Tải bản đầy đủ (.docx) (62 trang)

NHU cầu và KHẢ NĂNG CUNG cấp các LOẠI HÌNH đào tạo LIÊN tục về y học cổ TRUYỀN CHO NHÂN VIÊN y tế HUYỆN tại TỈNH THANH hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (617.26 KB, 62 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

----------

NGUYỄN THÀNH TRUNG

NHU CẦU VÀ KHẢ NĂNG CUNG CẤP CÁC LOẠI HÌNH ĐÀO
TẠO LIÊN TỤC VỀ Y HỌC CỔ TRUYỀN CHO NHÂN VIÊN Y
TẾ HUYỆN TẠI TỈNH THANH HÓA
ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC

HÀ NỘI-2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

BỘ Y TẾ


----------

NGUYỄN THÀNH TRUNG

NHU CẦU VÀ KHẢ NĂNG CUNG CẤP CÁC LOẠI HÌNH ĐÀO
TẠO LIÊN TỤC VỀ Y HỌC CỔ TRUYỀN CHO NHÂN VIÊN Y
TẾ HUYỆN TẠI TỈNH THANH HÓA

CHUYÊN NGÀNH: Y TẾ CÔNG CỘNG


MÃ SỐ ĐÀO TẠO: 60720301

LUẬN VĂN THẠC SỸ Y HỌC
Người hướng dẫn khóa luận:
1.
2.

TS. NGUYỄN NGÔ QUANG
GS.TS. TRƯƠNG VIỆT DŨNG

HÀ NỘI-2015


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ATNB

An toàn người bệnh

BYT

Bộ Y tế

CME (Continuing
medical eduction)

Đào tạo liên tục

CBYT

Cán bộ y tế


CSSK

Chăm sóc sức khỏe

CSSKBĐ

Chăm sóc sức khỏe ban đầu

JAHR

Báo cáo chung tổng quan ngành y tế

WFME

Liên đoàn giáo dục y học thế giới

WHO

Tổ chức Y tế Thế giới

WPRO

Tổ chức Y tế Thế giới Tây Thái Bình
Dương

TM/CAM (traditional
medicine/complementar
y and alternative


Y học cổ truyền

medicine)
YDCT

Y dược cổ truyền

YHHĐ

Y học hiện đại

YHCT

Y học cổ truyền

YHDT

Y học dân tộc


DANH MỤC BẢNG


MỤC LỤC


ĐẶT VẤN ĐỀ
Đào tạo liên tục là một hình thức bảo đảm duy trì, cập nhật trình độ, kỹ
năng, đạo đức nghề nghiệp của nhân viên y tế trong các cơ sở y tế đáp ứng nhu cầu
cung cấp dịch vụ y tế, bảo đảm chất lượng dịch vụ y tế. Vai trò của đào tạo liên tục

trong việc đảm bảo và nâng cao chất lượng của hệ thống chăm sóc y tế ngày càng
trở nên quan trọng.
Trong thời gian vừa qua Đảng và Chính phủ đã ban hành một số văn bản
quy phạm pháp luật quan trọng để đẩy mạnh công tác đào tạo liên tục trong lĩnh
vực y tế đó là:
Nhằm đa dạng hóa các hình thức đào tạo khác nhau để phát triển nguồn nhân
lực y tế cho tuyến cơ sở, Bộ Y tế ban hành văn bản số 1915/BYT-K2ĐT ngày
8/4/2013 hướng dẫn các cơ sở đào tạo nhân lực y tế triển khai thực hiện Thông tư
số 55/2012/TT-BGDĐT ngày 25/12/2012 của Bộ giáo dục và đào tạo quy định liên
thông trình độ cao đẳng, đại học.
Trong Luật khám chữa bệnh ngày 23/11/2009 quyền được nâng cao năng
lực chuyên môn của cán bộ y tế được quy định tại điều 33, điều 37 và điều 83 [1].
Đặc biệt, ngày 9/8/2013, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 22/2013/TTBYT, Hướng dẫn đào tạo liên tục trong lĩnh vực y tế, thay cho Thông tư số
07/2008/TT-BYT ngày 28 tháng 5 năm 2008.
Ngày 8/4/2014 Bộ Y tế đã ký Quyết định về việc ban hành Chiến lược đào
tạo liên tục trong lĩnh vực y tế giai đoạn đến năm 2020 và đinh hướng đến năm
2030 [2].
Việt Nam là một trong những nước có truyền thống sử dụng Y học cổ truyền
(YHCT) lâu đời. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, YHCT Việt Nam đã trở thành
một nền y học chính thống của dân tộc, đã đúc kết nhiều kinh nghiệm phòng và
chữa bệnh có hiệu quả. Đặc biệt sau khi nước nhà dành độc lập, Đảng và nhà nước
đã có những chủ trương chính sách quan trọng về phát triển YHCT như chủ trương
kết hợp Y học hiện đại (YHHĐ) và YHCT, tổ chức hệ thống khám và chữa bệnh
bằng YHCT từ tuyến trung ương đến các địa phương. Năm 2003 Thủ tướng Chính
phủ chính thức phê duyệt chính sách quốc gia về Y dược học cổ truyền đã đề ra
những mục tiêu, những giải pháp và chính sách cụ thể mà ngành y tế cần đạt được
6


đến năm 2010. Trong đó có mục tiêu cũng cố và hoàn thiện hệ thống khám chữa

bệnh bằng YHCT, đề ra các chỉ tiêu khám chữa bệnh và sử dụng thuốc YHCT ở
các tuyến y tế [3].
Ngày 18/4/2014 Bộ Y tế đã ban hành công văn số 2034/BYT-K2ĐT về việc
tăng cường chất lượng công tác đào tạo liên tục cán bộ y tế.
Cho đến nay, chưa có nhiều đề tài nghiên cứu tổng thể về thực trạng và nhu
cầu đào tạo liên tục cho nhân viên y tế công tác tại các bệnh viện YHCT. Vì những
lý do trên và để góp phần nâng cao chất lượng đào tạo liên tục trong hệ thống y tế,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nhu cầu và khả năng cung cấp các loại
hình đào tạo liên tục về y học cổ truyền cho nhân viên y tế tuyến huyện tại
tỉnh Thanh Hóa”
Với 2 mục tiêu sau:
1. Mô tả thực trạng và nhu cầu đào tạo liên tục về y học cổ truyền cho nhân viên y
tế bệnh viện tuyến huyện của tỉnh Thanh Hóa năm 2015
2. Xác định thực trạng và khả năng cung cấp hoạt động đào tạo y tế liên tục của
bệnh viện Y học cổ truyền tỉnh Thanh Hóa.

7


1.1.
1.1.1.

Chương 1
TỔNG QUAN
Hệ thống y học cổ truyền trên thế giới và tại Việt Nam
Hệ thống y học cổ truyền ở các nước trên thế giới

Theo định nghĩa của WHO (2000): YHCT là toàn bộ kiến thức, kỹ năng và
thực hành dựa trên lý luận, lòng tin và kinh nghiệm vốn có của những nền văn hóa
khác nhau, dù đã được giải thích hay chưa, nhưng được sử dụng để duy trì sức

khỏe, cũng như để phòng bệnh, chẩn đoán, cải thiện hoặc điều trị tình trạng đau ốm
về thể xác hoặc tinh thần [4].
Thực trạng các quy định về pháp lý đề cập đến YHCT ở mỗi quốc gia là
khác nhau [5]. Một số nước YHCT được quản lý tốt, trái lại ở một số nước nó chỉ
được đề cập đến như những thực phẩm chức năng và những phương pháp chữa
bệnh truyền miệng mà không được cho phép [6]. Tuy nhiên, ở các nước đang phát
triển tỷ lệ người dân sử dụng YHCT là rất cao với nhiều kinh nghiệm dân gian quý
báu [7].
1.1.1.1.

