giai đoạn

4, đôi khi họ bị rơi vào tình trạng lú lẫn với khả năng nhận thức bị biến đổi.


5

Theo dõi trên lâm sàng nhận thấy các cơ bắp giãn mềm, nhịp tim và
nhịp thở chậm đều, thân nhiệt giảm dần, huyết áp đạt mức thấp trong giấc
ngủ…Điều này chứng tỏ rằng vai trò lớn của giấc ngủ như trạng thái mà trong
đó đã diễn ra một cách tích cực nhất các quá trình hồi phục.
- Pha nhanh (REM): về nhĩ sinh lý đặc trưng đối với ba đặc điểm:
+ Hoạt tính nhĩ thế thấp với tần số lẫn lộn trên nhĩ não
+ Giảm hoạt tính nhĩ cơ.
+ Trên nhĩ sinh lý mắt, xuất hiện vận nhanh nhãn cầu.
Về lâm sàng nhận thấy trong pha nhanh, nhịp tim và hô hấp nhanh,
huyết áp tăng nhẹ, nhãn cầu vận động nhanh (trong khi vẫn nhắm mắt), ở nam
giới thường gặp cương dương vật, nhu cầu tiêu thụ oxy não tăng cao. Trong
pha nhanh xuất hiện giấc mơ, nếu chúng ta đánh thức người ngủ trong thời
điểm này thì họ cho biết là họ đang mơ. Giấc mơ là hiện tượng tâm sinh lý
bình thường, nếu giấc mơ bị phá vỡ thì giấc ngủ đó sẽ bị rối loạn và chúng ta
sẽ cảm thấy rất mệt.
Giấc ngủ diễn ra có tính chu kỳ bắt đầu bằng pha chậm với bốn giai
đoạn kế tiếp nhau và kết thúc bằng pha nhanh. Mỗi chu kỳ diễn ra trong
khoảng từ 80-120 phút, có nghĩa là mỗi đêm ngủ có khoảng 4-5 chu kỳ kế
tiếp nhau. Trong các chu kỳ đầu của giấc ngủ, pha nhanh kéo dài khoảng 10
phút, càng về sau pha nhanh càng kéo dài hơn và pha chậm ngắn dần. Cụ thể
gần sáng pha giấc ngủ nhanh có thể kéo dài 90 phút. Pha nhanh chiếm khoảng
20-25%, còn pha chậm khoảng 75-80% toàn bộ thời gian ngủ. Trong pha
chậm, cụ thể là giai đoạn 2 chiếm nhiều nhất 40-46%, các giai đoạn 1, 3, 4
xấp xỉ nhau chiếm 5-12% toàn bộ thời gian ngủ [3], [58].



6

1.1.2. Cơ chế điều hoà thức ngủ
Liên quan đến giấc ngủ có nhiều giả thuyết, nhưng đến nay vẫn chưa có
sự thống nhất trong việc giải thích cơ chế thức ngủ. Cơ chế giấc mộng cũng
như cơ chế về sự luân phiên có tính chu kỳ của giấc ngủ.
- Thuyết Pavlov cho rằng giấc ngủ là trạng thái ức chế lan toả khắp hai
bán cầu và lan xuống cả vùng dưới vỏ.
- Trung tâm ngủ tích cực ở gian não [46].
- Trung tâm gây ngủ ở trong đồi thị [45], [46].
- Giấc ngủ là trạng thái bình thường của hoạt động vỏ não. Còn trạng
thái thức được duy trì bởi sự hoạt động tích cực của cấu tạo lưới thân não.
Cấu tạo lưới vừa có ảnh hưởng ức chế đối với vỏ não, nghĩa là nó đóng vai trò
hoạt động dẫn truyền thần kinh, cũng như duy trì thức tỉnh [3], [49].
1.1.2.1. Giải phẫu thần kinh của điều hoà thức ngủ
Giả thuyết của Magoun H, Moruzzi G về vai trò của cấu tạo lưới của
thân não ở vùng dưới đồi thị (Hypothalamus) trong việc điều hoà giấc ngủ
được thừa nhận rộng rãi nhất. Khi tăng hoạt hoá hệ thống cấu tạo lưới ở vùng
thân não và dưới đồi thị sẽ gây tác động hưng phấn lan toả lên vỏ não, gây ra
trạng thái thức, và khi hoạt hoá hệ thống cấu tạo lưới giảm hoặc mất đi, giấc
ngủ sẽ xẩy ra [6]. Trong khi đó cấu trúc lưới của thân não, não giữa, vùng
dưới đồi, tuyến yên, và nền não trước đóng vai trò trong tạo ra sự thức hay
vùng thức trong nhĩ não đồ.
Để chứng minh vai trò của cấu tạo lưới trong việc điều chỉnh trạng thái
thức- ngủ người ta đã tiến hành các thực nghiệm sau [49], [58], [65].
- Cắt ngang dưới hành não- con vật vẫn thức (ghi được sóng mất
đồng bộ ở não).
- Cắt trên cuống não thì con vật ngủ sâu liên miên (ở vỏ não chỉ có
sóng đồng bộ)



