Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tác động của phát triển thủy điện trên dòng chính sông Mê Kông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (469.85 KB, 27 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Mê Kông là một trong những con sông lớn nhất thế giới với tổng
chiều dài khoảng 4800 km, bắt nguồn từ Trung Quốc, chảy qua
Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và đổ ra biển Đông của Việt Nam.
Đối với vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) của Việt Nam, sông
Mê Kông là nguồn sống chính, cung cấp nước, phù sa, dưỡng chất cho
sản xuất nông nghiệp, nguồn lợi thủy sản cho hơn 17 triệu cư dân vùng
châu thổ và đảm bảo cân bằng sinh thái cho các vùng đất ngập nước
quan trọng trong khu vực.
Do sức ép phát triển kinh tế, các quốc gia trong lưu vực đang cố
gắng khai thác triệt để tiềm năng phát triển thủy điện từ sông Mê Kông.
Tại thượng lưu thuộc lãnh thổ Trung Quốc, có 8 đập thủy điện đã và
đang dự kiến sẽ được xây dựng. Tại hạ lưu, Lào và Campuchia đã có kế
hoạch xây dựng 12 đập thủy điện trên dòng chính sông Mê Kông. Các
dự án thủy điện được dự báo là sẽ tác động sâu sắc đến đời sống người
dân, môi trường, an ninh lương thực, sự ổn định của khu vực.
Là quốc gia cuối nguồn của dòng sông này, Việt Nam có thể sẽ
phải đối mặt với thách thức to lớn về nguồn nước, sinh kế, an ninh
lương thực, môi trường và xã hội ở vùng ĐBSCL do tác động tích luỹ,
xuyên biên giới của việc xây dựng và vận hành các công trình thuỷ điện
trên dòng chính. Nguy cơ này sẽ lớn hơn khi bị cộng hưởng bởi tác
động của biến đổi khí hậu do mực nước biển dâng.
Chuyên đề “Tác động của phát triển thủy điện trên dòng chính
sông Mê Kông” nghiên cứu cung cấp thông tin đánh giá bước đầu về
tác động của phát triển thuỷ điện trên dòng chính sông Mê Kông.


2


I. SÔNG MÊ KÔNG
1. Đặc điểm tự nhiên
Sông Mê Kông bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng trên độ cao
5.000 mét. Chiều dài dòng sông là 4800km, lưu vực sông có tổng diện
tích là 795.000 km2 chảy qua 6 quốc gia gồm Trung Quốc, Myanma,
Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam. Sông Mê Công đứng thứ 12
trên thế giới về chiều dài, và thứ 8 về tổng lượng dòng chảy(1). Mê Kông
là một trong những con sông lớn chưa bị ngăn đập trên phần lớn dòng
chảy và là con sông duy nhất vẫn chảy tự do qua 5 nước trong tổng số 6
nước ven sông(2).
Thượng lưu sông Mê

Quốc gia

Kông là phần nằm trên lãnh
thổ Trung Quốc và Myanma,
có diện tích là 189.000km2
(chiếm 24%). Hạ lưu nằm trên
địa phận 4 nước: Lào, Thái
Lan, Campuchia và Việt Nam,
có diện tích là 606.000km2
(chiếm 76%). Sông Mê Kông

Trung Quốc
Myanma
Lào
Thái Lan
Campuchia
Việt Nam
Tổng


Diện
tích lưu
vực
(km2)
165.000
24.000
202.000
184.000
155.000
65.000
795.000

Tỷ lệ so
với toàn
lưu vực
(%)
21
3
25
23
20
8
100

Đóng góp
dòng chảy
(%)
16
2

35
18
18
11
100

Lưu vực sông Mê Công (Nguồn: Ủy hội sông
Mê Công)

có vai trò quan trọng đối với cuộc sống của nhân dân các nước ven
sông, đặc biệt là các nguồn lợi về nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản,
thủy điện và giao thông thủy.
Nguồn tài nguyên quan trọng và dồi dào nhất của lưu vực Mê
Kông là nước và đa dạng sinh học (chỉ xếp sau lưu vực Amazon ở Nam
Mỹ). Dòng chảy dồi dào nuôi dưỡng vùng đất ngập nước và rừng rộng
1

Giới thiệu Lưu vực sông Mê Công, Ủy ban sông Mê Công Việt Nam,
/>2
Tóm tắt báo cáo Đánh giá Môi trường chiến lược về thủy điện dòng chính sông Mê Kông.
Trang 6. Trung tâm quốc tế về quản lý môi trường. Tháng 10/2010.


3

lớn, vận chuyển và cung cấp vật liệu xây dựng, thuốc và lượng thực và
là môi trường sinh sống cho hàng ngàn loài động thực vật. Nguồn thuỷ
sản của lưu vực Mê Kông rất dồi dào với tổng sản lượng cá đánh bắt
hàng năm lên tới 1,45 tỷ đô la Mỹ.
Vùng hạ lưu vực sông Mê Kông thuộc 4 nước Campuchia, Lào,

Thái Lan và Việt Nam nơi sinh sống của trên 65 triệu người, với trên 100
dân tộc khác nhau làm thành một trong những vùng văn hoá đa dạng
nhất trên thế giới. Đa số dân cư trong lưu vực là nông dân và ngư dân
và đều sống ở mức nghèo. Khoảng 1/3 dân số có thu nhập ít hơn vài đô
là một ngày.
2. Vai trò và tiềm năng của sông Mê Kông
Ngành nông nghiệp lúa nước ở lưu vực cung cấp một lượng lúa
đủ nuôi sống 300 triệu người trong một năm. Khoảng 85% dân số trong
lưu vực làm nông nghiệp và ngư nghiệp. Sông Mê Kông là một trong
những vùng có sản lượng cá nước ngọt lớn nhất trên thế giới. Có trên
1.300 loài cá sinh sống và chế độ dòng chảy dao động theo mùa đã
cung cấp môi trường và thức ăn cho các loài động vật thuỷ sinh của lưu
vực. Ngành thuỷ sản không chỉ mang lại việc làm và thu nhập cho ngư
dân mà còn là còn mang lại việc làm cho hàng ngàn người khác làm các
nghề liên quan đến thuỷ sản.
Tiềm năng thủy điện của sông Mê Kông rất lớn, có thể lên tới
176.350 – 250.000 MW(3). Phần lớn tiềm năng này tập trung ở thượng
lưu do có độ dốc cao. Bên cạnh đó, sông Mê Kông còn còn có vai trò
quan trọng đối với thương mại, giao thông đường thủy và du lịch. Kim
ngạch thương mại của 6 nước trong lưu vực tăng nhanh, năm 2001,
tổng kim ngạch trao đổi thương mại thông qua giao thông thuỷ trên hạ
lưu sông Mê Kông ước tính đạt 4,7 tỷ đô la Mỹ. Trong lưu vực sông Mê
3

Thủy điện sông Mê Kông: Ai được, ai mất. Trung tâm Con người và Thiên nhiên.