Y học cổ truyền trong chăm sóc sức khỏe ở các nước phát triển

Có 1/3 người Mỹ đã sử dụng thuốc cổ truyền. Năm 1990 doanh số bán ra
của thuốc cổ truyền ước khoảng 1 tỷ USD. Năm 1989, 60% dân số Hà Lan và Bỉ,
74% dân số Anh hài lòng với phương pháp chữa bệnh theo YHCT [5].
Một trong các quốc gia tiêu biểu sử dụng YHCT trong chăm sóc sức khỏe
phải kể tới Trung Quốc, quốc gia có một nền YHCT lâu đời và có ảnh hưởng sâu
sắc tới nền YHCT của nhiều quốc gia khác nhau: Đại hàn Dân Quốc, Cộng hòa
dân chủ nhân dân Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam,…[8]. Đây là một quốc gia có
nền YHCT phát triển lâu đời vào bậc nhất thế giới. Năm 1995 Trung Quốc đã có
2.522 bệnh viện YHCT với 353.373 nhân viên y tế và 236.060 giường bệnh, những
bệnh viện này đã điều trị 200 triệu bệnh nhân ngoại trú và 3 triệu bệnh nhân nội trú
1 năm, đồng thời 95% các bệnh viện ở Trung Quốc có khoa YHCT [8], [9].
Hội nghị phát triển YHCT Trung Quốc năm 2005 đã thống kê: YHCT Trung
Quốc đã được hơn 120 quốc gia và khu vực trên thế giới chấp nhận. Ở Anh, hơn
3000 bệnh viện thực hành về YHCT Trung Quốc đã được mở. Có khoảng 2,5 triệu
người Anh đã chi tổng số 90 triệu bảng Anh hàng năm để được điều trị bằng
YHCT Trung Quốc. Ở Pháp có 2600 bệnh viện thực hành về YHCT Trung Quốc
8



có tới 7000 đến 9000 cán bộ châm cứu. Cho đến nay trên 50 hợp đồng y học được
ký giữa Trung Quốc với các nước khác trong đó có sự hợp tác về YHCT [10].
Nhật Bản: Với lịch sử nền YHCT trên 1400 năm, được xem là nước có tỷ lệ
người khám chữa bệnh bằng YHCT cao nhất thế giới hiện nay. Thầy thuốc YHCT
Nhật Bản là sự kết hợp giữa YHCT Trung Quốc và thuốc dân gian Nhật Bản gọi
chung là Kampo. Kampo được đào tạo như sau: sau khi tốt nghiệp ở trường y (6
năm) và thực hành 3 năm tại các cơ sở khám chữa bệnh, sau đó học thêm 3 năm về
YHCT mới trở thành Kampoo. Tính từ năm 1974 đến 1989, sử dụng các loại thuốc
YHCT ở Nhật Bản đã tăng 15 lần trong khi các loại tân dược chỉ tăng 2,6 lần. Ít
nhất 65% bác sĩ ở Nhật khẳng định rằng họ đã sử dụng phối hợp đồng thời thuốc
YHCT và thuốc YHHĐ [11]. Lý do giải thích là Kampoo không gây phản ứng,
không gây tác dụng phụ, ngoài ra y học Kampoo còn đáp ứng các yếu tố tâm linh
và tinh thần của người Nhật [11]. Một bài thuốc Kampoo dự định áp dụng cho
bệnh nhân phải qua 2 giai đoạn: giai đoạn 1 tất cả bệnh nhân được cho sử dụng và
những người có đáp ứng với thuốc được lựa chọn,giai đoạn 2 một thử nghiệm lâm
sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng chỉ bao gồm những người bệnh nhân có đáp ứng
với thuốc được tiến hành trên và đánh giá tác dụng của thuốc [12], [13]. Kampoo
không nằm trong hệ thống nhà nước nhưng được khuyến khích phát triển và Nhật
Bản là nước có tỷ lệ người dân sử dụng YHCT cao nhất thế giới [14].
Hàn Quốc: ở quốc gia này hầu hết các cơ sở y tế nhà nước và tư nhân đều
hoạt động vì lợi nhuận. Do việc mở rộng các cơ sở y tế tư nhân dẫn đến sự thiếu
hiệu quả của hệ thông y tế công lập, sử dụng quá mức dịch vụ cần thiết, tập trung
các bác sỹ ở các thành phố lớn và dẫn đến sự mất cân bằng giữa chi phí y tế cao và
lợi ích chi phí thấp. Tại Đại Hàn Dân Quốc, YHCT rất phát triển và có vị thế
ngang bằng YHHĐ. Tuy nhiên những năm gần đây YHCT có khuynh hướng bị thu
hẹp lại do chế độ chi trả cho YHHĐ có xu hướng rộng rãi và ưu đãi hơn [15].
+ Khu vực Đông Nam á: Chiến lược toàn cầu của Tổ chức Y tế thế giới chú
ý vai trò quan trọng của TM/CAM (traditional medicine/complementary and
alternative medicine) trong việc bảo vệ, cải tiến và dự phòng y tế tốt nhất, phổ biến

nhất. WHO khuyến khích tất cả những thành viên Asean ủng hộ T/CAM và tiếp
tục lượng giá, công thức của chính sách quốc gia với cấu trúc phù hợp, tiến tới thực
hành và sử dụng TM/CAM phù hợp nhất và hợp với hệ thống chăm sóc sức khỏe
đặc biệt có lợi cho sức khỏe, thuận lợi kinh tế xã hội và thương mại [16], [17],
9


[18], [19], [20]. Các nước Indonesia, Malaysia, đặc biệt là Thái Lan… cũng là
những nước có truyền thống sử dụng YHCT để bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức
khoẻ [14]. Từ năm 1950 đến 1980 YHCT Thái Lan gần như bị tê liệt hoàn toàn do
quá coi trọng YHHĐ. Điều này có ảnh hưởng đến chất lượng chăm sóc sức khoẻ
ban đầu (CSSKBĐ) ở Thái Lan. Từ năm 1980, chính phủ và ngành y tế Thái Lan
đã khẩn trương thiết lập chính sách phát triển thuốc thảo mộc trên phạm vi cả
nước, tiến hành các cuộc điều tra về cây thuốc, các nghiên cứu dược học, dần từng
bước đưa thuốc YHCT vào hệ thống y tế quốc gia phục vụ công tác CSSK nhân
dân [7]. Brunei Darussalam bắt đầu thành lập T/CAM – Vụ YHCT – Bộ Y tế vào
ngày 26/05/2008 tập trung mũi nhọn lồng ghép T/CAM trong dịch vụ chăm sóc
sức khỏe [16]. Từ 23/12/2002 đến 4/2/2005 đã có 8 chuyên gia về YHCT của Bệnh
viện YHCT Trung ương - Việt Nam đến trung tâm nghiên cứu YHCT – Bộ Y tế
Lào để nghiên cứu lâm sàng về y học cổ truyền, trong thời gian này các chuyên gia
chữa khỏi bệnh cho hơn 5000 bệnh nhân bằng YHCT. Bộ Y tế Lào đã có kế hoạch
hợp tác với Bộ Y tế Việt Nam đào tạo sau đại học và các khóa đào tạo ngắn về
phương pháp chữa bệnh bằng YHCT [12].
+ Hiện nay, hầu như chưa có đề tài nghiên cứu nào trên thế giới đưa ra được
nghiên cứu cụ thể về nguồn nhân lực để phát triển YHCT cũng như nhu cầu đào
tạo liên tục cho các cán bộ làm về công tác YHCT, tuy nhiên trong chiến lược phát
triển YHCT năm 2002 – 2005, Tổ chức Y tế Thế giới tiếp tục khẳng định vai trò và
giá trị của YHCT trong chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân. Chiến lược y
học cổ truyền khu vực Tây Thái Bình Dương (2011 – 2020) đã tính đến các thách
thức và xu hướng của khu vực cũng như bối cảnh chiến lược toàn cầu. Bản chiến