7

- Nếu phá hủy cấu tạo lưới ở vùng thân não thì con vật cũng ngủ liên miên.
- Nếu kích thích cấu tạo lưới ở vùng này sẽ làm con vật thức tỉnh.
1.1.2.2. Sinh hoá thần kinh của điều hoà giấc ngủ
Những nghiên cứu thực nghiệm từ trước cho thấy nhân rãnh xoắn của
thân não sản xuất ra serotonin như là một chất dẫn truyền thần kinh tạo ra giấc
ngủ [33], [65], catecholamin được xem như chất có tác dụng gây thức, chất
dẫn truyền thần kinh cholinergic được biết như là một chất tạo ra giấc ngủ
trong pha nhanh.
Có rất nhiều chất hoá học tham gia hoạt hoá trong giấc ngủ đã được xác
định. Những chất này bao gồm prostaglandin D2, chất gây ngủ delta sản sinh ra
peptide, muramyl dipeptide, interleukin 1, acid amin, acid béo cơ bản, melatonin,
và tác dụng của thuốc an thần thường làm hạn chế giấc ngủ pha chậm.
Có nhiều giả thuyết “những yếu tố gây ngủ” bao gồm interleukin-1 và
prostaglandin- D2, là những chất miễn dịch hữu hiệu, điều này gợi ý một mối
liên hệ giữa chức năng miễn dịch và những tình trạng thức- ngủ. Người ta
nhận thấy có một cơ chế feed-back từ ngoại vi vào trung tâm. Khi các tế bào
thần kinh phát xung động làm cho các bộ phận trong cơ thể hoạt động thì
chính các hoạt động đó lại phát tín hiệu ngược lại duy trì trạng thái thức khi
một trong những mắt xích của chu kỳ hoạt động thần kinh- cơ thể ấy bị mệt
mỏi cần nghỉ ngơi thì chu kỳ sẽ chuyển qua pha nghỉ- trạng thái ngủ. Khi một
bộ phận nào đó của cơ thể hoặc hệ thần kinh bị tổn thương tăng kích thích,
tăng trương lực cơ sẽ phá vỡ chu kỳ thức ngủ và gây rối loạn giấc ngủ. Người
ta còn thấy tham gia vào chu kỳ thức ngủ có các biến đổi hoá học đặc biệt là
chuyển hoá của serotonin [58], [65].
Hoạt động của serotonin (5HT) ở mức tối thiểu trong giấc ngủ sâu
nhưng đạt tối đa lúc thức. Gần 25 đến 30 phút để ngủ sâu (giấc ngủ pha chậm)

và 60 phút tới giấc ngủ pha nhanh. Hoạt động của hệ thống serotoninergic giảm


8

đi ở những người mất ngủ. Sự giải phóng nhiều serotonin trong lúc thức làm
thuận lợi cho việc tổng hợp các chất gây ngủ nội sinh, acetylcholin cũng liên
quan đến giấc ngủ, đặc biệt là trong pha nhanh của giấc ngủ [58], [65], [81].
1.1.3. Mất ngủ không thực tổn (Nonorganic insomnia)
1.1.3.1. Khái niệm
Mất ngủ không thực tổn hay còn gọi là trạng thái mất ngủ mạn tính,
nguyên phát là trạng thái không thoả mãn về số lượng và chất lượng giấc
ngủ, tồn tại trong một thời gian dài (ít nhất là một tháng). Đặc trưng bằng các
điểm sau:
- Khó đi vào giấc ngủ: là than phiền thường gặp nhất, có ở hầu hết các
bệnh nhân.
- Khó duy trì giấc ngủ và thức dậy sớm.
- Chất lượng giấc ngủ kém.
- Mất ngủ thường gặp trong các rối loạn cảm xúc (trầm cảm, hưng cảm),
rối loạn lo âu, phân liệt cảm xúc, các liên quan đến các stress đời sống, gặp nhiều
hơn ở phụ nữ, ở người lớn tuổi, tâm lý rối loạn và những người bất lợi về mặt
kinh tế xã hội.
- Mất ngủ nhiều lần, dẫn đến mối lo sợ mất ngủ tăng lên khi đi ngủ bệnh
nhân có cảm giác căng thẳng lo âu, buồn phiền hoặc trầm cảm, bận tâm về hậu
quả của nó, tạo thành một vòng luẩn quẩn có khuynh hướng kéo dài.
- Hậu quả ban ngày: cảm giác mệt mỏi, thiếu hụt giấc ngủ, ảnh hưởng
đến hoạt động xã hội và nghề nghiệp. Theo sổ tay chẩn đoán thống kê
(Diagnostic and statistical manual of mental disorder- 4 th), gọi là mất ngủ
nguyên phát [52].
1.1.3.2. Dịch tễ học mất ngủ

Mất ngủ tăng theo thời gian vì những căng thẳng trong cuộc sống ngày
càng tăng lên, có khuynh hướng tăng cao trong giới nữ, người cao tuổi, người


9

bị rối loạn tâm lý và những người thiệt thòi về kinh tế xã hội [23]. Năm 1979
theo thông báo của trung tâm “Hội các rối loạn về giấc ngủ” (Association
sleep disorders center) cho biết số người mất ngủ chiếm 35% dân số. Năm
1990 viện Gallup (Mỹ) công bố số liệu nghiên cứu ở 8 nước cho thấy: Pháp
có 31%, Italia có 35%, Anh có 34%, Đan Mạch có 31%, Bỉ có 27%, Tây ban
nha 23%, Đức có 23%, Mỹ có 27% người bị rối loạn giấc ngủ [72].
- Ở Hoa kỳ: 10-20% người mất ngủ đáng kể, trong đó đa số các trường
hợp không được quan tâm đúng mức và điều trị thích hợp [6].
- Theo TCYTTG, nghiên cứu 15 khu vực khác nhau trên thế giới ước
tính 26,8% người trên thế giới bị mất ngủ được khám và điều trị tại các trung
tâm chăm sóc sức khoẻ ban đầu [6].
- Ở Việt Nam, rối loạn giấc ngủ chiếm tỷ lệ khá cao (50-80%), thường
gặp rối loạn trầm cảm, rối loạn lo âu và các bệnh lý tâm sinh [6].
Về giới và tuổi theo Lilfenberg (1988 và 1989) nhận thấy: 0,9 đến 2,2%
ở nữ và 0,3-2,3% ở nam có mất ngủ mạn tính trong độ tuổi từ 30-63 tuổi.
Lagresi (1983) nhận thấy tỷ lệ mất ngủ tăng lên theo tuổi [71]. Theo Lương
Hữu Thông tỷ lệ mất ngủ khác nhau ở 2 giới: nam 34,5-40%, nữ 60-65,5%.
Theo tổ chức y tế thế giới (1996), số phụ nữ mất ngủ cao khoảng 1,5 lần so
với nam giới dù không có sự gia tăng đáng kể theo tuổi tác [33], [78].
1.1.3.3. Bệnh nguyên và bệnh sinh
* Bệnh nguyên
- Mất ngủ là một triệu chứng phổ biến của các rối loạn tâm thần khác
như: rối loạn cảm xúc, tâm căn, thực tổn và ăn uống, nghiện độc chất và tâm
thần phân liệt, của các rối loạn giấc ngủ khác như ác mộng [23].