4

Kông, sông suối là đường vận chuyển chính. Gần như toàn bộ dòng

chính Mê Kông đều có thể đi lại bằng tàu thuyền. Cùng với sự gia tăng
các hoạt động thương mại, hệ thống giao thông được cải thiện, ngành
du lịch trong lưu vực bắt đầu phát triển. Các cảnh đẹp thiên nhiên, sự
thần bí và đa dạng về văn hoá của lưu vực đang thu hút du khách đến
lưu vực.
Với vai trò quan trọng và tiềm năng dồi dào, sông Mê Kông được
đánh giá là tài sản vô giá về kinh tế, văn hóa, xã hội của các các quốc
gia ven sông. Người dân ở 4 nước hạ lưu đang được hưởng lợi một
cách công bằng từ chính nguồn tài nguyên do dòng sông mang lại khi hệ
sinh thái của dòng chính vẫn giữ từ hàng ngàn đời nay.
3. Lưu vực sông Mê Công trên lãnh thổ Việt Nam
Diện tích lưu vực Mê Kông tại Việt Nam khoảng 65,000 km2,
chiếm hơn 8% diện tích lưu vực và 20% diện tích Việt Nam. Trong đó,
diện tích lưu vực tại Tây Nguyên là 25,500 km2 và tại Đồng bằng sông
Cửu Long là 39,500 km2. Lưu vực Mê Kông tại Việt Nam vừa có vai trò
là thượng lưu (Tây Nguyên là thượng lưu của Campuchia) và là vùng
cuối cùng của lưu vực Mê Kông (Đồng bằng sông Cửu Long). Việt Nam
đóng góp 11-12% lượng nước vào dòng chảy (nước nội địa và nước
mưa), còn lại khoảng 88-89% lượng nước là từ nước ngoài chảy vào.
Với vai trò là thương lưu, sông Sê San và Srêpôk là 2 sông nhánh
chính phía bờ trái của sông Mê Kông bắt nguồn từ vùng Tây Nguyên
của nước ta. Tổng diện tích lưu vực thuộc lãnh thổ Việt Nam là 30,840
km2 nằm trên lãnh thổ 4 tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đắk lắk, Lâm Đồng.
Phía hạ lưu, sông Mê Kông chia thành 2 nhánh là sông Tiền và sông
Hậu chảy ra Biển Đông. Dưới tác động của chế độ khí hậu, chế độ dòng
chảy sông Mê Kông chia thành 2 mùa rõ rệt là mùa lũ từ tháng 6 đến
tháng 12 với lượng dòng chảy chiếm 90% tổng lượng dòng chảy năm và


5


mùa khô từ tháng 1 đến tháng 5. Tháng 3 và 4 là hai tháng có dòng chảy
cạn nhất.
Đồng bằng sông Cửu Long bao gồm 12 tỉnh Long An, Tiền Giang,
Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bến Tre, An
Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau và thành phố Cần Thơ với tổng
diện tích tự nhiên khoảng 3,92 triệu ha, bằng 79 % diện tích đồng bằng
châu thổ Mê Kông. Đồng bằng sông Cửu Long đóng một vai trò rất quan
trọng đối với nền kinh tế của cả nước, chiếm hơn 55% sản lượng lúa và
90% lượng gạo xuất khẩu. ĐBSCL với hơn 700 km bờ biển, chiếm 70%
diện tích nuôi thủy sản và đóng góp 52% sản lượng thủy sản của cả
nước.
Số liệu thống kê cho

Đồng Nai 4%

Ba 1%

Thu Bồn 2%

thấy, Việt Nam là nước sử

Cả 3%

dụng nước nhiều nhất trong

Mã Chu 3%

các nước tại hạ lưu vực Mê


Hồng 15%

Kông, với tổng lượng sử dụng

Mê Kông
61%

Thái Bình 1%

nước năm chiếm 55.8 % tổng
Kỳ Cùng 1%

lượng sử dụng của hạ lưu vực

Sông khác
10%

Mê Công (72 % trong mùa khô
và 28.9 % mùa mưa)(4). Trên
toàn lãnh thổ, Việt Nam có

Tỷ lệ %
dòng chảy các lưu vực sông
đến Việt Nam

nguồn tài nguyên nước vào lại trung bình trên thế giới. Lượng nước nội
địa trên mỗi người người dân đạt 4.400m3/năm. Lượng nước của sông
Mê Kông chiếm 61% tổng lượng nước sông toàn quốc(5).
Mối quan tâm của Việt Nam tại Đồng bằng sông Cửu Long là số
lượng và chất lượng nước, lượng phù sa và thủy sản của sông Mê

4

Ủy ban sông Mê Kông Việt Nam, Giới thiệu Lưu vực sông Mê Kông trên lãnh thổ Việt Nam.
/>5
TS.Lê Anh Tuấn, Nguồn nước sông Mê Kông và vấn đề an ninh lương thực ở đồng bằng
Sông Cửu Long: Rủi ro và thách thức.


6

Kông. Đây là những yếu tố quan trọng cho công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp nông thôn. Ở lưu vực Mê Kông tại Tây Nguyên, cụ thể
là tại lưu vực sông Sê San và Srêpôk, Việt Nam đã xây dựng và đưa vào
hoạt động các nhà máy thủy điện và có kế hoạch tiếp tục phát triển công
trình thủy điện.
4. Hợp tác phát triển trên sông Mê Kông
Trong các thời kỳ khác nhau, và vì các mục đích khác nhau, đã có
nhiều tổ chức, chương trình, sáng kiến hợp tác khu vực do các quốc gia
có liên quan hình thành thông qua các hiệp định đa phương. Ở cấp độ
song phương, các quốc gia trong lưu vực sông Mê Kông cũng ký các
thỏa thuận, hiệp định về hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật. Vai
trò nổi bật trong hợp tác phát triển trên sông Mê Kông là sự hiện diện
của Ủy hội sông Mê Kông quốc tế.
Năm 1957, dưới sự bảo trợ của Tổ chức Kinh tế Xã hội Châu Á và
Thái Bình Dương – ESCAP của Liên Hiệp quốc, 4 nước hạ lưu vực sông
Mê Kông là Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam (Cộng hòa Miền
Nam Việt Nam) đã thông qua Tuyên ngôn thành lập Uỷ ban Điều phối
hạ lưu vực sông Mê Kông với nhiệm vụ chính của Uỷ ban là “khuyến
khích, phối hợp, kiểm tra, giám sát việc lập quy hoạch và nghiên cứu các
dự án khai thác tài nguyên nước hạ lưu vực sông Mê Kông”. Trong qua

trình tồn tại và phát triển của mình, Uỷ ban sông Mê Kông đã đạt được
nhiều thành tựu trong công tác điều tra, khảo sát, lập quy hoạch tổng thể
khai thác hạ lưu vực sông Mê Công. Đồng thời, Ủy ban đã thông qua
Tuyên bố chung về các Nguyên tắc sử dụng nước hạ lưu vực sông Mê
Công năm 1975 với nhiều nguyên tắc và quy định tiến bộ. Ủy ban sông
Mê Kông hoạt động theo nguyên tắc đồng thuận trong mọi quyết định.
Năm 1975, Uỷ ban sông Mê Công tạm ngừng hoạt động nhưng
vẫn tồn tại một Ban thư ký. Ngày 5/1/1978 tại Viêng Chăn (Lào), ba