lược đã ghi nhận phương hướng của mỗi quốc gia và vùng lãnh thổ sẽ tùy thuộc
vào nhu cầu, năng lực, ưu tiên, chính sách y tế hiện hành, các quy định, chiến lược,
nguồn lực, văn hóa và lịch sử của quốc gia đó. Mục tiêu của chiến lược bao gồm
[21]:
Đưa y học cổ truyền vào hệ thống y tế quốc gia.
Thúc đẩy sử dụng y học cổ truyền an toàn và hiệu quả.
Tăng cường cơ hội sử dụng y học cổ truyền an toàn và hiệu quả.
Thúc đẩy bảo vệ sử dụng bền vững nguồn lực y học cổ truyền.
Tăng cường hợp tác trong việc xây dựng, chia sẻ kiến thức, kỹ năng thực
hành y học cổ truyền.
1.1.1.2.
Y học cổ truyền trong chăm sóc sức khỏe tại các châu lục khác
-

10


Các nước châu Phi, châu Mỹ La tinh, đặc biệt là các bộ lạc người dân ở đây
từ lâu đã biết làm các phương thuốc từ cây cỏ sẵn có tại nơi sinh sống để phòng và
chữa các bệnh thông thường ở cộng đồng mình.
Theo kết quả của một số nghiên cứu ở Australia, 48,5% dân số sử dụng ít
nhất một loại hình chữa bệnh theo phương pháp YHCT, các bác sỹ thực hành đã
khuyến cáo người dân sử dụng thảo dược - một trong mười liệu pháp điều trị thay
thế (châm cứu, thôi miên, ngồi thiền, tác động cột sống, thể dục nhịp điệu, Yoga, vi
lượng đồng căn, thảo dược, xoa bóp, ngửi hoa) [22]. Chính phủ đã có những chính
sách phổ cập biện pháp thay thế này đến toàn cộng đồng [23], [24].
Trong chiến lược phát triển YHCT năm 2002 – 2005, Tổ chức Y tế Thế giới
tiếp tục khẳng định vai trò và giá trị của YHCT trong chăm sóc sức khỏe ban đầu
cho nhân dân [6]. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã tích cực và nỗ lực hỗ trợ cho
các hoạt động phát triển nguồn lực YHCT ở các nước thông qua các khoá đào tạo

cho lương y ở Lào, Mông Cổ, Philippin và các quốc đảo Tây Thái Bình Dương.
Mục tiêu là sử dụng những lương y đã được đào tạo để giáo dục sức khoẻ hoặc
cung cấp dịch vụ CSSKBĐ bằng YHCT [9], [15]. Nâng cao năng lực nghiên cứu
về YHCT cho các nước thông qua tổ chức các hội thảo khu vực, các khoá đào tạo
và những học bổng đào tạo chuyên gia [15].
1.2.
1.2.1.

Hệ thống Y học cổ truyền trong chăm sóc sức khỏe ở Việt Nam
Khái quát lịch sử YHCT Việt Nam

YHCT Việt Nam ra đời từ rất sớm, gắn liền với lịch sử phát triển của truyền
thống văn hoá dân tộc. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, YHCT Việt Nam đã đúc
rút được nhiều kinh nghiệm phòng và chữa bệnh có hiệu quả. Nền YHCT Việt
Nam còn được phát triển trong sự giao lưu với Trung Quốc và các nước trong khu
vực. Bằng sự xuất hiện nhiều danh y lớn như Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lãn Ông, Chu
Doãn Văn, Hoàng Đôn Hòa, Nguyễn Đạo An…YHCT Việt Nam không chỉ là một
nền y học kinh nghiệm đơn thuần mà còn phát triển về mặt lý luận. Các tác phẩm
YHCT Việt Nam có giá trị to lớn trong nền y học và văn hóa dân tộc [25].
Từ thời Vua Hùng dựng nước, nhân dân Việt Nam đã biết dùng thuốc có
nguồn gốc thiên nhiên, khoáng vật, thực vật, động vật. Tục ăn trầu cho ấm cơ thể,
phòng sốt rét, ngã nước, nhuộm răng làm chặt chân răng; ăn kèm gừng tỏi với thịt,
cá cho dễ tiêu trở thành gia vị trong bữa ăn hàng ngày. Dân miền núi có tập quán
11


ăn hạt ngải, uống nước riềng, chấm muối xả… để phòng khí thấp, chống sốt rét
rừng; dân miền Trung du biết uống chè vối; miền xuôi uống chè xanh, ăn diếp cá,
riềng giúp tiêu hóa tốt…sản phụ uống chè vằng cho “thông máu”, ăn ngon hơn và
tiêu cơm [26]. Các kinh nghiệm ban đầu ấy được tích luỹ nhiều thêm và được đúc

kết thành kinh nghiệm riêng của mỗi dân tộc trên đất nước Việt Nam trong việc
phòng chữa bệnh [27].
Các thời nhà Ngô, Đinh và Tiền Lê, tuy không còn văn tự về nền YHCT
nhưng qua truyền thuyết ta cũng có thể hình dung được là dân tộc ta lúc đó đã biết
sử dụng dược thảo để bảo vệ sức khỏe cho mình. Đến thời nhà Lý, chính quyền
phong kiến đã tập hợp các vị lương y tổ chức thành Ty Thái y và bổ nhiệm Ngự y
để lo sức khỏe cho triều đình. Thời kỳ này đã xuất hiện nhiều lương y hoạt động
mang tính chuyên nghiệp. Sang thời Trần YHCT phát triển mạnh mẽ hẳn lên. Từ
Ty Thái y (đời Lý) nay sang viện Thái y và triều đình mở các khoa thi để tuyển
chọn lương y giỏi. Nhà Trần còn cho trồng nhiều dược liệu với quy mô lớn mà nay
vẫn còn dấu tích tại vùng Yên Tử (Quảng Ninh). Vì thế thời kỳ này có nhiều thầy
thuốc giỏi, vượt lên tất cả là Thiền sư Tuệ Tĩnh (thế kỷXIV), Ông đã đã được nhân
dân suy tôn là vị “Thánh thuốc nam”, người có công đầu trong việc sưu tầm, tập
hợp và sử dụng thuốc nam “Nam dược trị Nam nhân”. Đây là một quan điểm vừa
mang tính khoa học, tính nhân văn vừa thể hiện được ý trí độc lập, tự chủ, tự tôn
dân tộc. Để cho dân dễ hiểu, dễ nhớ các phương pháp chữa bệnh bằng thuốc nam.
Tuệ Tĩnh đã soạn bằng thơ phú để truyền bá YHCT. Bài thơ phú thuốc nam có 630
vị bằng Quốc âm, phần đầu cuốn “Nam dược thần hiệu” có 400 vị thuốc ghi bằng
chữ Hán, 82 vị có tên Việt Nam…nhằm phổ biến kinh nghiệm sử dụng thuốc nam
trong việc phòng và chữa bệnh cho nhân dân [28].
Triều đình nhà Hồ tuy tồn tại chẳng được bao lâu, nhưng ngoài những cải
cách về mặt nhà nước, Hồ Qúy Ly còn chú trọng đến việc chăm lo sức khỏe cho
nhân dân, lập Quảng Tế Thự và các cơ sở chữa bệnh bằng châm cứu. Nhưng rồi,
một lần nữa, nước ta lại bị giặc Minh xâm lược, nền YHCT của ta lại bị chìm lắng
một thời gian. Khi Lê Lợi đuổi được giặc Minh thì YHCT của ta lại phát triển
mạnh mẽ. Nhà Hậu Lê rất chú trọng đến việc chữa bệnh cho dân, tạo điều kiện cho
các thầy thuốc hành nghề. Vì vậy thời kỳ này có nhiều thầy thuốc giỏi như Nguyễn
Trực, Chu Doãn Văn, Hoàng Đôn Hòa, Nguyễn Đạo An…nổi tiếng nhất là đại
danh y Lê Hữu Trác (1720-1791), ngoài việc chữa bệnh tận tụy, tài giỏi, Ông còn
soạn “Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh” 28 tập 66 quyển. Bộ sách được coi là bộ