- Do tâm lý: Mất ngủ thường xảy ra sau một sang chấn tâm lý hoặc xảy
ra sau một loạt những sự kiện bất lợi trong cuộc sống.
- Có một số trường hợp bị mất ngủ mạn tính ngay từ khi còn nhỏ.


10

- Yếu tố gia đình, cũng như vai trò của nhân cách: chưa có tài liệu nào
khẳng định cụ thể.
- Các nguyên nhân thông thường: thay đổi công việc, rối loạn nhịp thức
ngủ, buồn rầu, suy nhược…
* Bệnh sinh cơ chế mất ngủ
Ngày nay người ta thấy có hai hệ thống thần kinh chi phối chu kỳ thức
ngủ [45], một hệ thống phát ra giấc ngủ và quá trình ngủ và hệ thống kia là
thời gian ngủ trong 24 giờ (một ngày). Ngay cả những bất thường bên trong
hệ thống này hay những rối loạn bên ngoài (môi trường, thuốc hay những
bệnh tật có liên quan) có thể dẫn tới rối loạn giấc ngủ hay nhịp thức ngủ.
Bảng phân loại rối loạn giấc ngủ theo quốc tế chia thành ba nhóm chính: mất
ngủ, bán mất ngủ, và những rối loạn tâm sinh giấc ngủ [45], [46], [56].
Brerino (1975), Kales (1984), Gaillar (1978-1990) [20] đưa ra hai giả
thuyết về MNMT, sự cân bằng thức ngủ có thể bị rối loạn bởi hai giả thuyết
như sau:
* Giả thuyết thứ nhất
Mức độ hoạt động của hệ thống thần kinh trung ương tăng lên một cách
bất thường dẫn đến sự tăng lên toàn bộ, dai dẳng của mức độ thức trong cân
bằng thức ngủ. Hậu quả là:
- Ban ngày tăng thức tỉnh thường xuyên, sự cảnh tỉnh xấu.
- Ban đêm: giai đoạn 1 của giấc ngủ bị rút ngắn, giảm giai đoạn 2, đôi
khi cả giai đoạn 4 làm thức giấc tăng lên, giấc ngủ bị chia cắt ra.
* Giả thuyết thứ hai

Rối loạn các chức năng của nhân vùng dưới đồi nơi mà nó kiểm tra
giấc ngủ, làm giảm nhu cầu với giấc ngủ và cũng dẫn đến hậu quả: thức giấc
tăng lên, giấc ngủ bị chia cắt ra.


11

1.2. Tiêu chuẩn chẩn đoán mất ngủ không thực tổn
1.2.1. Theo tiêu chuẩn của ICD-10 mục F51.0
1. Phàn nàn cả về khó đi vào giấc ngủ hay khó duy trì giấc ngủ, hay
chất lượng giấc ngủ kém.
2. Rối loạn giấc ngủ đã xảy ra ít nhất là ba lần trong một tuần trong ít
nhất là một tháng.
3. Rối loạn giấc ngủ gây nên sự mệt mỏi rõ rệt trên cơ thể hoặc gây khó
khăn trong hoạt động chức năng lúc ban ngày.
4. Không có nguyên nhân tổn thương thực thể, như là tổn thương hệ
thần kinh hoặc những bệnh lý khác, rối loạn hành vi, hoặc do dùng thuốc.
1.2.2. Lâm sàng
1.2.2.1. Các triệu chứng về giấc ngủ
- Thời lượng giấc ngủ giảm: tất cả các bệnh nhân đều giảm số lượng thời gian
mất ngủ, chỉ ngủ được 3-4 giờ/24 giờ, thậm chí có bệnh nhân thức trắng đêm.
Theo Schneider – Helmert (1987): trung bình giảm 74 phút so với bình
thường. Còn Lifenberg (1988) thấy giảm hơn 1 giờ so với bình thường [33].
- Khó đi vào giấc ngủ: Đây là than phiền hay gặp đầu tiên. Bệnh nhân
không thấy có cảm giác buồn ngủ, trằn trọc, căng thẳng lo âu, thường mất từ
hơn 30 phút đến 1h30 phút mới đi vào giấc ngủ.
- Hay tỉnh giấc vào ban đêm: giấc ngủ của bệnh nhân bị chia cắt ra, giấc
ngủ chập chờn, không ngon giấc, thường tỉnh giấc và khi đã tỉnh giấc thì rất
khó ngủ lại. Theo Schneider – Helmert thấy bệnh nhân mất ngủ thường thức
giấc nhiều hơn hai lần một đêm so với người ngủ tốt.

- Hiệu quả của giấc ngủ được tính theo công thức sau:
Số giờ ngủ/ số giờ nằm trên giường x 100%
Ở người bình thường hiệu quả giấc ngủ từ 85% trở lên, còn người mất
ngủ hiệu quả giảm đi nhiều tuỳ theo mức độ giấc ngủ, nếu nặng có thể giảm
xuống dưới 65%.


12

- Thức giấc sớm: đa số bệnh nhân phàn nàn là ngủ ít quá, tỉnh dậy sớm.
Các bệnh nhân thường có thói quen nằm lại trên giường để xem có ngủ lại
được không, vì vậy nhiều khi họ rời khỏi giường rất muộn so với lúc họ chưa
bị mất ngủ.
- Chất lượng giấc ngủ: có sự khác biệt lớn giữa người ngủ tốt và người
mất ngủ:
+ Người ngủ tốt sau một đêm thấy cơ thể thoải mái, mọi mệt nhọc biến
mất, vẻ mặt tươi tỉnh.
+ Người mất ngủ sau một đêm không đem lại sức lực và sự tươi tỉnh,
một giấc ngủ chập chờn đôi khi khó xác định được là có ngủ hay không ngủ. Diện
mạo vẻ mặt mệt mỏi, hai mắt thâm quầng, dáng vẻ chậm chạp, hay ngáp vặt.
1.2.2.2. Các triệu chứng liên quan tới chức năng ban ngày
Trạng thái kém thoải mái, mệt mỏi vào ban ngày: là hậu quả của trạng
thái thiếu hụt giấc ngủ. Bệnh nhân mô tả thấy suy yếu, thụ động, ít quan tâm
đến công việc luôn luôn suy nghĩ tập trung vào sức khoẻ và giấc ngủ của họ.
Khó hoàn tất công việc trong ngày, kém thoải mái về cơ thể và giảm hứng thú
trong công việc tiếp xúc với gia đình và bạn bè.
Sự cảnh tỉnh chủ quan vào ban ngày đặc biệt giảm hơn vào lúc trưa, chiều
12h-16h. Ngủ gà nhiều vào buổi trưa và hoạt động kém vào lúc 20 giờ và lúc đi
ngủ. Như vậy cả ngày sự cảnh tỉnh của họ xấu hơn so với người bình thường.
1.2.2.3. Các rối loạn tâm thần kèm theo

Các triệu chứng tâm thần thứ phát sau mất ngủ:
- Khó tập trung chú ý, hay quên.
- Trạng thái trầm cảm
- Lo âu
- Dễ ức chế cảm xúc, cáu gắt, bực tức.