7

nước Lào, Thái Lan và Việt Nam đã ra Tuyên bố về việc thành lập Uỷ
ban Lâm thời Mê Kông (Campuchia không tham gia do vẫn còn nằm
dưới quyền kiểm soát của Khơmer đỏ). Trong Tuyên bố 1978, ba nước
đã thoả thuận chức năng, nhiệm vụ mới của Uỷ ban Lâm thời Mê Công
là: “khuyến khích khai thác nguồn nước để phát triển nông nghiệp thuỷ
điện đáp ứng yêu cầu tái thiết và phát triển kinh tế của các nước Đông
Dương và yêu cầu phát triển kinh tế của Thái Lan”. Ủy ban lâm thời ban
hành bản quy hoạch rà soát, theo đó quy mô bậc thang các công trình
trên dòng chính đã thay đổi rất nhiều nhằm đảm bảo yêu cầu phát triển
bền vững và bảo vệ môi trường.
Năm 1995, khi Campuchia gia nhập trở lại, 4 nước thành viên đã
đàm phán và ký kết Hiệp định Hợp tác Phát triển bền vững lưu vực sông
Mê Công và lập Uỷ hội sông Mê Công quốc tế (MRC). Hợp tác Mê
Kông sau hiệp định này đã bước sang một giai đoạn mới. Nhiều văn bản
pháp lý quốc tế quan trọng đã được ký kết, bao gồm: Thủ tục trao đổi và
chia sẻ thông tin và dữ liệu (PDIES) năm 2001; Thủ tục về theo dõi sử
dụng nước (PWUM) năm 2003; Thủ tục thông báo, trao đổi trước và
thỏa thuận (PNPCA) năm 2003; Thủ tục duy trì dòng chảy trên dòng

chính năm 2006 và đang chuẩn bị ký Thủ tục về chất lượng nước. Các
nguyên tắc lớn trong Hiệp định 1995: Hợp tác phát triển bền vững, sử
dụng, quản lý và bảo vệ các tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan
trong lưu vực sông Mê Kông; sử dụng công bằng và hợp lý, đảm bảo
cân bằng môi trường sinh thái, dựa trên bình đẳng về chủ quyền quốc
gia và toàn vẹn lãnh thổ… cam kết ưu tiên thực hiện các dự án có quy
mô lưu vực (có tác dụng xuyên biên giới) theo một quy hoạch phát triển
lưu vực thống nhất.
Trung Quốc và Myanma không tham gia thành viên của Ủy hội
sông Mê Kông mà chỉ tham gia với tư cách là các bên đối thoại.


8

Bên cạnh Hiệp định Hợp tác Phát triển bền vững lưu vực sông Mê
Kông và sự hiện diện của Uỷ hội sông Mê Kông quốc tế, các bên có liên
quan đã ký nhiều hiệp định đa phương khác, đáng chú ý là:
- Chương trình Hợp tác Tiểu vùng Mê Kông mở rộng (GMS)
gồm 6 quốc gia trong lưu vực sông Mê Kông tham gia. Mục đích cuối
cùng của GMS là tạo thuận lợi cho sự phát triển kinh tế bền vững và cải
thiện đời sống, xóa đói nghèo, với các mục tiêu cụ thể: (1) nhận biết và
tăng cường các cơ hội phát triển; (2) khuyến khích đầu tư, thương mại
giữa các quốc gia GMS; (3) giải quyết hoặc giảm thiểu các vấn đề xuyên
biên giới; (4) đáp ứng các nhu cầu chung về chính sách và nguồn lực;
- Hiệp định Hợp tác về giao thông thủy thượng lưu sông Mê
Kông được ký kết giữa 4 nước Trung Quốc, Lào, Myanma và Thái Lan
nhằm thiết lập cơ chế tự do cho tàu thuyền của 4 nước đi lại trên đoạn
sông dài 881 km từ Si-Mao (Trung Quốc) với Luang-Prabang (Lào).
- Tổ chức hiến lược hợp tác kinh tế Ayeyarwady – Chao
Phraya – Mê Kông (ACMECS) là tổ chức chính trị, kinh tế và văn hóa

được thành lập năm 2003 với sự tham gia của Thái Lan, Myanma, Lào
và Campuchia nhằm mục đích tăng cường các hoạt động hợp tác kinh tế
giữa các nước ở khu vực Đông Nam Á lục địa. Việt Nam tham gia từ
năm 2004.
Ngoài ra còn có các hiệp định song phương khác được ký kết giữa
các nước trong khu vực.
II. CÁC DỰ ÁN THỦY ĐIỆN TRÊN DÒNG CHÍNH SÔNG MÊ
KÔNG
1. Tiềm năng và nhu cầu phát triển thủy điện
Về mặt kỹ thuật, tiềm năng thủy điện của sông Mê Kông có thể lên
tới 176.350 – 250.000 MW. Bốn nước hạ lưu (Campuchia, Lào, Thái Lan
và Việt Nam) có tiềm năng thủy điện quốc gia ước tính khoảng 50.000 -


9

64.750 MW, trong đó vùng hạ lưu Mê Kông có thể cung cấp 30.000MW.
Theo các thiết kế hiện có, 12 dự án trên dòng chính hạ lưu Sông Mê
Kông đạt tới 14.697 MW, chiếm 23 - 28% tiềm năng thủy điện quốc gia
của 4 nước hạ lưu Mê Kông và 5 – 8% tổng tiềm năng thủy điện trong
tiểu vùng Sông Mê Kông mở rộng (6).
Trong vài thập kỷ qua, các nước trong lưu vực sông Mê Kông có
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đi liền với sự gia tăng về nhu cầu điện. Từ
năm 1993 đến 2005, tăng trưởng kinh tế và nhu cầu năng lượng tăng
trung bình hàng năm vào khoảng 8%, một trong những mức tăng trưởng
cao nhất thế giới trong cả một giai đoạn dài. Nhu cầu năng lượng dự
kiến tăng trưởng 6 - 7% mỗi năm từ nay đến 2025 theo sự đa dạng hóa
của các nền kinh tế và gia tăng dân số ở hạ lưu sông Mê Kông.
Thủy điện được kỳ vọng là đòn bẩy kinh tế trên cơ sở thu hút vốn
đầu tư nước ngoài để kích thích phát triển, cung cấp năng lượng và sử

dụng các khoản thu từ thủy điện để đầu tư cho cơ sở hạ tầng và phát
triển xã hội đã được xác định trong kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội
quốc gia và các chiến lược quốc gia về tăng trưởng và xóa đói giảm
nghèo. Theo ước tính, lượng tiền lớn đầu tư nước ngoài đổ vào các dự
án dòng chính của Campuchia và Lào (ước đến 25 tỷ USD nếu tất cả 12
dự án được triển khai) có khả năng kích thích phát triển kinh tế đáng kể
đối với các nước sở tại và cả vùng do nhu cầu về các nguồn đầu vào bổ
sung (lao động, vật liệu thi công, các nguồn lực hỗ trợ và dịch vụ kỹ
thuật). Chi tiêu bổ sung của chính phủ do tăng các khoản thu từ thủy
điện cũng có thể góp phần kích thích tăng trưởng kinh tế.
2. Các dự án thủy điện của Trung Quốc ở thượng nguồn Mê
Kông

6

Báo cáo tóm tắt Đánh giá Môi trường chiến lược về thủy điện dòng chính sông Mê Kông.
Trang 9. Trung tâm quốc tế về quản lý môi trường. Tháng 10/2010.