12


Bách khoa toàn thư về YHCT Việt Nam [29]. Về phòng bệnh, có quyển Vệ sinh
yếu quyết đã chỉ dẫn cụ thể cách giữ vệ sinh theo hoàn cảnh sinh hoạt của nhân
dân, từ vệ sinh cá nhân đến vệ sinh môi trường với cách tu dưỡng tinh thần và rèn
luyện thân thể để tăng sức khỏe, tăng tuổi thọ. Về dược học, phát huy truyền thống
của Tuệ Tĩnh, Ông thừa kế “Nam dược thần hiệu” 496 vị, bổ sung 300 vị trong tập
Lĩnh nam bản thảo, gần 2.000 phương thuốc gia truyền, kinh nghiệm vào tập Bách
gia trân tàng, Hành giả trận nhu. Ông đã đúc kết được nhiều quy tắc chẩn đoán,
biện chứng, luận trị, cách dùng thuốc chữa bệnh và đạo đức người thầy thuốc: 9
điều y huấn cách ngôn [30].
Có thể nói, nền YHCT Việt Nam dưới triều đại phong kiến dù phải trải qua
những bước thăng trầm và các biến cố lịch sử, có lúc tưởng chừng bị tiêu vong do
thủ đoạn nham hiểm và hèn hạ của kẻ thù song cứ qua cơn bĩ cực lại đến thời kỳ
hưng thịnh và ngày càng phát triển.
Dưới các triều đại phong kiến, YHCT ở nước ta tồn tại dưới 2 hình thức:
YHCT chính thống và YHCT dân gian. Trong đó YHCT chính thống chịu ảnh
hưởng nhiều của YHCT Trung Quốc, được sử dụng phục vụ cho vua, quan và các
gia đình hoàng tộc. Còn YHCT dân gian, chủ yếu là thuốc nam được sử dụng rộng
rãi tại cộng đồng phục vụ cho người dân nghèo.
Dưới thời Pháp thuộc (1884-1945): do ảnh hưởng của phong trào “Tây hóa”
ở các nước phương Đông nói chung, Việt Nam nói riêng, chế độ thực dân thuộc
địa, bán thuộc địa đã kìm hãm ngành YHCT, nhưng chủ yếu chỉ xảy ra tại các đô
thị, còn tuyệt đại đa số nhân dân lao động nghèo (nhất là ở nông thôn và miền núi)
vẫn tin dùng thuốc YHCT để chữa bệnh. Nhờ đó việc sử dụng thuốc YHCT Việt
Nam vẫn được bảo tồn, duy trì và phát triển [31].
Cách mạng tháng tám thành công, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, Đảng và
Chính phủ ta luôn quan tâm đến phát triển YHCT.
1.2.2.


Hệ thống tổ chức y học cổ truyền Việt Nam hiện nay

- Năm 1946, Hội Đông y được thành lập để phát triển y học cổ truyền phục vụ chế
độ mới [32], [33].
- Nam bộ kháng chiến: Ban nghiên cứu Đông y Nam bộ được thành lập phục vụ
nhân dân và bộ đội. Ngoài việc xây dựng mạng lưới YHCT, Ban nghiên cứu Đông
13


y đã xây dựng và biên soạn "Toa căn bản" trị bệnh thông thường. Tập "Tủ thuốc
nhân dân" được soạn để phổ biến và sử dụng thuốc YHCT.
- Ngày 27/02/1955 Bác Hồ đã gửi thư cho ngành y tế. Trong thư Bác viết: “Y học
phải dựa trên nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng. Ông cha ta đã có nhiều
kinh nghiệm quí báu chữa bệnh bằng thuốc ta, thuốc bắc. Để mở rộng phạm vi y
học, các cô, các chú cũng nên chú trọng nghiên cứu phối hợp thuốc Đông và thuốc
Tây” [28], [34], [28].
- Năm 1957 Vụ Đông y và Viện Đông y được thành lập với mục đích là đoàn kết
giới lương y, những người hành nghề y học cổ truyền (YHCT) và YHHĐ, đồng
thời phát huy hoạt động của các cơ sở nghiên cứu và điều trị bằng thuốc YHCT
[35], [34] .
- Đến năm 1978: 33/34 tỉnh thành có bệnh viện YHCT. Phong trào trồng và sử
dụng thuốc nam chữa bệnh phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết [32].
- Đến năm 2010 sau khi có chính sách quốc gia về YDCT ban hành năm 2003 đến
nay có 56/63 tỉnh thành phố có bệnh viện YDCT [36].
1.2.3.
-

Mạng lưới bệnh viện y dược cổ truyền tỉnh, thành phố
Tổng số bệnh viện y dược cổ truyền: 59

Tuyến Trung ương: 3 bệnh viện
Tuyến tỉnh: 53 bệnh viện

Bệnh viện YDCT ngành: 2 bệnh viện (Bệnh viện YDCT Bộ Công an; bệnh
viện YDCT Quân đội)
Bệnh viện y dược cổ truyền trong học viện: 1 bệnh viện (bệnh viện Tuệ Tĩnh
thuộc Học viện YDCT Việt Nam)
Xếp loại bệnh viện:
Xếp hạng I : 4
Xếp hạng II : 15
Xếp hạng III : 40
Trong đó, 12 tỉnh chưa có bệnh viện YDCT tỉnh, thành phố bao gồm: An
Giang, Bà rịa - Vũng tàu, Bạc Liêu, Bắc Cạn, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Kon
Tum, Khánh Hòa, Sóc Trăng, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau [37], [38].
+
+
+

-

14


Hệ thống khám chữa bệnh bằng y dược cổ truyền ở nước ta được chia thành
4 cấp độ chuyên môn từ thấp đến cao trong bậc thang điều trị, phân tuyến về
chuyên môn kỹ thuật để đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khoẻ bằng y dược cổ
truyền; hệ thống bệnh viện YDCT hiện nay gồm: bệnh viện YHCT tuyến Trung
ương, bệnh viện YDCT tuyến tỉnh và bệnh viện YHDT của bộ, ngành.
*) Bệnh viện tuyến Trung ương [12], [39], [40], [41], [42].
Bệnh viện Y học cổ truyền tuyến Trung ương, bệnh viện Châm cứu Trung

ương, Viện Y dược dân tộc học Thành phố Hồ Chí Minh là bệnh viện đầu ngành
về y học cổ truyền, là tuyến cuối cùng trong bậc thang chuyên môn điều trị, tiếp
nhận người bệnh từ tuyến dưới chuyển lên [43], với chức năng nhiệm vụ:
-

-

Kế thừa, nghiên cứu ứng dụng những bài thuốc, những phương pháp chữa
bệnh bằng YHCT.
Nghiên cứu, đánh giá các phương pháp chữa bệnh bằng YHCT, kết hợp
YHCT với YHHĐ và triển khai các phương pháp này cho các cơ sở khám
chữa bệnh bằng YHCT trong cả nước.
Nghiên cứu, ứng dụng các phương pháp chữa bệnh của các nước có nền
YHCT phát triển ứng dụng vào Việt Nam.
Nghiên cứu và xây dựng công tác hiện đại hóa YHCT, kết hợp YHCT với
YHHĐ. Tổ chức đào tạo và hợp tác quốc tế về YHCT.
Tổ chức chỉ đạo và chuyển giao các kỹ thuật về YDCT cho tuyến dưới.