13

1.2.2.4. Vai trò của sang chấn tâm lý (SCTL) và các sự kiện bất lợi trong
cuộc sống
Sang chấn tâm lý như yếu tố gây khởi phát trạng thái mất ngủ, triệu
chứng mất ngủ xảy ra đột ngột ngay sau khi có sang chấn. SCTL cũng đóng
vai trò trong việc duy trì MNMT. Thường thì trạng thái mất ngủ tăng lên vào
thời điểm có SCTL. Tuy nhiên nhiều trường hợp sang chấn mất đi nhưng mất
ngủ vẫn tiếp tục kéo dài, nó được duy trì bởi sự sợ hãi không ngủ được, thậm
chí còn lo sợ bị thức giấc vào ban đêm. Vai trò của các sự kiện bất lợi trong
cuộc sống như thay đổi chỗ ngủ, thay đổi môi trường sống, thay đổi múi giờ
cũng gây ra hoặc làm gia tăng sự mất ngủ.
1.3. Các phương pháp đánh giá rối loạn giấc ngủ trên lâm sàng và cận
lâm sàng
1.3.1. Phương pháp đánh giá trên lâm sàng
Các triệu chứng về giấc ngủ
* Thời lượng giấc ngủ giảm
* Khó đi vào giấc ngủ
* Hay tỉnh giấc vào ban đêm
* Hiệu quả của giấc ngủ
* Thức giấc sớm
* Chất lượng giấc ngủ.
1.3.2. Phương pháp đánh giá trên cận lâm sàng

Test tâm lý
* Test Beck: bậc thang đánh giá trầm cảm (Beck Depression Inventory: BID)
Test này do A.T. Beck và cộng sự giới thiệu năm 1974 gợi ý từ những
quan sát lâm sàng bệnh nhân trầm cảm nhất là từ liệu pháp phân tâm. Test này
nhằm đánh giá lâm sàng mức độ trầm cảm.


14

Viện sức khoẻ tâm thần đã chuẩn hoá và hiện nay test Beck là công cụ
được dùng để hổ trợ chẩn đoán rối loạn cảm xúc trầm cảm [1], [2].
Test Beck là một test dễ làm, sử dụng nhanh, trong các mục nhỏ của
test không có các câu hỏi phủ định xen kẽ nên không gây khó khăn cho đối
tượng ở bất kỳ trình độ văn hoá nào khi làm test.
Cách làm test
Test được thực hiện trong không gian yên tĩnh, có sự hợp tác giữa bệnh
nhân và thầy thuốc, có thời gian để người bệnh suy nghĩ đánh giá. Thầy thuốc
trực tiếp hướng dẫn đối tượng làm test. Để bệnh nhân tự đánh giá được và ghi
đúng theo mức độ bệnh lý trước khi làm test, người làm test phải giải thích
cho bệnh nhân mục đích, yêu cầu, cách đánh giá, cách ghi điểm.
- Với những người không có khả năng đọc hiểu thì thầy thuốc phải đọc
rõ ràng từng câu để bệnh nhân chọn câu trả lời gần giống cảm giác của mình
rồi thầy thuốc cho điểm.
- Với những người có khả năng đọc hiểu thì thầy thuốc hướng dẫn họ
làm test một cách chi tiết.
Phương pháp đánh giá
Test Beck có 21 câu hỏi, từ câu 1 đến câu 15 là triệu chứng tâm thần.
Từ câu 16 đến câu 21 là các triệu chứng cơ thể biểu hiện trầm cảm, là sự ức
chế toàn diện mà cơ chế sinh lý thần kinh là sự liên kết cathecolamin [2].
Trong mỗi câu hỏi có 3-4 chủ đề nhỏ ghi theo thứ tự từ 0 đến 3, trong đó

trạng thái bình thường không có triệu chứng bệnh lý được ghi điểm 0, mức độ
nhẹ nhất của một loại biểu hiện được ghi điểm 1, mức độ nặng dần lên và
điểm cao nhất của mỗi câu hỏi là 3. Điểm tối đa là 63 điểm, tuỳ theo mức độ
nặng nhẹ của trầm cảm mà kết quả khác nhau.


15

Phân tích kết quả: < 14 điểm: không có trầm cảm; 14- 19 điểm: trầm cảm
nhẹ; 20- 29 điểm: trầm cảm vừa, > 30 điểm: trầm cảm nặng.
* Test (SAS) – Zung (1974): thang đánh giá lo âu của Zung gồm 20 câu
hỏi dành cho người bệnh tự đánh giá số thứ tự 20 mục với 4 mức độ, cường
độ và thời gian, được ghi điểm từ 1-4, tổng điểm là 80.
Phân tích kết quả: ≤ 44 điểm: không lo âu; 45- 59 điểm: lo âu nhẹ;
60- 74 điểm: lo âu nặng; 75- 80 điểm: lo âu rất nặng.
Cả 2 test này được Tổ chức y tế thế giới thừa nhận là các test hỗ trợ
lâm sàng chẩn đoán lo âu và trầm cảm.
* Đánh giá chất lượng giấc ngủ: bằng thang Pittsburgh (PSQI) của Daniel
J.Buyse năm 1989, nhằm đánh giá các chỉ số về chất lượng giấc ngủ [51].
Năm 2001, ở Việt Nam PSQI đã được chuẩn hóa. Các tác giả đã nhận
thấy thang đo này có giá trị sử dụng đáng tin cậy trong lâm sàng để đánh giá
mức độ mất ngủ và có thể dùng nó để theo dõi tiến triển mất ngủ [32]. Đánh
giá các thành tố như sau:
Không có rối loạn giấc ngủ: 0 điểm; Rối loạn nhẹ: 1 điểm; Rối loạn
vừa: 2 điểm; Rối loạn nặng: 3 điểm.
* Nhĩ não đồ: Nhĩ thế pha chậm của giấc ngủ có sự tăng chậm và tới
mức thấp hơn trong các bảng delta và theta.
Trong những năm gần đây, một số tác giả sử dụng nhĩ não đồ như một
phương tiện để chẩn đoán, theo dõi diễn tiến và điều trị bệnh tâm căn suy
nhược [5]. Các sóng nhĩ não là những dao động có tần số, biên độ, hình dáng