10

Sông Langcang (Lang Can – Lang Thương – Lang Xang) phần
thượng nguồn sông Mê Kông thuộc địa phận Trung Quốc có độ chênh
dòng sông khoảng 4.000m nên tạo cho phần lưu vực này có nguồn thủy
năng phong phú. Nhiều vị trí có độ dốc lớn rất thuận lợi cho việc xây
dựng các đập thủy điện. Từ năm 1980, Trung Quốc đã quy hoạch xây
dựng 25 bậc thang trên dòng chính với tổng cộng suất lắp máy là 25.870
MW, 120 dự án thủy điện trên các dòng nhánh với tổng công suất lắp
máy là 2.600 MW.
Trên sông Lang Thương thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc dự kiến

xây dựng 15 bậc thang thủy điện với tổng công suất lắp máy lên đến
22.860MW, tổng dung tích chứa 52,81 tỷ m3, dung tích hữu ích 29,3 tỷ
m3. Theo kế hoạch đã được chính phủ Trung Quốc thông qua, đến năm
2020, trên sông Lang Thương sẽ có 8 nhà máy thủy điện được đưa vào
vận hành gồm Gongguo, Xiaowan, Manwan, Dachaoshan, Nuozhadu,
Jinghong, Ganlanba và Mengsong với tổng công suất 15.000MW và hồ
chứa có dung tích khoảng trên 40 tỷm3 nước để đáp ứng nhu cầu điện
năng trong tỉnh Vân Nam, các tỉnh thuộc vùng Đông Nam Trung Quốc là
Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu và xuất khẩu điện sang Thái Lan.
Dự kiến đến năm 2040, sẽ xây thêm 6-7 nhà máy thủy điện. Các trạm
thủy điện trung bình và nhỏ trong lưu vực sông Lang Thương để khai
thác đầy đủ tiềm năng thủy điện, thúc đẩy phát triển công nghiệp địa
phương(7). Hệ thống thủy điện ở Vân Nam là chìa khóa cho kế hoạch
chiến lược của Trung Quốc nhằm phát triển vùng Tây Nam vốn còn
nghèo khó, đồng thời tăng cường hợp tác kinh tế với khu vực Đông Nam

7

TS. Đào Trọng Tứ, Chính sách phát triển Mê Kông trên quy mô khu vực: Ảnh hưởng và ứng
phó từ phía Việt Nam


11

Á và đáp ứng nhu cầu phát triển mạnh mẽ nhưng thiếu năng lượng của
vùng ven biển phía Đông(8).
Kế hoạch phát triển thủy điện sông Mê Kông ở Trung Quốc đến
2020:
Dung
tích hồ

(106m3
)

Cong
suất
bảo
đảm
(MW)

Công
suất
lắp
máy
(MW)

Điện
năng
năm
(MW)

Giai
đoạn
dự án

C/28

373,9

600


3.740

F/S?

152.80
0

Lock/10

100,8

159

1.010

F/S?

P

149.10
0

C/107

1230

230

847,4


1.500

7,606

PF/S
(1993)

Nuozhadu

P

144.70
0

R/260

22.700

12.400

2.267,
1

5.500

23.700

PF/S
(1993)


5

SichiaGang

P

123.00
0

C/260

550

140

510

1.100

5.730

PF/S?

6

Dachaosha
n

P


121.00
0

C/118

890

240

709,5

1.350

5.931

19952000

7

Manwan

P

114.50
0

C/132

920


258

787

1.250/

7.870

19932015

113.30
0

A/290

19.170

F/S(92
)

T
T

Tên dự án

Mụ
c
đíc
h


DT lưu
vực
(km2)

Loại
đập/chiề
u cao
(m)

1

Mengsong

P

160.00
0

2

Ganlanba

P

3

Jinghong

4


8

Xiaowan

P

Dung
tích
hữu
ích
(106m3
)

1500
15.130

9.800

1.803,
3

3.600/
4.200

20152050
9

Gongguoqia
o


P

97.300

C/130

1
0

TieMenKan

P

93.400

C/

1
1

HyangDeng

P

92.000

1
2

Tuaba


P

88.000

1
3

WulongLon
g

P

1
4

JiaBi

P

1
5

Liutan Jiang

8

120

4.674


750

4.711

F/S?

2.150

960

827,1

1.780

8.270

PF/S?

C/

2.290

1.110

849,6

1.860

8.500


PF/S?

R/

5.150

3.400

762,3

1.640

7.630

PF/S?

85.500

980

340

270

800

4.890

Desk

Study

84.000

320

90

131

430

2.650

Desk
Study

83.000

500

170

162

550

3.360

Desk

Study

Timothy Hamlin, Trung tâm Stimson. Lưu vực sông Mê Kông: Cuộc cạnh tranh mới về
nguồn tài nguyên. />

12
Tổng cộng

52.810

29.258

15.075

22.860
23.710

114.76
8

Tính đến nay, Trung Quốc đã hoàn thành 5 công trình gồm: Mãn
Loan (ManWan); Đại Triều Sơn (Dachaoshan); Cảnh Hồng (Jinghong);
Cống Quả Kiều (Gongguaqiao) và Tiểu Loan (Xiaowan). Trong đó, Tiểu
Loan là dự án lớn thứ 2 sau Tam Hiệp trên sông Dương Tử. Có 3 đập
khác đang tiếp tục hoàn thành đến năm 2020 là Nọa Trát Độ
(Nouzhadu), Cảm Lâm (Ganlanba) và Mãnh Tống (Mengsong) nằm ở
đoạn hạ lưu sông Langcang. Có thông tin cho rằng dự án Mãnh Tống
(Mengsong) nằm cuối dòng thác của Trung Quốc đã được hoãn lại
nhưng chưa xác định chắc chắn thời gian thi công(9).
3. Các dự án thủy điện hạ lưu sông Mê Kông

Hạ lưu sông Mê Kông nằm trên lãnh thổ 4 nước Lào, Thái Lan,
Campuchia và Việt Nam. Độ chênh cao lòng sông ở hạ lưu vào khoảng
450m trên chiều dài 2.800km. Mặc dù độ chênh không nhiều so với vùng
thượng lưu (4.000m), nhưng phần dòng sông chảy qua Lào và Thái Lan
ở nhiều vị trí có độ dốc lớn, địa hình hai bên bờ sông có nhiều đồi, núi
cao khá thuận lợi cho việc xây dựng các công trình thủy điện. Độ dốc
đoạn chảy qua lãnh thổ Campuchia đã giảm đi khá nhiều nhưng cũng có
vị trí có thể xây dựng các nhà máy thủy điện. Trên lãnh thổ Việt Nam,
sông Mê Kông đi qua vùng đồng bằng châu thổ, địa hình bằng phẳng
nên hầu như không có khả năng phát triển thủy điện. Trong những năm
1970, 1987 và 1994, đã có một số nghiên cứu phát triển thủy điện trên
hạ lưu sông Mê Kông được triển khai. Tuy nhiên, vì nhiều lý do nên
chưa có dự án thủy điện nào được xây dựng.
Trước áp lực phát triển kinh kế, nhu cầu phát triển thủy điện tại các
nước Lào và Campuchia lại được đặt ra trong những năm gần đây. Bắt
9

Báo cáo tóm tắt Đánh giá Môi trường chiến lược về thủy điện dòng chính sông Mê Kông.
Trang 6. Trung tâm quốc tế về quản lý môi trường. Tháng 10/2010.