*) Bệnh viện y dược cổ truyền tuyến tỉnh [44]:
Bệnh viện y dược cổ truyền tuyến tỉnh với chức năng là tuyến điều trị cao
nhất về chuyên ngành y dược cổ truyền tại tỉnh, tiếp nhận người bệnh từ tuyến
huyện chuyến đến do vượt khả năng chuyên môn của các bệnh viện tuyến huyện và
thực hiện nhiệm vụ:
-

Đáp ứng hầu hết các kỹ thuật chuyên môn thuộc chuyên ngành, thực hiện
các kỹ thuật chuyên môn chuyên sâu
Kết hợp y dược cổ truyền với y dược hiện đại.
Bệnh viện YDCT là đơn vị chuyên môn cao nhất; là cơ sở thực hành phục
vụ công tác đào tạo của các trường y, dược;

Nhiệm vụ chỉ đạo tuyến dưới về chuyên ngành y dược cổ truyền trong tỉnh.

15


-

1.3.
1.3.1.

Nghiên cứu kế thừa, phát huy phát triển, bảo tồn những kinh nghiệm chữa
bệnh bằng y dược cổ truyền cũng như phát triển các phương pháp chữa bệnh
kết hợp y dược cổ truyền với y dược hiện đại.
Khái niệm về nguồn nhân lực y tế
Khái niệm
Có khá nhiều những định nghĩa khác nhau về “nguồn nhân lực”.

Nguồn nhân lực là nguồn lực con người của những tổ chức (với quy mô, loại
hình, chức năng khác nhau) có khả năng và tiềm năng tham gia vào quá trình phát
triển của tổ chức cùng với sự phát triển kinh tế xã hội của quốc gia, khu vực, thế
giới. Cách hiểu này về nguồn nhân lực xuất phát từ quan niệm coi nguồn nhân lực
là nguồn lực với các yếu tố vật chất, tinh thần tạo nên năng lực, sức mạnh phục vụ
cho sự phát triển nói chung của các tổ chức [45], [46].
Nguồn nhân lực là tổng thể các yếu tố bên trong và bên ngoài của mỗi cá
nhân bảo đảm nguồn sáng tạo cùng các nội dung khác cho sự thành công, đạt được
mục tiêu của tổ chức [45], [47].
Năm 2006, WHO đã đưa ra định nghĩa: “Nhân lực y tế bao gồm tất cả
những người tham gia chủ yếu vào các hoạt động nhằm nâng cao sức khoẻ”. Theo
đó, nhân lực y tế bao gồm những người cung cấp dịch vụ y tế, người làm công tác
quản lý và cả nhân viên giúp việc mà không trực tiếp cung cấp các dịch vụ y tế. Nó

bao gồm CBYT chính thức và cán bộ không chính thức (như tình nguyện viên xã
hội, những người CSSK gia đình, lang y...); kể cả những người làm việc trong
ngành y tế và trong những ngành khác (như quân đội, trường học hay các doanh
nghiệp) [48].
Theo định nghĩa nhân lực y tế của WHO, ở Việt Nam các nhóm đối tượng
được coi là “Nhân lực y tế” sẽ bao gồm các cán bộ, nhân viên y tế thuộc biên chế
và hợp đồng đang làm trong hệ thống y tế công lập (bao gồm cả quân y), các cơ sở
đào tạo và nghiên cứu khoa học y/dược và tất cả những người khác đang tham gia
vào các hoạt động quản lý và cung ứng dịch vụ CSSK nhân dân (nhân lực y tế tư
nhân, các cộng tác viên y tế, lang y và bà đỡ/mụ vườn) [48]. Có hai khái niệm
thường được sử dụng khi bàn luận về nguồn nhân lực y tế:
- Khái niệm Phát triển nguồn nhân lực liên quan đến cơ chế nhằm phát triển kỹ
năng, kiến thức và năng lực chuyên môn của cá nhân và về mặt tổ chức công việc.
16


- Khái niệm quản lý nguồn nhân lực: Theo WPRO (Tổ chức Y tế Thế giới Tây
Thái Bình Dương), “Quản lý nguồn nhân lực là một quá trình tạo ra môi trường tổ
chức thuận lợi và đảm bảo rằng nhân lực hoàn thành tốt công việc của mình bằng
việc sử dụng các chiến lược nhằm xác định và đạt được sự tối ưu về số lượng, cơ
cấu và sự phân bố nguồn nhân lực với chi phí hiệu quả nhất. Mục đích chung là để
có số nhân lực cần thiết, làm việc tại từng vị trí phù hợp, đúng thời điểm, thực hiện
đúng công việc, và được hỗ trợ chuyên môn phù hợp với mức chi phí hợp lý” [17].
1.3.2.

Mối liên quan giữa nguồn nhân lực và các thành phần khác của hệ thống
y tế

Theo WHO, hệ thống y tế có 6 thành phần cơ bản [49]:
- Nguồn nhân lực y tế được coi là một trong những thành phần cơ bản và quan

trọng nhất của hệ thống. Nguồn nhân lực có mối liên hệ rất chặt chẽ và không thể
thiếu đối với các thành phần khác của hệ thống y tế.
- Phát triển nguồn nhân lực không chỉ thông qua đào tạo, mà còn phải sử dụng,
quản lý một cách phù hợp để cung cấp hiệu quả các dịch vụ y tế đến người dân.
- Cần có một mô hình tổ chức và chức năng của các thành phần của hệ thống cung
ứng dịch vụ để biết được nhu cầu về quy mô và cơ cấu nhân lực y tế như thế nào,
ngược lại, hệ thống cung ứng dịch vụ y tế phụ thuộc mật thiết vào mô hình tổ chức
và cơ cấu nhân lực y tế.
- Hệ thống thông tin y tế cũng phải cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết, tin cậy
cho việc lập kế hoạch và sử dụng nhân lực đáp ứng nhu cầu CSSK của nhân dân,
đồng thời giúp phát hiện những vấn đề của nguồn nhân lực như phân bổ không hợp
lý, năng lực không phù hợp để đáp ứng yêu cầu CSSK từ phía người dân và cộng
đồng, hoặc phát hiện và phân tích tần suất sai sót chuyên môn để khắc phục.
- Cấp tài chính cho nhân lực y tế cũng phải đảm bảo cho công tác đào tạo mới và
đào tạo liên tục CBYT, đủ để trả lương và chính sách khuyến khích ở mức đảm
bảo được cuộc sống cho CBYT, tạo ra động lực khuyến khích CBYT làm việc có
chất lượng và sẵn sàng làm việc ở các miền núi, vùng sâu, vùng xa, hoặc trong các
môi trường, chuyên ngành độc hại, nguy hiểm.
- Các sản phẩm y tế, vaccin, dược phẩm.
17


1.3.3.