khác nhau [5], [16], [27]. Để đánh giá một bản nhĩ não đồ, người ta dựa vào
một số tiêu chuẩn hoặc đặc tính như sau:
- Tần số của mỗi sóng (tính bằng Hz)
- Biên độ của sóng (tính bằng μV)
- Hình dáng các sóng.


16

- Vị trí, điều kiện xuất hiện các sóng.
- Điều kiện làm thay đổi các sóng [27].
Dựa vào các tiêu chuẩn trên người ta xác định được các sóng trên nhĩ
não đồ cơ sở ở người.
+ Nhịp alpha (α):
Nhịp alpha được Berger mô tả lần đầu tiên năm 1920, nên còn gọi là
nhịp Berger [5]. Bình thường ở người trưởng thành, nhịp alpha xuất hiện đều
đặn. Biên độ nhịp alpha rất khác nhau giữa các cá thể, thay đổi theo trạng thái
và thời gian trên một cá thể. Biên độ nhịp alpha thường ở khoảng 35-70 μV,
cao nhất ở vùng chẩm. Berger cho rằng sóng alpha có biên độ 15-20 μV, còn
theo Cobb biên độ sóng alpha dao động từ 0 đến 40-60 μV. Đa số nhịp alpha
có biên độ từ 5-20 μV, rất hiếm trên 100μV ở người trưởng thành [26]. Tần số
nhịp alpha khoảng 8-13Hz, thường gặp 9-10Hz. Chỉ số nhịp alpha bình
thường khoảng 70% ở vùng chẩm.
Nhịp alpha ghi ở những điểm đối xứng của hai bán cầu não thường có
tính chất đồng bộ cả hai bên. Nếu tình trạng không đối xứng về biên độ không
vượt quá 25-30% thì vẫn coi là bình thường [5]. Nhịp alpha thường có dạng
hình sin, thành chuỗi sóng hình thoi, xuất hiện rõ và nhiều nhất ở vùng chẩm,
khi nhắm mắt, không suy nghĩ, không vận cơ, không bị kích thích khác của
môi trường tác động.
* Nhịp beta (β)

Berger cũng đã mô tả nhịp beta lần đầu tiên năm 1920. Nhịp beta còn gọi
là nhịp căng thẳng, là nhịp thay đổi nhiều nhất trên nhĩ não đồ [5], [26]. Có
nhiều tác nhân làm thay đổi nhịp beta: no, đói, vận động, căng thẳng tinh
thần…Nhịp beta xuất hiện trên tất cả các vùng của não, nhưng ưu thế ở vùng
trước của não, tức là ở vùng trán, vùng thái dương và thường không đối xứng
ở hai bán cầu não [5]. Tần số nhịp beta khoảng 14-35Hz, hay gặp ở 14-24Hz.


17

Nhịp beta ghi được ở nữ giới nhiều hơn ở nam giới. biên độ nhịp beta bình
thường khoảng 5-15μV, hay gặp 8-10μV, đôi khi đạt đến 30μV. Chỉ số nhịp
beta trên từng người rất ổn định, chỉ số beta tăng lên biểu thị của tăng trương
lực của vỏ não [5], [26], [27].
Hình ảnh nhĩ não đồ trên bệnh nhân tâm căn suy nhược cho thấy giảm
biên độ và chỉ số nhịp alpha, sóng nhĩ não dẹt, chỉ có 30-35% trường hợp có
xuất hiện từng đợt sóng alpha. Có sóng nhanh beta, sóng chậm theta, delta
trên tất cả vùng não [16], [27].
1.4. Các phương pháp điều trị mất ngủ không thực tổn
Các phương pháp điều trị theo Y học hiện đại
* Sử dụng các loại thuốc có thời gian bán huỷ ngắn, tác dụng nhanh và
ít tác dụng phụ: Cho những người mất ngủ tạm thời, những người khó đi vào
giấc ngủ và đặc biệt cho những người có tuổi để tránh hiện tượng loạng
choạng vào sáng hôm sau. Những loại này tạo ra giấc ngủ nhanh sâu, tạo cảm
giác dễ chịu thoải mái khi ngủ dậy. Nhưng nhược điểm lớn nhất là chúng gây
hiện tượng tăng triệu chứng mất ngủ và đòi hỏi tăng liều ở ngày kế tiếp [62]
* Sử dụng các loại thuốc có thời gian bán huỷ vừa và chậm: Các thuốc
này có ưu điểm tác dụng ổn định và ít làm tăng sự mất ngủ. Nhược điểm của
những loại thuốc này là rất dễ bị lạm dụng và dễ gây nghiện, ở người có tuổi
phải lưu ý sự say thuốc, loạng choạng khi thức dậy và tác dụng phụ kéo dài

khô miệng sau giấc ngủ [46].
* Các thuốc giải lo âu Benzodiazepines, khi sử dụng khởi đầu bằng liều
thấp và chỉ dùng trong thời gian ngắn, không nên sử dụng kéo dài vì sẽ gây lệ
thuộc thuốc.
* Có thể sử dụng các thuốc gây ngủ, thuốc giải lo âu, thuốc chống trầm cảm
trong điều trị mất ngủ, vì mất ngủ liên quan mật thiết với lo âu và trầm cảm.


