Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Các biện pháp tăng cường quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.05 KB, 36 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC......................................................................................................................... 1
A. PHẦN MỞ ĐẦU...........................................................................................................2
I. Lí do chọn đề tài....................................................................................................................................2
1. Đối tượng nghiên cứu: .....................................................................................................................3
2. Phạm vi nghiên cứu: ........................................................................................................................3

B. PHẦN NỘI DUNG.......................................................................................................4
CHƯƠNG I: ..................................................................................................................... 4
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC .........................................................4
VỀ BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG.................................................................................4
I. TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG.................................................4
1. Một số khái niệm liên quan..............................................................................................................4
2. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.........................................................................9
II. HỆ THỐNG VÀ CHỨC NĂNG CỦA CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU
DÙNG TẠI VIỆT NAM...............................................................................................................................11
1. Tổ chức bộ máy cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại Việt Nam.....12
2. Vai trò và chức năng của các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại
Việt Nam.............................................................................................................................................13
2.1. Cơ quan nhà nước cấp Trung Ương( Cục Quản lý cạnh tranh) ....................................................13
2.2. Cơ quan quản lý cấp địa phương (UBND tỉnh, các sở thương mại/ sở thương mại và du lịch)....13
2.3. Các Bộ, Ngành có liên quan.........................................................................................................14

CHƯƠNG II:................................................................................................................... 15
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI .......................15
NGƯỜI TIÊU DÙNG TẠI VIỆT NAM........................................................................15
I. NỘI DUNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG.....................................17
II. CÁC VĂN BẢN PHÁP LÝ VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG...................................................18
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN NHÀ NƯỚC VỀ
BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG Ở VIỆT NAM.............................................................................18


1. Thành tựu đạt được.......................................................................................................................18
2. Một số tồn tại, bất cập....................................................................................................................21

CHƯƠNG III:.................................................................................................................25
CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ QUẢN LÝ ....................25


CỦA CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC VỀ BẢO VỆ LỢI ÍCH NGƯỜI TIÊU DÙNG. 25
I. HOÀN THIỆN LUẬT PHÁP VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG.................................................25
II. NGHIÊN CỨU NỘI DUNG, YÊU CẦU BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH
TẾ QUỐC TẾ............................................................................................................................................27
III. GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, KHIẾU KIỆN CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG...........................................................28
IV. NÂNG CAO NHẬN THỨC VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG................................................29
V. NÂNG CAO NĂNG LỰC BỘ MÁY BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG..........................................31

C. KẾT LUẬN................................................................................................................. 33
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................34


ĐỀ TÀI:

1


NHỮNG GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO VỆ LỢI
ÍCH NGƯỜI TIÊU DÙNG Ở VIỆT NAM
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Người tiêu dùng là một lực lượng đông đảo và có vai trò vô cùng quan trọng
trong nền kinh tế nói riêng và sự phát triển của toàn xã hội nói chung. Trong chính sách

kinh tế của quốc gia, “kích cầu” là một biện pháp mà các chính phủ thường sử dụng khi
nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng bởi vì nó có tác dụng kích thích tiêu dùng
hàng hóa, dịch vụ, giúp lưu thông nền kinh tế và làm cho nền kinh tế sớm thoát khỏi
tình trạng trì trệ. Đồng thời, người tiêu dùng là một mục tiêu vô cùng quan trọng trong
quá trình hoạch định chiến lược của các doanh nghiệp nói riêng. Bên cạnh đó, khi người
tiêu dùng có tác động lớn đến nền kinh tế của một quốc gia thì cũng sẽ có tác động ít
nhiều đến cả tổng thể xã hội của quốc gia đó. Thực tế cho thấy, khi kinh tế phát triển
thì văn hóa, chính trị, xã hội cũng có những sự tiến bộ tương ứng. Do đó, việc nghiên
cứu về hành vi tiêu dùng và củng cố hơn nữa vai trò của người tiêu dùng là rất quan
trọng trong việc giúp các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu
của người tiêu dùng, từ đó mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp mình và sự thịnh vượng
cho nền kinh tế.
Với vai trò quan trọng như vậy, lẽ ra người tiêu dùng phải được các doanh
nghiệp tôn trọng và bảo vệ quyền lợi. Tuy nhiên, người tiêu dùng lại đang là những
người phải chịu thiệt thòi khi thực hiện hành vi tiêu dùng. So với doanh nghiệp, người
tiêu dùng thường ở vào vị trí bất lợi hơn về thông tin của sản phẩm và do đó, các doanh
nghiệp dễ dàng lợi dụng để kiếm lời bất chính. Trên thực tế, những hành vi xâm phạm
quyền lợi người tiêu dùng là rất phổ biến và dẫn đến những ảnh hưởng tiêu cực đến nền
kinh tế nói riêng. Bởi vậy, yêu cầu cấp thiết đặt ra là làm thế nào để quyền và lợi ích
chính đáng của người tiêu dùng được bảo vệ cũng như việc nâng cao ý thức của doanh
nghiệp, của người dân và toàn xã hội về vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