Thực trạng nhân lực y tế và phát triển nguồn nhân lực y tế

Theo báo cáo của JAHR 2013, số lượng nhân lực y tế tiếp tục được cải thiện.
Số y sỹ, bác sỹ trên 1 vạn dân tiếp tục tăng lên và đạt 13,4 vào năm 2011, riêng số
bác sĩ trên 1 vạn dân tăng từ 7,33 năm 2011 lên 7,46 năm 2012. Số dược sĩ đại học
trên 1 vặn dân năm 2011 đạt 1,92; số lượng điều dưỡng trên 1 vạn dân cũng tăng

đạt 10,02 năm 2011 [50].
Số lượng nhân lực y tế các loại tăng qua các năm, bao gồm cả số lượng bác
sĩ, dược sĩ đại học và điều dưỡng. Năm 2013 đã đạt 7,5 bác sĩ/vạn dân và 2,01
dược sĩ đại học/vạn dân [51]. Đối chiếu với chỉ tiêu 8 bác sĩ/vạn dân và 1,8 dược sĩ
đại học/vạn dân trong Kế hoạch 5 năm 2011 – 2015 của ngành y tế thì chỉ tiêu về
dược sĩ đại học đã đạt được. Tỷ số bác sĩ trên vạn dân vẫn còn một khoảng cách
khá lớn so với chỉ tiêu đặt ra [52].
Nguồn bổ sung cho đội ngũ nhân lực y tế khá dồi dào.Số lượng cơ sở đào
tạo và quy mô đào tạo của các trường tiếp tục tăng, tuy không còn tăng nhiều như
trước đây. Số lượng sinh viên đại học ra trường tiếp tục tăng nhanh, năm 2014 có
trên 7000 bác sĩ ra trường, tăng hơn 1000 so với năm 2013. Ước tính trong 3 năm
tiếp theo con số này sẽ tiếp tục tăng với tốc độ như vậy. Số lượng dược sĩ đại học
tốt nghiệp tăng từ 1000 năm 2009 lên hơn 2000 năm 2012 và vào khoảng 3000
năm 2013. Nguồn nhân lực điều dưỡng bao gồm bậc đại học, cao đẳng, trung cấp
rất lớn. Với chỉ tiêu tuyển sinh trung cấp điều dưỡng từ khoảng trên 10.000 năm
2006 và tăng dần đến trên 20.000 vào 2014, chỉ tiêu tuyển sinh cao đẳng tăng
nhanh từ hơn 1000 năm 2006 lên gần 15.000 năm 2013, chỉ tiêu tuyển sinh điều
dưỡng đại học cũng tăng đều đặn từ hơn 1500 năm 2006 lên gần 5000 năm 2013,
nguồn cung của đối tượng này đang vượt quá nhiều so với nhu cầu của hệ thống y
tế. Tình trạng cung nhiều hơn cầu cũng xảy ra với y sĩ, dược trung cấp và tương lai
không xa là dược cao đẳng [53].
Bên cạnh các chính sách phát triển số lượng nhân lực y tế, ngành y tế cũng
triển khai các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng nhân lực y tế. Việc cấp chứng
chỉ hành nghề được áp dụng với tất cả những người khám chữa bệnh (bác sĩ, y sĩ,
điều dưỡng, hộ sinh, kỹ thuật viên y, lương y và người có bài thuốc gia truyền)
trong và ngoài công lập nhằm từng bước hội nhập với y tế các nước trên thế giới và
trong khu vực.
18



Phân bổ nhân lực y tế vẫn chưa đồng đều, nhân lực y tế có trình độ đại học
trở lên tập trung chủ yếu ở các thành phố và khu vực kinh tế phát triển. Năm 2010,
số lượng dược sĩ đại học ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh chiếm hơn 48% tổng
số dược sĩ của cả nước. Chủ yếu (92%) các dược sĩ này làm việc trong khu vực tư
nhân, chiếm hơn một nửa số dược sĩ thuộc khối tư nhân của cả nước [54].
Bộ Y tế tiếp tục triển khai các giải pháp cải thiện chất lượng nhân lực, tăng
cường năng lực cho tuyến thông qua một số đề án. Đề án 1816 tiếp tục được thực
hiện nhưng chuyển từ chỗ hỗ trợ nhân lực cho tuyến dưới sang đào tạo, chuyển
giao gói kỹ thuật. Đề án Bệnh viện vệ tinh giai đoạn 2013 – 2020 bắt đầu được
triển khai. Giai đoạn 1 từ 2013 đến 2015, 14 bệnh viện hạt nhân được giao nhiệm
vụ xây dựng và phát triển cho 45 bệnh viện vệ tinh ở 32 tỉnh [55]. Các hoạt động
chủ yếu của đề án là các bệnh viện hạt nhân đào tạo nhân lực y tế, chuyển giao kỹ
thuật, cung cấp trang thiết bị y tế, tư vấn khám chữa bệnh từ xa qua mạng internet
cho các bệnh viện vệ tinh. Đề án xây dựng và phát triển mô hình phòng khám bác
sĩ gia đình giai đoạn 2013 – 2020 được Bộ trưởng Bộ y tế phê duyệt tại quyết định
935/QĐ-BYT ngày 22/3/2013, với mục tiêu xây dựng và phát triển mô hình phòng
khám bác sĩ gia đình trong hệ thống y tế của cả nước nhằm cung cấp dịch vụ CSSK
cơ bản, toàn diện, liên tục cho cá nhân, gia đình và cộng đồng, góp phần giảm quá
tải bệnh viện. Trong cả nước, thành phố Hồ Chí Minh là địa phương đi đầu trong
triển khai mô hình phòng khám bác sĩ gia đình. Đến cuối năm 2013, thành phố có
khoảng 200 bác sĩ được đào tạo chuyên về y học gia đình. Mô hình này được đánh
giá là góp phần giảm tải bệnh viện tuyến trên và từng bước tăng cường chất lượng
y tế cơ sở [56]. Ngành y tế cũng có các chương trình, dự án và hoạt động hỗ trợ kỹ
thuật mà đa số tập trung ở tuyến tỉnh (chiếm hơn 50%), sau đó là tuyến huyện (36
– 38%) [57].
Nhà nước tiếp tục cải thiện chất lượng đào tạo tại các cơ sở đào tạo nhân lực
y tế:
Ngày 4/11/2013, Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương khóa XI đã
ban hành Nghị quyết 29NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
trong đó đưa ra quan điểm chỉ đạo về sự cần thiết phải đổi mới cả về sự lãnh đạo

của Đảng, quản lý của nhà nước, các hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục đào
tạo, và sự tham gia của xã hội, cộng đồng, bản thân người học, đổi mới ở tất cả các

19


bậc học, ngành học. Bộ y tế hiện đang xây dựng kế hoạch hành động để triển khai
Nghị quyết này.
Hệ thống văn bản pháp quy, hướng dẫn về đào tạo nhân lực y tế đang được
xây dựng, hoàn thiện nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo. Các thông tư
hướng dẫn đào tạo chuyên khoa I, chuyên khoa II, bác sĩ nội trú đang được xây
dựng mới để thay thế các Thông tư hiện tại không còn phù hợp. Hiện nay các bản
thảo đang được lấy ý kiến các đơn vị liên quan như cơ sở đào tạo, cơ sở sử dụng
nhân lực y tế. Để giải quyết tình trạng chất lượng đào tạo thấp ở các khóa đào tạo
liên thông khối ngành khoa học sức khỏe, đặc biệt là đào tạo bác sĩ liên thông, Bộ
y tế triển khai xây dựng Thông tư hướng dẫn đào tạo liên thông trình độ cao đẳng,
đại học khối ngành khoa học sức khỏe. Thông tư này sẽ thay thế Thông tư
06/2008/TT-BYT trước đây về hướng dẫn tuyển sinh liên thông trình độ cao đẳng,
đại học y dược và công văn số 1915/BYT-K2ĐT ngày 8/4/2013. Đồng thời, Bộ y
tế cũng đã có một số văn bản gửi Bộ Giáo dục và Đào tạo đề nghị kiểm soát chỉ
tiêu tuyển sinh một số ngành đang đào tạo quá nhiều, kiểm soát việc đào tạo liên
thông, đào tạo theo địa chỉ, quy định chặt chẽ về mở mã ngành đào tạo mới. Bộ Y
tế cũng bắt đầu tổ chức triển khai xây dựng văn bản quy phạm luật về kết hợp viện
– trường trong đào tạo thực hành để thay thế Thông tư 09/2008/TT-BYT ngày
1/8/2008 về hướng dẫn việc kết hợp giữa các cơ sở đào tạo cán bộ y tế với các
bệnh viện thực hành trong công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học và CSSK nhân
dân đã không còn phù hợp trong tình hình các bệnh viện thực hiện cơ chế tự chủ tài
chính và sinh viên có rất ít cơ hội được thực hành [56].
1.3.4.