13

đầu từ năm 2007, các nước Lào, Thái Lan và Campuchia đồng loại khởi
động việc nghiên cứu xây dựng các công trình thủy điện trên dòng chính
trên sông Mê Kông.
Trong một thời gian ngắn, từ tháng 3 đến tháng 10 năm 2007, Lào
và Campuchia đã ký 12 Biên bản ghi nhớ nghiên cứu chuẩn bị cho xây
dựng hàng loạt các công trình thủy điện trên dòng chính hạ lưu sông Mê
Kông. Cụ thể là vào tháng 3/2007 ký với công ty Mega First Malalaysia

xây dựng thuỷ điện Đôn Sahong (tỉnh Chămpasak); tháng 5/2007 ký với
công ty Karnchang Public Company Ltd Thái lan xây dựng thuỷ điện
Xayabouri (tỉnh Xayabouri); tháng 6/2007 ký với Sinnohdro Corporation
China National Electronics, Trung Quốc xây dựng thuỷ điện Pak Lay
(tỉnh Xayaburi); tháng 8/2007 ký với công ty Datang International Power
Generation Co. Ltd, Trung Quốc xây dựng thuỷ điện Pakbeang (tỉnh
Oudomxay); tháng 10/2007 ký với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam xây dựng
thuỷ điện Luang Prabang (tỉnh Puang Prabang). Cămpuchia đã ký biên
bản ghi nhớ với Trung Quốc nghiên cứu thuỷ điện Sambor. Thái Lan
đang tiến hành nghiên cứu xây dựng thuỷ điện Ban Koum. Các hoạt
động sôi động này đều được thực hiện qua hợp tác song phương ngoài
khuôn khổ hợp tác Mê Kông. Tổng công suất lắp máy từ 12.920 MW
(phương án thấp) đến 21.300 MW (phương án cao), dung tích chứa
không điều tiết khoảng 8 tỷ m3(10).
Tổng cộng có 12 dự án thủy điện trên dòng chính hạ lưu sông Mê
Kông. Trong đó, có 10 dự án ở Lào và 2 dự án ở Campuchia. Chỉ có duy
nhất dự án Thakho không có đập. Thông tin về 12 dự án thủy điện như
sau:
Tiến độ của các đập

10

TS. Đào Trọng Tứ. Chính sách phát triển Mê Kông trên quy mô khu vực: Ảnh hưởng và ứng
phó từ phía Việt Nam.


14
TT

Đập


Tình trạng

Tình trạng nghiên cứu
môi trường

Thời gian
hoạt động

1

Pak Beng

MoU, khả thi

Đã nộp IEE

2016

2

Luang Prabang

MoU, khả thi

Nghiên cứu khả thi

2016

3


Xayaburi

MoU, khả thi

Đã nộp nghiên cứu khả thi
và ESIA đầy đủ

2016

4

Pak Lay

MoU, khả thi

Đã nộp IEE

2016

5

Sanakham

MoU, khả thi

IEE in preparation

2016


6

Pakchom

Quy hoạch tổng
thể

Chưa

2017

7

Ban Koum

MoU, khả thi

Chưa

2017

8

Latsua

MoU, tiền khả thi

Chưa

2018


9

Thakho

MoU

Đang chuẩn bị ESIA

2014

10

Don Sahong

PDA. Quy hoạch
chi tiết

Đã nộp ĐMT đầy đủ, yêu
cầu nghiên cứu bổ sung

2016

11

Stung Treng

MoU, tiền khả thi

Chưa


12

Sambor

MoU, tiền khả thi

Đã nộp nghiên cứu tiền khả
thi

N/a
2020

Số liệu về các đập
TT Dự án

Xếp
hạng
M

Mức
thiết
m3/s

Năng lực Năng
xả Công
kế suất lắp đỉnh MW lượng
trung bình
đặt MW
năm GWh


Năng
lượng
năm chắc
chắn

1

Pak Beng

31

7.20

1.230

1.230

5.517

4.073

2

Luang
Prabang

40

3.812


1.410

1.412

5.437

4.205

3

Xayaburi

24

6.018

1.260

1.260

6.035

5.139

4

Pak Lay

26


4.500

1.320

1.320

6.46

4.252

5

Sanakham

16

5.918

700

700

5.015

3.210

6

Pak Chom


22

5.720

1.079

1.079

5.318

5.052

7

Ban Koum

19

11.700

1.872

1.872

8.434

8.012

8


Latsua

10

9.600

800

800

3.504

2.452

9

Thakho

15

380

50-60

Cont

360



15
10
11
12

Don
Sahong
Stung
Treng
Sambor

17

2.400

240

240

2.375

1.989

15

18.943

980

591


4.870

2.937

33

17.668

2600

2.030

11.740

9.150

64.706

51.239

TOTAL

14.111

Đơn vị xây dựng
TT

Tên đập


Đơn vị xây dựng

Quốc gia
China

1

Pak Beng

Datang Internationl Power Generation

2

Luang
Prabang

Petro Vietnam Power Corporation

Vietnam

3

Xayaburi

SEAN & Ch. Karnchang Pulic Co Ltd

Thailand

4


Pak Lay

CEIEC and Sino-Hydro

China

5

Sanakham

Datang Inertional Power Generation

China

6

Pak Chom

Feasibility study jointly funded by
Ministries of Energy from Thailand and
Laos

7

Ban Koum

Italian Thai Asia Corp. Holdings

8


Latsua

Charoen Enerergy and Water Asia Co
Ltd

Thailand

9

Don Sahong

Mega First

Malaysia

10

Thakho

CNR (Compagnie Nationale du Rhone)
and EDL

France

11

Stung Treng

Song Da Co.


Vietnam

12

Sambor

China Southern Power Grid

Thailand/ Laos
Thailand

China

Kích thước của các đập
TT

Đập

Chiều dài (m)

Chiều cao (m)

Diện tích hồ chứa
(km2)

1

Pak Beng

943


76

87


16
2

Luang Prabang

3

1,106

68

90

Xayaburi

810

32

49

4

Pak Lay


630

35

108

5

Sanakham

1,144

38

94

6

Pak Chom

1,200

55

80.3

7

Ban Koum


780

53

132.5

8

Latsua

1,300

22

13

9

Don Sahong

1820-720-2730

10.6-8.2-8.3

290 ha

10

Thakho


Không có đập

0

0

11

Stung Treng

10,884

22

211

12

Sambor

18,002

56

620

4. Đập Xayaburi (Lào)
Đập Xayaburi nằm ở phía bắc của Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào. Đây là đập được đánh giá hiện đại nhất trong số 11 con đập dự

kiến được xây dựng ở vùng hạ lưu sông Mê Kông. Chiều dài của đập là
810m, trải trên toàn bộ chiều ngang của sông Mê Kông do Công ty
SEAN & Ch. Karnchang Pulic Co Ltd (Thái Lan) xây dựng. Tổng chi phí
đầu tư cho đập là 3,5 tỷ USD. Thời gian xây dựng kéo dài trong 8 năm.
Theo thiết kế, dự án thủy điện Xayabury có công suất 1.260KW. Trong
đó, có 95% sẽ được xuất khẩu sang Thái Lan.