18

* Giáo dục phòng bệnh:
- Làm việc có điều độ không thức đêm quá nhiều trong một thời gian lâu
dễ thành thói quen rồi thành bệnh.
- Các biện pháp tâm lý chủ yếu là giáo dục người bệnh chú ý vệ sinh giấc
ngủ tốt.
- Mười lời khuyên dành cho bệnh nhân (phụ lục 3) [33].
1.5. Quan niệm của Y học cổ truyền về mất ngủ
Mất ngủ theo Y học cổ truyền thuộc chứng thất miên, bất mị, bất đắc
miên…chứng này có nhiều tình trạng khác nhau, có khi không ngủ được từ lúc
bắt đầu nằm xuống, có khi ngủ được nhưng dễ tỉnh, nặng thì trằn trọc, suốt đêm
không nhắm được mắt [37], [42], [43].
Nguyên nhân mất ngủ khá phức tạp, theo Y học cổ truyền, chứng mất
ngủ do huyết hư, hoặc do thận âm suy kém, hoặc do hoả của can đởm bốc
hoặc do vị khí không điều hoà hoặc do sau khi ốm bị suy nhược không ngủ
được. Theo sách Cảnh nhạc toàn thư: “Ngủ là gốc ở phần âm mà thần làm
chủ, thần yên thì ngủ được, thần không yên thì ngủ không được”. Thần sở dĩ
không yên thì một là do tà khí nhiễu động, hai là do tinh khí không đủ, chữ
“tà” nói ở đây chủ yếu là chỉ vào đờm, hoả, ăn uống, chữ “vô tà” là chỉ vào
tức giận, sợ hãi, lo nghĩ, những cái đó đều là nguyên nhân gây thành chứng
không ngủ. Thiên này đem chứng không ngủ tóm tắt thành năm nguyên nhân

chính là: Tâm Tỳ hư, Tâm Thận bất giao, Khí của Tâm và Đởm hư, Vị không
điều hoà [9], [37], [42], [43].
1.5.1. Thể Tâm Tỳ hư [47]
Chứng Tâm Tỳ hư là tên gọi chung chỉ những chứng trạng do Tâm
huyết hao tổn, Tỳ khí bị tổn hại dẫn đến Tâm thần mất nuôi dưỡng, Tỳ khí hư
yếu không làm được chức năng thống huyết, Tâm là nơi chứa Thần, thống
nhiếp huyết mạch, Can là nơi chứa phách, chứa huyết, Tỳ là nơi chứa ý sinh


19

ra huyết, phàm chứng mất ngủ là do âm huyết hư kém, thần, hồn và ý đều bị
hư tổn [43], bệnh phần nhiều do tư lự quá độ, ăn uống không điều độ, hoặc
sau khi ốm chăm sóc không chu đáo và bệnh xuất huyết mạn tính gây nên.
Chứng này trong những bệnh tật khác nhau biểu hiện lâm sàng và phép chữa
đều có đặc điểm riêng. Chủ yếu là hồi hộp hay quên, ngủ ít hay mê, sắc mặt
úa vàng, kém ăn mỏi mệt, bụng trướng đại tiện nhão, đoản hơi, tinh thần bạc
nhược hoặc xuất huyết dưới da; phụ nữ kinh nguyệt không đều, ra sắc nhợt
lượng nhiều, băng lậu hoặc kinh ít, kinh bế, chất lưỡi nhạt bệu, rêu lưỡi trắng,
mạch Tế Nhược.
Bệnh bất mị - mất ngủ - xuất hiện trong chứng Tâm Tỳ hư có đặc điểm
là mê nhiều dễ thức giấc, giấc ngủ không yên, Bệnh phần nhiều do tư lự, mệt
nhọc tổn hại đến Tâm Tỳ, âm huyết ngấm ngầm bị suy hao, thần không nơi ở.
Tỳ bị tổn thương mất khả năng sinh hoá chất tinh vi, huyết hư khó hồi phục,
tâm thần mất sự nuôi dưỡng mà thành mất ngủ. Trương Cảnh Nhạc nói “nhọc
mệt nghĩ quá độ thì tất nhiên làm cho huyết dịch bị hao tổn, thần hồn không
yên tĩnh cho nên không ngủ”. Lâm Hi Đồng nói: “lo nghĩ quá nhiều thành
chứng không ngủ kinh niên”. Sách Loại chứng trị tài cũng viết: “Tư lự thương
Tỳ, Tỳ huyết bị tổn hại, quanh năm mất ngủ, điều trị theo phép bổ ích Tâm Tỳ
Dùng bài Quy Tỳ thang hoặc Dưỡng tâm thang [31].

1.5.2. Thể Tâm Thận bất giao [47]
Tâm với thận trong tình huống bình thường, chủ yếu là có mối quan hệ
trên và dưới cùng giao nhau, thuỷ với hoả cùng giúp đỡ nhau. Nếu do bẩm tố
tiên thiên bất túc, hoặc hư lao ốm lâu, hoặc phòng thất quá đáng v.v. khiến cho
Thận thuỷ hư suy ở dưới không thể giúp cho Tâm hoả ở trên. Tâm hoả vượng ở
trên không thể giao với Thận ở dưới, hoặc do mệt nhọc tinh thần quá độ, ngũ chí
quá cực đến nỗi Tâm âm bị hao tổn ngấm ngầm, Tâm dương quá thịnh, Tâm hoả
không thể giao với Thận ở dưới, Tâm hoả không giáng xuống, Thận thuỷ không