Thực trạng nguồn nhân lực y dược cổ truyền Việt Nam

Trước yêu cầu phát triển mới của đất nước và hoà nhập với cộng đồng thế
giới đòi hỏi YHCT phải không ngừng được đổi mới về tổ chức, nâng cao năng lực
trình độ chuyên môn kỹ thuật, cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại và một nguồn nhân
lực đủ về số lượng và mạnh về chất lượng đáp ứng được yêu cầu phát triển ngày
càng cao của phòng bệnh, chữa bệnh, nghiên cứu khoa học và sản xuất thuốc Đông
Dược phù hợp với sự phát triển của thế giới và của thời đại.
Thập kỷ 90, YHCT đã có một đội ngũ cán bộ gồm: 9 Giáo sư, 13 Phó giáo
sư, 20 Tiến sỹ, 48 Bác sỹ chuyên khoa II, 331 Bác sỹ chuyên khoa I, 1384 Bác sỹ
YHCT, 1687 Y sỹ YHCT, có 2 Trường Trung học, 9 Bộ môn YHCT ở các Trường
20


đại học Y và một số Bộ môn YHCT trong các trường Cao đẳng hoặc trung học Y
tế [58]. Ngoài ra còn có khoảng 27.800 hội viện Hội Châm cứu [59], 50.700 hội
viện Hội Đông y [33].
Tính đến cuối năm học 2005-2006, riêng khoa YHCT trường Đại học Y Hà
Nội đã đào tạo được: 11.400 Bác sỹ đa khoa và chuyên khoa YHCT; 23 Bác sỹ nội
trú đã tốt nghiệp; 95 BS CK 2.825 BS CK1 và cao học; 33 Nghiên cứu sinh đã bảo
vệ thành công luận án Tiến sỹ y học; Ngoài ra đã bổ túc cho trên 10.000 BS về
thuốc nam và châm cứu [58]. Năm 2010 cả nước có 362 sinh viên đại học tốt
nghiệp bác sỹ y học cổ truyền, trong đó ở Học viện YDHCT Việt Nam có 185
người tốt nghiệp, Đại học y khoa Thái Bình có 36 người tốt nghiệp, Đại học Y
dược Hồ Chí Minh có 112 người tốt nghiệp, Đại học Y khoa Hà Nội có 29 người
tốt nghiệp [60].
Tuy nhiên cho đến nay theo báo cáo Chính sách Quốc gia về YDCT mới có
01 Sở Y tế có phòng quản lý YDCT, 66,7% Sở Y tế có chuyên viên chuyên trách
YDCT, 31,7% Sở Y tế chỉ có chuyên viên bán chuyên trách về YDCT, một số
bệnh viện YDCT tỉnh, thành phố số giường bệnh còn thấp như: Ninh Bình, Long

An, Đồng Nai, Lào Cai, Hoà Bình, Quảng Bình...Đội ngũ chuyên sâu YHCT còn
rất mỏng, nhiều nơi chưa có cán bộ chuyên môn về YHCT, trang thiết bị phục vụ
cho công tác khám chữa bệnh bằng YHCT còn nghèo nàn, nhiều tỉnh số cán bộ
YHCT có trình độ đại học chỉ đếm trên đầu ngón tay như Quảng Trị, Quảng Bình,
Đắc Nông, Kon Tum... Số cán bộ có trình độ cao đa số tập trung tại các Viện, Bệnh
viện TW đầu ngành để có điều kiện vừa tham gia điều trị, nghiên cứu khoa học và
đào tạo. Từ thực trạng nguồn nhân lực YDCT ở tất cả các tuyến còn thiếu rất nhiều
do đó tỷ lệ bệnh nhân được khám chữa bệnh bằng YHCT ở các tuyến đều còn thấp
so với chỉ tiêu mà Chính sách Quốc gia về YDCT đã đề ra. Cụ thể là: theo số liệu
báo của các Sở Y tế tỷ lệ bệnh nhân khám và điều trị bằng YHCT tại tuyến tỉnh (so
với số lần khám và điều trị chung), số lần khám bằng YHCT đạt 8,8%, chỉ tiêu mà
Chính sách quốc gia là 20%. Tỷ lệ khám và điều trị bằng YHCT ở tuyến huyện (so
với số lần khám và điều trị chung của tuyến), số lần khám bằng YHCT đạt 9,1%,
chỉ tiêu chính sách quốc gia về YDCT là 25%. Tỷ lệ khám chữa bệnh bằng YHCT
tại tuyến xã phường là 24,6 %. Tỷ lệ này trong chính sách quốc gia về YDCT là
40% [36], [61], [62], [63].
1.4.

Đào tạo liên tục
21


1.4.1.

Quan niệm về đào tạo liên tục

Hiện nay, Bộ y tế ban hành Thông tư 22/2013/TT-BYT ngày 09/08/2013 của
Bộ trưởng Bộ y tế về hướng dẫn công tác đào tạo liên tục đối với cán bộ y tế, trong
đó nêu rõ: Đào tạo liên tục là các khóa đào tạo ngắn hạn, bao gồm: đào tạo bồi
dưỡng để cập nhật kiến thức, kỹ năng, thái độ thuộc lĩnh vực chuyên môn đang

đảm nhận; đào tạo lại, đào tạo theo nhiệm vụ chỉ đạo tuyến, đào tạo chuyển giao kỹ
thuật và các khóa đào tạo chuyên môn nghiệp vụ khác của ngành y tế mà không
thuộc hệ thống văn bằng giáo dục quốc dân [64].
Các hình thức đào tạo liên tục và nguyên tắc quy đổi
Tập huấn, đào tạo, chuyển giao kỹ thuật, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ ngắn
hạn trong và ngoài nước theo hình thức tập trung hoặc trực tuyến (E-learning)
được cấp chứng chỉ, chứng nhận, xác nhận: thời gian tham gia đào tạo liên tục
được tính theo thực tế chương trình đào tạo.
Hội thảo, hội nghị, tọa đàm khoa học trong và ngoài nước về lĩnh vực chuyên môn
y tế có xác nhận của đơn vị chủ trì tổ chức căn cứ vào chương trình của hội thảo,
hội nghị, tọa đàm: thời gian tham gia đào tạo được tính cho người chủ trì hoặc có
bài trình bày tối đa 8 tiết học và người tham dự tối đa 4 tiết học cho mỗi hội
thảo/hội nghị/tọa đàm.
Thực hiện nghiên cứu khoa học; hướng dẫn luận án, luận văn; viết bài báo khoa
học đã được công bố theo qui định: được tính tối đa 12 tiết học cho người hướng
dẫn luận án, chủ trì/thư ký đề tài cấp Nhà nước hoặc cấp Bộ; 8 tiết học cho hướng
dẫn luận văn hoặc chủ trì/thư ký đề tài cấp cơ sở (tính tại thời điểm luận văn được
bảo vệ thành công hoặc đề tài được nghiệm thu đạt).
Biên soạn giáo trình chuyên môn được tính tối đa không quá 8 tiết đối với 1 tài
liệu do người đứng đầu đơn vị xem xét (tính vào thời điểm xuất bản); cán bộ y tế
không phải là giảng viên của cơ sở giáo dục tham gia giảng dạy liên quan đến
chuyên môn nghiệp vụ được tính theo thời gian thực tế.
Hình thức đào tạo liên tục qui định tại Khoản 1 Điều này phải có chương trình và
tài liệu đào tạo được cấp có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt.
1.4.2.
-