2


Hoạt động bảo vệ người tiêu dùng đã được Ðảng và nhà nước quan tâm, đặc biệt từ
khi đất nước ta tiến hành đổi mới. Bảo đảm quyền lợi người tiêu dùng là biểu hiện của sự
tiến bộ xã hội, của việc tôn trọng con người. Hiện nay, trong bối cảnh Việt Nam đang chủ
động hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, vấn đề người tiêu dùng và bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng càng trở nên quan trọng nhằm thực hiện mục tiêu phát triển

kinh tế - xã hội. Để thực hiện chức năng thống nhất quản lý Nhà nước về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng, Chính phủ đã giao cho Bộ Công Thương mà trực tiếp là Cục quản lý
cạnh tranh, thực hiện chức năng này.
Với tư cách là một trong số đông những người tiêu dùng, em thấy quyền lợi
người tiêu dùng Việt Nam đang bị xâm phạm nghiêm trọng. Việc nghiên cứu các giải
pháp tăng cường quản lý nhà nước nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là một vấn đề
cấp thiết. Do đó em đã chọn đề tài “Những giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về
bảo vệ lợi ích người tiêu dùng ở Việt Nam” để nghiên cứu trong bài khóa luận tốt
nghiệp của mình. Thông qua bài khóa luận, em hi vọng sẽ mang lại một cái nhìn vừa
tổng quát, vừa cụ thể về tình hình bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở nước ta hiện nay
và đưa ra một số giải pháp nhằm cải thiện hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Việt Nam.
II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu những về những giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng
2. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu trong phạm vi những người tiêu dùng sống tại khu vực Lao Bảo –
Quảng Trị.
III. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như thống kê, so sánh đối
chiếu, khảo sát bằng câu hỏi,…kết hợp với lý thuyết để tìm hiểu vấn đề cần nghiên cứu.
IV. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo Đề tài gồm có ba
chương:
Chương 1 : Cơ sở lý luận cho quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng
Chươn g 2 : Thực trạng quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
tại việt nam
Chương 3: Thực trạng quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
tại việt nam

3


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG
I. TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU
DÙNG.
1. Một số khái niệm liên quan
Cơ quan quản lý nhà nước
Là một tổ chức được thành lập và hoạt động theo những nguyên tắc và trình tự nhất
định, cơ cấu tổ chức nhất định và được giao những quyền lực nhà nước nhất định, được
quy định trong các văn bản pháp luật để thực hiện một phần những nhiệm vụ, quyền hạn
của nhà nước
Người tiêu dùng
Theo điều 1 pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng 1999 quy định: “ Người tiêu dùng là
người mua, sử dụng hàng hóa dịch vụ cho mục đích tiêu dùng sinh hoạt cá nhân, gia đình
và tổ chức”.
Theo điều 2 và điều 3 Nghị định số 69/2001/ NĐ-CP ngày 2/10/2001 của Chính phủ
quy định chi tiết việc thi hành Pháp lệnh về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã quy định
cụ thể các đối tượng được coi là người tiêu dùng và chịu sự điều chỉnh của Pháp lệnh này,
bao gồm:
- Người mua và là người sử dụng hàng hóa, dịch vụ đã mua cho chính bản thân
mình.
- Người mua hàng hóa, dịch vụ cho người khác, cho gia đình hoặc cho tổ chức sử
dụng.
- Cá nhân, gia đình, tổ chức sử dụng hàng hóa, dịch vụ do người khác mua hoặc do
được cho, tặng.
- Người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích sản xuất, kinh doanh không

thuộc phạm vi điều chỉnh của nghị định số 69/2001/NĐ-CP.
- Trường hợp những người mua hàng hóa, dịch vụ cho sản xuất, kinh doanh, tức là
phục vụ cho mục đích sinh lời thì không được coi là người tiêu dùng và không được bảo
vệ theo Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Các quyền của người tiêu dùng