17

Phối cảnh đập Xayaburi. Ảnh: VRN

Trong khuôn khổ Hiệp ước sông Mê Kông năm 1995, cả 4 nước
Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam đã cam kết tuân thủ quá trình tham
vấn ý kiến liên chính phủ trước khi bất cứ một quốc gia riêng lẻ nào đưa
ra quyết định liên quan tới dòng sông và các con đập trên dòng chính.
Tuân thủ quy định này, tháng 9 năm 2010, đập Xayaburi trở thành con
đập đầu tiên được trình chính phủ các nước thành viên Ủy hội sông Mê
Kông quốc tế cho phép xây dựng thông qua quá trình “Thủ tục thông
báo, tham vấn và tán thành” (PNPCA). Vấn đề đặt ra là, nếu đập
Xayaburi được xây dựng sẽ tạo ra hiệu ứng “đôminô”, tức là làm tiền đề
cho việc triển khai đồng loạt các con đập còn lại trên dòng chính sông
Mê Kông. Những tác động đến môi trường, sinh kế người dân, an ninh
lương thực và sự ổn định khu vực là chưa thể lường hết được.
Tại Việt Nam, đã có 2 cuộc tham vấn quốc gia về xây dựng đập
Xayaburi được tổ chức tại TP. Cần Thơ và Hạ Long vào đầu năm 2011
do Ủy ban sông Mê Kông Việt Nam tiến hành.
III. LỢI ÍCH VÀ RỦI RO TỪ VIỆC XÂY DỰNG ĐẬP THỦY ĐIỆN
TRÊN DÒNG CHÍNH SÔNG MÊ KÔNG
Cho đến nay, việc đánh giá hiệu quả kinh tế cũng như tác động

của việc xây dựng các đập trên dòng chính sông Mê Kông đã và đang
được tiến hành nhưng chưa đầy đủ và thuyết phục. Thực tế cũng cho
thấy, còn nhiều ý kiến khác nhau về số liệu, mức độ ảnh hưởng, tính trầm
trọng cũng như độ tin cậy của các số liệu đưa ra.
Bản đánh giá môi trường chiến lược về thủy điện dòng chính sông
Mê Kông do Trung tâm Quốc tế về quản lý môi trường (ICEM) được đệ


18

trình lên Ủy hội sông Mê Kông vào tháng 10 năm 2010 được xem là
công phu nhất. Báo cáo này nhận định: “Những dự án dòng chính sẽ
mang lại nguồn năng lượng bổ sung và những lợi ích đầu tư cho cả
vùng. Đồng thời, những dự án này còn mang lại nhiều rủi ro nghiêm
trọng và các yếu tố bất định đối với những vấn đề quan tâm có tính chiến
lược về kinh tế, xã hội và môi trường đối với các nước lưu vực Mê Kông
và các cộng đồng, cũng như đối với phát triển bền vững toàn lưu vực”.
Có thể tóm tắt một số nét chính về lợi ích và rủi ro đề cập trong báo cáo
như sau:
1. Lợi ích từ các dự án thủy điện dòng chính sông Mê Kông
Về lợi ích, được đánh giá chủ yếu trên hai nội dung là phát triển
năng lượng và kinh tế. Các con đập dòng chính hạ lưu sông Mê Kông có
tiềm năng đóng góp đáng kể cho sản xuất năng lượng toàn vùng hạ lưu,
ước tính khoảng 23% tiềm năng thủy điện kỹ thuật và 11% công suất lắp
đặt vào năm 2025. Thủy điện sẽ góp phần đáng kể đáp ứng nhu cầu
năng lượng trong điều kiện còn phải phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch
và chưa có giải pháp thay thế. Theo tính toán, nếu 12 con đập được xây
dựng, đến năm 2025, các dự án dòng chính có thể đóng góp khỏang 68% nhu cầu năng lượng toàn khu vực, tương ứng tỷ lệ tăng trưởng năng
lượng dự kiến của lưu vực sông Mê Kông mỗi năm (2015-2025). Cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào sẽ có lợi nhất vì có khả năng thu được

khoảng 70% toàn bộ lợi ích năng lượng. Campuchia và Thái Lan nhận
được 11-12% và Việt Nam là 5%. Thủy điện dòng chính có ý nghĩa hạn
chế đối với ngành năng lượng của Thái Lan và Việt Nam vì quá nhỏ so
với quy mô năng lượng của mỗi nước.
Đối với phát triển kinh tế, nếu tất cả 12 dự án dòng chính được
triển khai thì Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào sẽ thu được 70% các
nguồn thu từ xuất khẩu điện (2.6 tỷ USD/năm) và Campuchia nhận được
30% (1.2 tỷ USD). Lượng tiền lớn FDI đổ vào các dự án dòng chính của
Lào và Campuchia (ước tính khoảng 25 tỷ USD) sẽ có khả năng dẫn đến
kích thích kinh tế đáng kể đối với các nước sở tại và cả vùng do nhu


19

cầu về các nguồn đầu vào bổ sung (sử dụng lao động, vật liệu thi công,
các nguồn lực hỗ trợ và dịch vụ kỹ thuật).
2. Các rủi ro từ phát triển thủy điện dòng chính sông Mê Kông
Bên cạnh các lợi ích đạt được, rủi ro, ảnh hưởng của dự án thủy
điện dòng chính sông Mê Kông là rất lớn:
Tính nhất thể và đa dạng hệ sinh thái: Ảnh hưởng trên toàn lưu
vực đối với các hệ sinh thái phụ thuộc vào sông Mê Kông, đa số các ảnh
hưởng này là không thể tránh khỏi, nếu các dự án triển khai. Nó cũng
dẫn tới các tổn thất vĩnh viễn về đa dạng sinh vật dưới nước và trên cạn
có tầm quan quan trọng quốc tế và suy giảm không thể phục hồi sinh
thái sông Mê Kông mà không thể giảm thiểu và bù đắp được. Khoảng
17% diện tích đất ngập nước nằm trong lòng chảy của sông sẽ bị mất và
một số loài quan trọng sẽ bị tiệt chủng. Các dự án hạ lưu sẽ gây ngập lụt
quanh các hồ chứa, chuyển đổi 55% diện tích hạ lưu thành các hồ chứa
với khả năng gây ra biến động nhanh và đáng kể đối với mực nước dưới
hạ lưu từng ngày và thậm chí từng giờ. Dự án thủy điện sẽ làm tăng

mức độ trầm trọng các mối liên kết của hệ sinh thái dọc theo sông Mê
Kông, chia cắt thành các nhóm hệ nhỏ hơn và có năng suất kém hơn
nhiều. Tổng quan của việc phát triển thủy điện trên dòng chính và các
dòng nhánh sẽ gây ra sự suy giảm rất lớn về chuyển trầm tích và gián
đoạn các mùa sinh thái – thủy văn.
Nghề cá và an ninh lương thực: Đến năm 2030, việc xây dựng
những con đập trên dòng chính sẽ làm nguồn đạm có nguy cơ tổn thất
hàng năm tương ứng 110% sản lượng chăn nuôi hàng năm của
Campuchia và Lào hiện nay. Nghề cá ở hồ chứa các đập chỉ có thể bù
đắp ở mức cao nhất là 10% các tổn thất trong nghề cá đánh bắt. Hiện
nay, chưa có mô hình đường di chuyển cho cá thích hợp với quy mô và
cường độ di cư của cá trên dòng chính. Bên cạnh đó, sự suy giảm của
nghề đánh bắt cá và nuôi trồng thủy sản cũng ảnh hưởng đến các ngành