-

-


-

-

Các bác sĩ tìm thấy hoạt động đào tạo liên tục bằng nhiều cách khác nhau:
bài giảng, hội thảo, các lớp học, cuộc họp, video, internet. Các bác sĩ cũng có thể
tham gia đào tạo liên tục dựa trên đọc tạp chí khoa học (như JAMA) hoặc sách
[65].
22


Thời gian đào tạo liên tục
Cán bộ y tế đã được cấp chứng chỉ hành nghề và đang hành nghề khám bệnh, chữa
bệnh có nghĩa vụ tham gia đào tạo liên tục tối thiểu 48 tiết học trong 2 năm liên
tiếp.
Cán bộ y tế không thuộc trường hợp qui định tại Khoản 1 Điều này có nghĩa vụ
tham gia đào tạo liên tục tối thiểu 120 tiết học trong 5 năm liên tiếp, trong đó mỗi
năm tối thiểu 12 tiết học.
Cán bộ y tế tham gia các hình thức đào tạo liên tục khác nhau được cộng dồn để
tính thời gian đào tạo liên tục.
1.4.4. Tiêu chuẩn về đảm bảo chất lượng đào tạo y khoa liên tục
1.4.3.

-

-

-


Nâng cao sức khỏe cho mọi người là mục tiêu cơ bản của giáo dục y học.
Năm 1998, Liên đoàn giáo dục y học thế giới (WFME) với sự phối hợp của WHO
đã khởi xướng xây dựng các tiêu chuẩn quốc tế trong giáo dục y học. Bộ tiêu
chuẩn quốc tế của WHO và WFME gồm có ba tập:
-

Giáo dục y học cơ bản
Giáo dục y học sau đại học
Đào tạo liên tục/phát triển nghề nghiệp liên tục

Tiêu chuẩn quốc tế về đào tạo liên tục (CME/CPD) gồm 9 tiêu chuẩn với 36
tiêu chí:
Tiêu chuẩn 1. Nhiệm vụ và kết quả đầu ra, có 4 tiêu chí
Tiêu chuẩn 2. Các phương pháp học tập, có 6 tiêu chí
Tiêu chuẩn 3. Lập kế hoạch và dẫn chứng bằng tư liệu, có 2 tiêu chí
Tiêu chuẩn 4. Cá nhân người bác sĩ, có 4 tiêu chí
Tiêu chuẩn 5. Những người cung cấp CME/CPD, có 4 tiêu chí
Tiêu chuẩn 6. Ngữ cảnh học tập và nguồn lực, có 7 tiêu chí
Tiêu chuẩn 7. Đánh giá các phương pháp và năng lực, có 4 tiêu chí
Tiêu chuẩn 8. Tổ chức, có 4 tiêu chí
Tiêu chuẩn 9. Đổi mới liên tục, có 1 tiêu chí [66].
1.4.5.

Hệ thống tổ chức cơ sở đào tạo liên tục cán bộ y tế
23


Sơ đồ hệ thống tổ chức cơ sở đào tạo liên tục cán bộ y tế [66].
BỘ Y TẾ (KHCN&ĐT)


SỞ Y TẾ (MÃ C) Y TẾ CÁC BỘ, NGÀNH
ÁC TRƯỜNG ĐH, CAO ĐẲNG, TRUNG CẤPBỆNH
Y TẾ VIỆN,
(MÃ A)
VIỆN NC TW (MÃ B)

Các bệnh viện đk, chuyên khoaTTtuyến
Y tế dự
tỉnhphòng
TT tỉnh
kiểm nghiệm Dược
phẩm
Chi cục
Dân số và KHHGĐĐơn
tỉnh vị Y tế khác, …

1.5.
Đào tạo trong bệnh viện
1.5.1. Các loại hình đào tạo trong bệnh viện
- Hướng dẫn thực hành cho học sinh, sinh viên

các trường nghề, trung cấp, cao

đẳng, đại học.
- Hướng dẫn thực hành sau tốt nghiệp và xác nhận quá trình thực hành.
- Đào tạo liên tục/ đào tạo phát triển nghề nghiệp/ cập nhật kiến thức y khoa liên
tục.
1.5.2. Các văn bản hiện hành liên quan đến đào tạo trong bệnh viện
- Đề án các bệnh viện vệ tinh.
- Thông tư 22/2013/TT-BYT ngày 9/8/2013 về Hướng dẫn việc đào tạo liên tục

cho cán bộ y tế.
- Công văn số 2034/BYT-5K2ĐT năm 2014 tăng cường chất lượng công tác đào
tạo liên tục cán bộ y tế do Bộ y tế ban hành.
24


Xây dựng kế hoạch đào tạo liên tục

1.6.

Công tác đào tạo liên tục tuy đã triển khai trong ngành khá lâu, tuy nhiên
khó khăn chủ yếu nhất là cách tổ chức đào tạo và đặc biệt là vấn đề kinh phí cho
đào tạo liên tục , do vậy Thông tư số 22/2013/TT-BYT cũng đã chỉ ra để có thể
triển khai tốt công tác này thì cần phải xây dựng kế hoạch. Trên cơ sở đó mới có
nguồn lực bao gồm nhân lực, vật lực và tài lực cho công tác đào tạo liên tục.
*Quy trình xây dựng kế hoạch đào tạo liên tục
a)

Kế hoạch đào tạo liên tục 5 năm đối với bệnh viện trực thuộc Sở Y tế

Đào tạo liên tục thường là thời gian ngắn (dưới 1 năm) nên kế hoạch đào tạo
liên tục của các bệnh viện có nhiệm vụ chỉ đạo tuyến thường là kế hoạch 5 năm và
cần trình Sở Y tế phê duyệt, vì vậy quy trình xây dựng và phê duyệt đòi hỏi có đủ
thời để xem xét và báo cáo các cơ quan có thẩm quyền Nhà nước đưa vào kế hoạch
kinh phí cho năm sau. Sau đó Sở y tế sẽ tập hợp báo cáo tỉnh để đưa vào kế hoạch
chung của tỉnh/thành phố.
b)

Kế hoạch đào tạo liên tục hàng năm


Kế hoạch đào tạo liên tục hàng năm của bệnh viện được xây dựng dựa trên kế
hoạch 5 năm đã được phê duyệt. Kế hoạch đào tạo liên tục của bệnh viện là bộ
phận của kế hoạch chung hàng năm. Kế hoạch chung của bệnh viện trình cấp thẩm
quyền phê duyệt cần có dòng kinh phí dành cho đào tạo liên tục.
Quy trình cũng tương tự như xây dựng kế hoạch 5 năm, đầu mối xây dựng
kế hoạch đào tạo là đơn vị phụ trách đào tạo liên tục, phòng kế hoạch tổng hợp sẽ
tổng hợp trong kế hoạch chung.
1.7.
1.7.1.

Quản lý chương trình và tài liệu đào tạo liên tục
Chương trình đào tạo liên tục

Xây dựng chương trình đào tạo là công đoạn quan trọng nhất của quy trình
dạy học. Chương trình đào tạo tốt thì sản phẩm đào tạo sẽ tốt và ngược lại. Một
chương trình đào tạo tốt sẽ giúp người học tiếp nhận được các nội dung cần thiết
nhất phục vụ cho nghề nghiệp của họ. Chương trình không tốt sẽ làm lãng phí thời
gian của người học và lãng phí các nguồn lực phục vụ cho công tác đào tạo.

25


×