4


Tuy hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã được hình thành và phát triển
khá lâu song những quyền của người tiêu dùng thì vẫn chưa được xác định rõ ràng.
Ngày 15 tháng 3 năm 1962, Tổng thống Mỹ John Kennedy trong một cuộc họp của
Thượng viện Mỹ đã phát biểu: “ …Theo định nghĩa, người tiêu dùng là tất cả chúng ta.
Họ là nhóm người đông đảo nhất, có tác động và chịu tác động của hầu hết các quyết định
về kinh tế, dù là của nhà nước hay tư nhân. Thế nhưng họ lại là những nhóm người quan
trọng duy nhất mà quan điểm của họ lại không được lắng nghe…” ( Năm 1983, Liên hợp
quốc chính thức tuyên bố ngày 15 tháng 3 trở thành “Ngày quyền của người tiêu dùng thế
giới”)
Từ những phát biểu của Tổng thống Mỹ, những quyền của người tiêu dùng dần được
hình thành và phát triển. Đầu tiên, Kennedy đưa ra bốn quyền cơ bản của người tiêu dùng,
đó là “ quyền được an toàn, quyền được thông tin, quyền được lựa chọn và quyền được
bày tỏ quan điểm” Bốn quyền này là cốt lõi của hoạt động bảo vệ người tiêu dùng trên thế
giới vào giai đoạn đó.
Qua quá trình hoạt động thực tiễn của các tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
trên thế giới, các quyền của người tiêu dùng đã được bổ sung thêm. Liên hợp quốc, cộng
đồng quốc tế và chính phủ các nước đã thừa nhận tám quyền cơ bản của người tiêu dùng.
Đó là :
- Quyền được thỏa mãn nhu cầu cơ bản: Là quyền được có những hàng hóa, dịch vụ
thiết yếu phục vụ cho cuộc sống như ăn, ở, chăm sóc sức khỏe, học hành, đi lại…Những
nhu cầu thiết yếu về tinh thần với giá cả hợp lý và có thể chấp nhận được. Nhu cầu cơ bản

là một khái niệm tương đối và tổng quát. Khi trình độ phát triển của xã hội còn ở mức
thấp, nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn thì nhu cầu cơ bản là những cái tối thiểu để con
người có thể tồn tại được. Còn khi xã hội phát triển ở mức cao hơn, nhu cầu cơ bản cũng
thay đổi. Khi đó những nhu cầu cơ bản tối thiểu không chỉ là để tồn tại mà còn bao gồm
những nhu cầu về tinh thần như giao tiếp, học hành, đi lại… để con người có thể tồn tại
và phát triển. Như vậy, quyền được thỏa mãn nhu cầu cơ bản của con người của người
tiêu dùng cũng thay đổi theo điều kiện của xã hội, con người cần được phát triển cả về thể
chất lẫn tinh thần.
- Quyền được an toàn : Là quyền của người tiêu dùng được bảo vệ chống lại những
hàng hóa, dịch vụ, quá trình sản xuất có hại đến sức khỏe, đời sống và quyền lợi chính
đáng của họ. Để đảm bảo tốt quyền này, hàng hoá, dịch vụ không chỉ cần đảm bảo an toàn
trước mắt mà cả sự an toàn dài hạn cho người sử dụng và các thế hệ tương lai.

5


- Quyền được thông tin: Là quyền của người tiêu dùng cần phải được cung cấp
thông tin cần thiết về sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ mà họ sử dụng để có thể tự quyết định
việc có sử dụng hay không trên cơ sở có đầy đủ thông tin.
Người tiêu dùng có quyền được tiếp cận thông tin về giá cả, chất lượng, số lượng,
thành phần… của hàng hoá và dịch vụ. Khi có được đầy đủ thông tin của sản phẩm hoặc
dịch vụ thì người tiêu dùng sẽ đưa ra quyết định hay lựa chọn đúng đắn hơn, tránh tình
trạng bị trở thành nạn nhân của các chiến dịch quảng cáo, tiếp thị sai lệnh, không trung
thực, thậm chí lừa dối người tiêu dùng. Nội dung thông tin cho người tiêu dùng có thể
được thực hiện thông qua việc ghi nhãn hàng hóa, qua các hướng dẫn sử dụng hay qua
giới thiệu quảng cáo trên các phương tiện thông tin.
- Quyền được lựa chọn: Là quyền của người tiêu dùng trong việc tự do quyết định
dùng hay không dùng sản phẩm, dịch vụ.Người tiêu dùng có quyền được tiếp cận các dịch
vụ và hàng hoá đa dạng với chất lượng tốt, giá cả cạnh tranh. Các hành vi thông tin không
trung thực, tạo ra sự khan hiếm giả tạo để gò ép người tiêu dùng, việc lợi dụng vị thế