20

thăng lên tạo thành tình thế thuỷ hoả của Tâm Thận không giúp đỡ nhau sẽ hình
thành bệnh biến, lâm sàng gọi là chứng Tâm Thận bất giao.
Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là Tâm phiền, mất ngủ, hay mê, di tinh,
lưng đùi ê mỏi, triều nhiệt đổ mồ hôi trộm, hoa mắt ù tai, hoặc hồi hộp, hoặc
khô họng, hoặc tiểu đêm nhiều lần. Chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi ít hoặc không có
rêu, mạch Tế Sác.
Bệnh bất mị - mất ngủ - xuất hiện trong chứng Tâm Thận bất giao có
đặc điểm là hư phiền, không ngủ, hay mê, ngũ tâm phiền nhiệt, miệng khô tân
dịch ít, lại kiêm cả chứng váng đầu, ù tai, hồi hộp, lưỡi đỏ, mạch Tế Sác; Đây
là do mệt nhọc nội thương, Thận thuỷ bất túc, Tâm hoả mạnh một phía gây
nên; Điều trị theo phép tráng thuỷ chế hoả, tư âm thanh nhiệt.
1.6. Các phương pháp điều trị mất ngủ bằng thuốc y học cổ truyền
* Tâm sen, lá vông, lạc tiên, củ bình vôi, cây húng hôi [33]
Nhiều trường hợp cho kết quả tốt, nhưng thực tế các chất này có tác dụng
không vững bền nên chỉ có công hiệu với các trường hợp mới bị và nhẹ mà thôi.
Gần đây các nhà y học đề xuất việc thay thế liệu pháp hoá học bằng liệu pháp thực
vật với một số loại thảo mộc có tác dụng giúp cho người bệnh tìm lại được giấc
ngủ sâu và êm dịu. Đối với người bị chứng mất ngủ mạn tính bao gồm các loại

mất ngủ kéo dài từ vài tháng đến vài năm, có hai loại thảo mộc có ích cho họ, đó
là cây Đào gai (anbespine) làm dịu đi những lo âu căng thẳng và cây Lạc tiên
(Passiflore) giúp cho dễ dàng đi vào giấc ngủ. trong trường hợp người bệnh
thường thức giấc lúc 4-5 giờ sáng và không ngủ lại được thì cây Húng hôi
(baloote) là thứ dược phẩm thiên nhiên hữu ích. Nó chứa một chất xoa dịu rất
mạnh, có tác dụng làm mất đi cảm giác lo sợ bất an và kéo dài thời gian ngủ [33].
* Một số bài thuốc kinh điển
Tâm và Tỳ hư dùng Quy Tỳ thang hoặc bài Dưỡng Tâm thang, hoặc Lý thị
bất mị nghiệm phương để bổ huyết, ích khí trấn tâm an thần, Triệu thị nhị nhục


21

thang để ích Tâm Tỳ, sinh khí huyết, bổ Can Thận, Lăng thị thất miên phương để
bổ Thận dưỡng Tâm [31]. Mất ngủ do chân âm kém, hoả vượng dùng các bài Hoàng
liên a giao thang, Chu sa thần hoàn, Thiên vương bổ tâm đan. Mất ngủ do khí của
Tâm và Đởm hư: Toan táo nhân thang hoặc bài An thần định trí hoàn. Mất ngủ do
Vị không điều hoà do đờm hoả ngăn chặn dùng bài: Ôn đởm thang, bán hạ truật mễ
thang. Thức ăn trệ lại không tiêu: Bảo hoà hoàn. Sau khi ốm dậy mà không ngủ
được: Quy Tỳ thang. Do huyết hư can nhiệt: Bách hổ phách đa mị hoàn. Tâm Thận
không giao nhau dùng bài Giao thái hoàn [42] hoặc Triệu thị tử linh thang để bồi bổ
trung tiêu, ích tinh, mạnh sự ăn uống, giao thông Tâm Thận [31].
1.7. Điều trị mất ngủ bằng nhĩ châm
1.7.1. Khái niệm nhĩ châm.
Nhĩ châm tức là dùng kim châm vào những điểm mẫn cảm trên loa tai,
rồi vê kim bằng tay hoặc lưu kim ở loa tai trong thời gian nhất định theo yêu
cầu chữa bệnh đối với từng chứng bệnh, từng bệnh nhân. Thời gian lưu kim
25 đến 30 phút trong mỗi lần châm tùy theo mục đích bổ, tả đối với từng
chứng bệnh, từng bệnh nhân.
Nhĩ châm là một trong những hình thức cuả châm cứu, có tác dụng

chẩn đoán và điều trị . Ở nhiều nước Châu á, Châu âu, như: Trung Quốc, Nhật
Bản, Ai cập, Ý pháp, Bồ Đào Nha có sử sách ghi về những tác động vào loa
tai để chũa bệnh.
1.7.2.Cơ sở khoa học của nhĩ châm.
1.7.2.1. Theo giải phẫu, thần kinh- sinh lý học
Loa tai giống như một bào thai nằm cuộn mình trong tử cung và có rất
nhiều thần kinh được phân bố ở loa tai (theo[47]) . Đó là các nhánh của dây
thần kinh tai to, dây thần kinh chẩm nhỏ, nhánh thái dương của dây thần kinh
sinh ba, nhánh tai của thần kinh mặt, nhánh tai sau của dây phế vị(hình1) .


22

- Nhánh trước của dây thần kinh tai - thái dương: nhánh này đi từ
dây thần kinh tai - thái dương của dây thần kinh V cho ra 3 đến 4 nhánh nhỏ,
phân bố.
+ Trên da của gờ bình tai và phía trước của hố tam giác.
+ Tại chân dưới của đối bình, ở trên và trước .
+ Tại xoắn tai trên, bình tai và dái tai lỗ tai và màng nhĩ.
Dây thần kinh tai - thái dương là một dây hỗn hợp (vận động và cảm
giác) là một nhánh của dây thần kinh hàm dưới thuộc dây thần kinh V cùng
với dây mặt và dây thần kinh phế vị, nó kiểm soát lỗ tai ngoài.

Hinh 1.1: Thần kinh liên quan đến tai


23

- Dây thần kinh tai to: Xuất phát từ đám rối cổ, dây thần kinh tai to men
theo bề mặt của cơ ức đòn chũm, đi lên ngang dái tai, phân ra hai nhánh:

nhánh trước tai và nhánh sau tai.
+ Nhánh trước tai xuyên qua dái tai ra mặt trước của loa tai, cho một
nhánh lên phân bố ở 2/3 dưới của thuyền tai, đối luân, đầu nhọn của hố tam
giác, xoắn tai trên và một phần của rễ luân. Còn có một nhánh khác phân bố ở
phần trên và giữa thuyền tai, ở phần giữa của luân tai.
+ Nhánh sau tai phân bố tại da của phần giữa của mặt sau loa tai.
Đám nối cổ nông được liên hệ với các dây khác: VII, dây X , dây XI và dây
hạch thần kinh giao cảm.
- Nhánh tai của dây X : nhánh này bắt đầu phát ra từ hạch thần kinh cảnh
của dây phế vị, ra phía trước hợp lại với sợi của thần kinh VII trong ống của
dây này. men theo rãnh của mặt sau loa tai tách ra hai nhánh phân bố tại xoắn
tai dưới và ống tai ngoài.
- Nhánh tai của dây thần kinh VII: sau khi ra khỏi lỗ trâm chũm, dây VII
cho ra nhánh tai phân bố ở mặt sau tai và xoắn tai trên, tại chỗ dưới và sau rễ
luân, nơi giữa của chân đối luân và phần dưới của hố tam giác.
- Dây thần kinh chẩm nhỏ: Xuất phát từ đám rối cổ, đi lên theo cơ ức đòn
chũm, phát ra một số phân nhánh tới phần trên của loa tai; 1/3 da mặt sau loa
tai, nhánh trước tai và nhánh đâm xuyên phân bố ở luân tai, phần trên của
thuyền tai, chân trên của đối luân và một phần của hố tam giác.
Phân bố mạch máu và bạch mạch của loa tai
-Loa tai được cung ứng máu khá đầy đủ, chủ yếu dựa vào động mạch
thái dương nông của động mạch cổ ngoài và động mạch sau tai. Động mạch
thái dương nông nuôi dưỡng khu vực trước tai , còn động mạch sau tai có
nhánh sau tai và nhánh trước tai. Nhánh động mạch sau tai đi đến mặt trước


24

loa tai, nuôi dưỡng vùng 2/3 dưới của thuyền tai, đối luân, đỉnh của hố tam
giác, xoắn tai trên và một phần vành tai.

-Các tĩnh mạch nhỏ của mặt trước loa tai đổ vào tĩnh mạch thái dương
nông. Tĩnh mạch của mặt sau loa tai hợp lại thành 3 - 5 tĩnh mạch của mặt
sau loa tai đổ vào tĩnh mạch sau tai.
-Bạch mạch của loa tai khá phong phú, hình thành một mạng lưới tại
loa tai. Bạch mạch ở mặt trước loa tai chảy vào mang tai. Đại bộ phận bạch
mạch ở mặt sau loa tai đổ về hạch sau tai.
Với sự phân bố thần kinh như trên, loa tai là ngã rẽ của nhiều đường
thần kinh làm cho nó gắn liền mật thiết với toàn thân. Nhờ sự phân bố thần
kinh cảm giác của nó, loa tai được liên hệ với:
- Các đường tủy: nhờ vào đám rối cổ nông là nơi đã phát ra dây thần
kinh tai to.
- Não bộ: chủ yếu dựa vào dây thần kinh V.
- Hệ thần kinh thực vật:
+ Hệ giao cảm: có rất nhiều sợi của thần kinh giao cảm cổ được liên hệ
vào các nhánh của đám rối tủy cổ nông, của dây X, của dây X và của dây XI.
Dây XI lại được liên hệ trực tiếp với đám rối giao cảm của xoang cảnh (rất
quan trọng trong sự điều hòa vận động tim mạch).
+ Hệ phó giao cảm: Gồm các nhánh mạch và bài tiết nước bọt của dây
phó giao cảm thuộc hành não, dây XI và chủ yếu là dây X..
1.7.2.2. Theo YHCT.
Trong những tài liệu kinh điển của châm cứu đều có đề cập mối liên
quan giữa tai và các kinh mạch. Trong Linh khu có nêu “Tai là nơi tụ hội của
tổng mạch” hoặc “Khí huyết của 12 kinh mạch, 365 lạc đều lên mặt để tưới
cho 5 quan, 7 khiếu, não tủy ở đầu mặt... trong đó có khí huyết tách ra để tưới
nhuận cho tai. Tai là một điểm trọng yếu trực tiếp thông với kinh Đởm, kinh


25

Tâm, kinh Can, kinh Tam tiêu, kinh Tiểu trường, gián tiếp thông với kinh

Thận, kinh phế, kinh Tâm bào. Như vậy tất cả các kinh âm và kinh dương
chính đều thông với nhau qua kinh nhánh của chúng và hầu hết các kinh âm
và dương chính đều có liên quan đến tai.
Trong Linh Khu và Tố Vấn và các tài liệu kinh điển cho thấy rõ mối
quan hệ giữa tai với các tạng phủ trong cơ thể: “Thận khí thông ra tai. Thận
hóa thì tai nghe được....” , “Tâm..... khai khiếu ở tai ” , “Tỳ..... không đầy đủ
thì 9 khiếu không thông” , “Tủy hải không đủ.... thì tai ù” , “Bệnh ở can hư....
thì tai không nghe được, khí nghịch thì đau đầu, điếc tai”
“Phế khí hư thì khí ít......., tai điếc”, “Phế chủ âm thanh, làm tai nghe
được âm thanh”
Như vậy tai có quan hệ mật thiết với 12 kinh mạch và tất cả các tạng
phủ và trong cơ thể. Đây cũng chính là cơ sở lý luận về YHCT của phương
pháp nhĩ châm.
1.7.2.3. Phân vùng loa tai và những thay đổi bệnh lí
Bình thường da ở loa tai thấy đồng màu, cũng có thể thấy những chấm
hay những mảng sắc tố. Khi cơ thể có bệnh, từng vùng da trên loa tai có thể
thay đổi trở nên đỏ hoặc tái đi, xù xì, thô ráp, bong vảy khác với xung quanh.
Tại các vùng hay điểm nói trên, nhĩ trở sẽ thấp hơn những vùng gần đấy, khi
nắn hoặc dùng que tù đầu ấn vào, bệnh nhân thấy đau trội hơn ở vùng kế cận.
Trên lâm sàng ta có thể quan sát các hiện tượng sau:
- Ở loa tai có vùng phản ứng hoặc điểm phản ứng trong khi ở đường kinh
tương ứng với vùng bệnh không tìm thấy điểm phản ứng hoặc vùng phản ứng.
- Ở loa tai không có vùng phản ứng hoặc điểm phản ứng trong khi ở
đường kinh tương ứng với vùng bệnh có điểm phản ứng hoặc vùng phản ứng.
- Ở loa tai và trên đường kinh tương ứng với vùng bệnh đều có điểm
phản ứng hoặc vùng phản ứng.


×