20

công nghiệp phụ trợ. Rủi ro và các tổn thất diễn ra đối với các hệ sinh
thái trên cạn và dưới nước trong vùng sông Mê Kông, cộng hưởng với
biến đổi khí hậu chắc chắn sẽ tăng khả năng mất an ninh lương thực đối
với hàng triệu người trong bối cảnh gia tăng nhu cầu lương thực. Mức
độ rủi ro ở Campuchia, Lào và nền kinh tế châu thổ của Việt Nam cần
phải có đánh giá chi tiết các tác động đến an ninh lương thực và sinh kế,
xác định các giải pháp khả thi và xây dựng các phương án cung cấp
lương thực thay thế trước khi quyết định về các dự án dòng chính.
Xã hội, sinh kế và lối sống: Thủy điện dòng chính hạ lưu sông
Mê Kông chắc chắn ảnh hưởng bất lợi đến hàng triệu người sống ven
song, với sinh kế dựa vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên của sông.
Cuốc sống của ít nhất 2,1 triệu người chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng trực
tiếp và gián tiếp. Trong số này, có 106,942 người sẽ phải chịu tác động

trực tiếp từ 12 dự án dòng chính vì mất nhà cửa, đất đai và buộc phải tái
định cư. Hơn 2 triệu người sống trong các vùng hồ chứa, các địa điểm
xây dựng và ngay phía hạ lưu các con đập dòng chính sẽ chịu rủi ro lớn
nhất.
Xung đột khu vực: Từ các tác động trên đây, khi đưa vào thi
công và vận hành, các dự án phát triển được đề xuất có khả ăng gây ra
những tác động xuyên biên giới và gây căng thẳng quốc tế trong vùng
hạ lưu sông Mê Kông.
Bên cạnh đó, những thiệt hại dưới góc nhìn địa chính trị cũng cần
phải tính đến đó là quyền lợi quốc gia, dân tộc; mối quan hệ giữa các
nước trong hạ lưu; sự phụ thuộc cũng như khả năng khống chế nguồn
nước ở thượng nguồn…


21

3. Tóm lược các cơ hội và rủi ro của từng nước tại hạ lưu sông Mê
Kông(11)
Campuchia:

• Các hậu quả bất lợi nghiêm trọng với nghề cá và ngư dân, an ninh lương
thực và xóa đói giảm nghèo;
• Các lợi ích đáng kể nhờ đảm bảo phát triển ngành năng lượng, giảm chi
phí năng lượng cho công nghiệp và sự đa dạng hóa trong kinh tế về lâu
dài;
• Các tổn thất nghề cá có thể lớn hơn các lợi ích sản xuất điện tính trong giai
đoạn ngắn hạn và trung hạn.
CƠ HỘI
• Các lợi ích đáng kể từ đảm bảo
nguồn cung điện quốc gia với chi

phí rẻ (thay cho việc nhập khẩu
xăng dầu);
• Tăng khả năng cạnh tranh của
ngành chế tác;
• Tăng nguồn thu cho chính phủ từ
xuất khẩu và thuế năng lượng;
• Tăng diện tích tưới tiêu và năng
suất nông nghiệp ở một số vùng;
• Khả năng linh hoạt trong chiến
lược cung cấp năng lượng dài hạn
một khi kết thúc các giai đoạn
nhượng quyền.

RỦI RO
• Tổn thất nguồn lợi thủy sản và tác
động đáng kể đến an ninh lương
thực;
• Thay đổi sinh kế của hơn 1.6 triệu
ngư dân;
• Tổn thất về GDP do các thiệt hại
kinh tế trong nghề cá và nông
nghiệp;
• Các dịch vụ phụ trợ và chế biến sẽ
thiệt hại do sự giảm trầm tích và
dinh dưỡng cung cấp cho hệ thống
Biển hồ và các tác động bất lợi liên
quan về năng suất sơ cấp, rừng
chắn lũ và cá di cư;
• Mất vườn tược ven sông – có khả
năng đáng kể đối với các cộng

đồng ven sông một số khu vực;
• Giảm đáng kể độ màu mỡ và năng
suất nông nghiệp ở các đồng bằng
ngập nước;
• Thiệt hại về tài sản và nguồn thu
du lịch;
• Thiếu lưới điện quốc gia có thể
hạn chế phân phối điện công bằng;
• Mất đa dạng sinh vật.

CHDCND Lào:

• Lợi ích đáng kể cho toàn bộ nền kinh tế - nhưng có thể phân phối không
đều;
• Tác động tiêu cực có thể rất lớn đến các cộng đồng dễ bị tổn thương;
• Chi tiêu của Chính phủ Lào từ các khoản thu ròng gia tăng có thể giúp cải

11

Báo cáo tóm tắt Đánh giá Môi trường chiến lược về thủy điện dòng chính sông Mê Kông.
Trang 19. Trung tâm quốc tế về quản lý môi trường. Tháng 10/2010.


22

thiện tác động tiêu cực.
CƠ HỘI
• Các lợi ích đáng kể giúp kích thích
kinh tế nhờ FDI cho thủy điện dòng
chính hạ lưu;

• Có thể chứng kiến các khoản thu
ròng có lợi trong giai đoạn nhượng
quyền khai thác tùy theo thiết kế
của thỏa thuận đầu tư và năng lực
giám sát tương ứng;
• Có thể có các lợi ích đáng kể sau
25 năm khi các dự án được
chuyển giao cho Chính phủ do kết
thúc nhượng quyền;
• Các lợi ích từ tăng diện tích tưới
tiêu và năng suất nông nghiệp ở
một số vùng;
• Cải thiện khả năng đi lại cho các
tàu cỡ trung bình/lớn ở thượng lưu
Viên Chăn;
• Khả năng linh hoạt trong chiến
lược cung cấp năng lượng dài hạn
một khi kết thúc các giai đoạn
nhượng quyền.

RỦI RO
• Có khả năng làm gia tăng mất cân
đối kinh tế vĩ mô do sự bùng nổ
của ngành thủy điện;
• Tổn thất nghề cá – có khả năng
ảnh hưởng xấu đến an ninh lương
thực và sinh kế của những nhóm
người dân dễ bị tổn thương;
• Mất rất nhiều vườn tược ven sông;
• Mất các tài sản du lịch giá trị;

• Mất đa dạng sinh vật.

Thái Lan:
• Lợi ích tổng thể về kinh tế, mặc dù không đáng kể cho nền kinh tế quốc
gia;
• Các rủi ro kinh tế về sinh kế của các cộng đồng ven sông trong lưu vực.
CƠ HỘI
• Có được các lợi ích kinh tế rõ rệt
từ nhập khẩu năng lượng;
• Cải thiện khả năng đi lại cho các
tàu thuyền cỡ trung bình/lớn ở các
đoạn thượng nguồn trong hạ lưu
sông Mê Kông.

RỦI RO
• Tổn thất nghề cá;
• Thiệt hại về đất nông nghiệp;
• Có thể mất tài sản du lịch sinh thái.

Việt Nam:
• Có khả năng tổn thất tổng thể về kinh tế;
• Các tổn thất chủ yếu do các cộng đồng ở đồng bằng sông Cửu Long phải
gánh chịu.
CƠ HỘI
• Có được lợi ích kinh tế nhờ cải
thiện nguồn cung cấp năng lượng
(nhập khẩu).

RỦI RO
• Tổn thất đáng kể nghề cá nước

ngọt và đánh bắt ngoài biển, nuôi
trồng thủy sản – có khả năng ảnh
hưởng xấu đến sinh kế của các


23

ngư dân ở châu thổ, nhất là nhóm
người nghèo;
• Giảm các trầm tích và dinh dưỡng
liên quan, ảnh hưởng bất lợi về
kinh tế đáng kể cho quá trình lắng
động trầm tích châu thổ, nghề cá
(biển và sông Cửu Long) và nông
nghiệp.

Trong số 4 nước hạ lưu sông Mê Kông, Việt Nam là nước có ít lợi
ích kinh tế nhưng lại có khả năng chịu các rủi ro, tổn thất lớn nhất do là
quốc gia duy nhất không có thủy điện dòng chính và do nằm ở cuối cùng
của lưu vực sông. Nguồn năng lượng dự kiến nhập khẩu từ các dự án
thủy điện dòng chính sông Mê Kông chỉ chiếm khoảng 5% tổng lưu
lượng điện hàng năm vào năm 2020 và lợi ích này sẽ ngày càng ít hơn
do nhu cầu năng lượng tăng lên. So với lợi ích kinh tế không đáng kể từ
nhập khẩu điện và tham gia đầu tư(12) thì những thiệt hại phải gánh chịu
là chưa thể tính toán hết từ việc xây dựng 12 dự án thủy điện dòng
chính. Trong khi đó, đánh giá môi trường chiến lược cũng như nhiều ý
kiến cho rằng một số tác động lớn về dòng chảy, lượng phù sa bồi đắp,
thủy sản, nông nghiệp và những tác động xã hội chắc chắn không thể
tránh được.
Dòng chảy: Khả năng giảm dòng chảy trong mùa khô(13), kết hợp

với ảnh hưởng biến đổi khí hậu và nước biển dâng sẽ làm gia tăng sự
xâm nhập mặn, biển tiến, ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và nuôi
trồng thủy sản đồng bằng sông Cửu Long. Sự thay đổi dòng chảy còn

12

Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam xây dựng dự án thủy điện Luong Prabang (Lào) và
Tổng công ty Sông Đà xây dựng dự án thủy diện Stung Treng (Campuchia).
13
Theo Ths. Nguyễn Hữu Thiện, Trưởng nhóm tư vấn quốc gia đánh giá môi trường chiến
lược 12 đập thủy điện dòng chính Mê Kông thì trong mùa khô, gần 100% năng lượng dòng
chảy dùng để phát điện. Trong mùa nước, 6 đập phía trên sẽ làm giảm 70-100% năng lượng
dòng chảy. Một số đập có khả năng ngăn giữ dòng chảy từ 2-3 tuần mùa khô và 1-2 tuần mùa
nước. Đánh giá ban đầu đối với đập Sanakham trong năm hạn hán (ví dụ năm 1993) thì thời
gian ngăn dòng chảy có thể lên đến 1 tháng. Thời gian lưu nước ở chuỗi 11 đập làm cho nước
chảy về đồng bằng Sông Cửu Long rất muộn.


24

gây xói lở bờ sông, sụt lún, gây mất đất, ảnh hưởng đến các công trình
hạ tầng cơ sở nằm ven bờ.
Phù sa: Lượng phù sa về đồng bằng sông Cửu Long ước khoảng
26 triệu tấn/năm sẽ giảm xuống còn 7 triệu tấn/năm trong tương lai, lược
chất dinh dưỡng giảm từ 4.157 tấn/năm xuống còn khoảng 1.039
tấn/năm. Tác động này sẽ kéo theo sự suy giảm năng suất nông nghiệp
và thủy sản, gia tăng hiện tượng xói lở bờ sông. Mất phù sa kết hợp với
hiện tượng giảm bồi lắng ven biển, dẫn đến mất cơ hội mở rộng lãnh
thổ.
Thủy sản: Nếu các dự án đập dòng chính được triển khai, thủy sản

nước ngọt, thủy sản nuôi trồng và hải sản đều bị ảnh hưởng. Tính riêng
tổn thất cá trắng ở đồng bằng Sông Cửu Long vào khoảng 240.000 đến
480.000 tấn/năm. Tính theo giá 2.500 USD/tấn thì mỗi năm sẽ thiệt hại
khoảng 500 triệu đến 1 tỷ USD cho riêng cá trắng. Trong khi đó, lưu vực
sông Mê Kông có 65% cá trắng và 35% cá đen. Nếu mất cá trắng thì cá
đen cũng mất theo vì cá trắng là thức ăn nuôi sống cá đen. Biến động về
nguồn dinh dưỡng và động lực dòng sông vùng ven biển, sản lượng
đánh bắt hải sản bờ biển cũng bị suy giảm. Thủy sản nuôi trồng cũng bị
suy giảm do dòng chảy giảm kéo theo suy giảm khả năng làm sạch dòng
sông và lượng chất dinh dưỡng.
Xã hội: Việt Nam sẽ có khoảng 14 triệu nông dân và ngư dân bị
ảnh hưởng gián tiếp do có thu nhập chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp và
nuôi trông thủy sản(14).
Ngoài ra, còn có những rủi ro khác đối với đồng bằng sông Cửu
Long mà chưa thể tính toán, định lượng được, như: tổn thất thủy sản
biển, thủy sản nuôi, năng suất nông nghiệp, sạt lở bờ sông, sụt lún của
đồng bằng do thiếu phù sa, sự dịch chuyển khó đoán của ranh giới nước
mặt trong mùa khô, tác động đến ngành du lịch, tác động dây chuyền lên

14

Thủy điện sông Mê Kông: Ai được, ai mất? Trung tâm Con người và thiên nhiên.


25

các ngành công nghiệp và dịch vụ phụ thuộc vào nông nghiệp và thủy
sản.
IV. CÁC KHUYẾN NGHỊ VỀ XÂY DỰNG THỦY ĐIỆN DÒNG
CHÍNH SÔNG MÊ KÔNG

1. Khuyến nghị của nhóm đánh giá môi trường chiến lược
(SEA)(15)
Đánh giá môi trường chiến lược về thủy điện dòng chính sông Mê
Kông (SEA), do Trung tâm Quốc tế về quản lý môi trường – ICEM tiến
hành theo yêu cầu của Ủy hội sông Mê Kông quốc tế, cho rằng đề xuất
phát triển thủy điện dòng chính sông Mê Kông là một quyết định có tính
chiến lược quan trọng nhất được các nước hạ lưu đưa ra về khai thác
các nguồn tài nguyên chung. Trên cơ sở kết quả phân tích và kết luận về
mức độ rủi ro, các yếu tố bất định, những hiểu biết chưa đầy đủ và quan
điểm của các nhóm lợi ích về nhu cầu cần tiếp tục tham vấn và nghiên
cứu, nhóm đánh giá môi trường chiến lược đã khuyến nghị:
- Các quyết định về xây dựng đập dòng chính cần được hoãn lại
trong khoảng thời gian 10 năm, đồng thời thực hiện đánh giá 3 năm một
lần để đảm bảo các hoạt động chính trong thời gian này được tiến hành
một cách hiệu quả.
- Trong thời gian hoãn cần giành thời gian ưu tiên cao nhất cho
việc triển khai toàn diện các nghiên cứu khả thi đối với các hệ thống lòng
chảy vào, chuyển dòng theo từng phần và các hệ thống cải tiến khác,
nhằm khai thác năng lượng dòng chính theo các cách không đòi hỏi xây
dựng đập chắn toàn bộ chiều ngang của dòng chảy.
- Trong khoảng thời gian hoãn, sẽ đánh giá toàn diện và theo dõi
nhanh các dự án phụ lưu để xem xét tính khả thi và bền vững về mặt
sinh thái căn cứ theo thực tiễn quốc tế, bao gồm cả nâng cấp các dự án
hiện có và công trình cải tiến.
15

Trích dẫn khuyến nghị Báo cáo đánh giá môi trường chến lược về thủy điện dòng chính
sông Mê Kông



×