thống lĩnh hay độc quyền để khiến người tiêu dùng bắt buộc phải sử dụng hàng hóa, dịch
vụ của mình hoặc việc tham gia vào thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đều là hành vi vi phạm
quyền được lựa chọn của người tiêu dùng. Việc đảm bảo quyền này sẽ giúp cho người
tiêu dùng chọn mua được đúng sản phẩm, dịch vụ mà mình mong muốn. Quyền được lựa
chọn sẽ được thực hiện tốt hơn trong nền kinh tế thị trường chống độc quyền, có sự cạnh
tranh lành mạnh.
- Quyền được lắng nghe: Là quyền của người tiêu dùng được bày tỏ ý kiến của mình
đối với các nhà sản xuất, kinh doanh về các loại hàng hóa, dịch vụ do họ cung ứng, kể cả
quan hệ thái độ giữa người mua và người bán cũng như bày tỏ ý kiến với nhà nước, với
các cơ quan hoạch định chính sách pháp luật…về những vấn đề liên quan đến họ.Nhằm
đảm bảo rằng người tiêu dùng sẽ có cơ hội để tham gia vào quá trình xây dựng, thực hiện
chính sách và quá trình phát triển sản phẩm, dịch vụ. Người tiêu dùng có thể trực tiếp góp
ý kiến, thông qua đại diện của mình, thông qua các hội người tiêu dùng các cấp hoặc có
thể tham gia vào các diễn đàn để trao đổi, thảo luận và bảo vệ lợi ích của mình. Các quốc
gia cần thành lập các tổ chức, hiệp hội giành cho người tiêu dùng để họ có thể bày tỏ ý
kiến cho chính phủ hay các doanh nghiệp. Những hành vi không tôn trọng, phớt lờ hoặc
đàn áp ý kiến của người tiêu dùng đều là vi phạm quyền được lắng nghe của người tiêu
dùng. Tôn trọng quyền được lắng nghe của người tiêu dùng vừa là nghĩa vụ, vừa là lợi ích
của các nhà sản xuất kinh doanh, vì thông qua ý kiến của người tiêu dùng họ có thể cải
tiến hàng hóa, dịch vụ nhằm giành được lòng tin của người tiêu dùng, là điều kiện mấu
chốt để doanh nghiệp phát triển.
6


- Quyền được khiếu nại và bồi thường: Khi gặp những thiệt thòi, những điều không
vừa ý trong quan hệ với các nhà sản xuất kinh doanh, người tiêu dùng có quyền được
khiếu nại. Người tiêu dùng có quyền khiếu nại và đòi hỏi bồi thường đối với hoạt động
gian lận thương mại hoặc hành động mang tính bóc lột người tiêu dùng. Người tiêu dùng
cũng có quyền được giải quyết công bằng những khiếu nại chính đáng. Nhà sản xuất kinh
doanh phải bồi thường cho người tiêu dùng nếu sản phẩm, dịch vụ của họ cung ứng

không đúng với nội dung đã giới thiệu, quảng cáo, giao kết hợp đồng. Các khiếu nại của
người tiêu dùng có thể được giải quyết bằng cách hòa giải giữa người cung ứng và người
tiêu dùng hoặc thông qua các cơ quan quản lý nhà nước liên quan, trong trường hợp
không giải quyết được thì có thể thông qua hệ thống tòa án dân sự. Mỗi quốc gia, doanh
nghiệp cần xây dựng cơ chế bồi thường, đền bù đối với những thiệt hại do lỗi của nhà
cung cấp chẳng hạn như thông báo sai, các sản phẩm, dịch vụ không đạt tiêu chuẩn,
không đảm bảo an toàn, giá cả quá cao v.v….Bồi thường thỏa đáng cho những khiếu nại
chính đáng của người tiêu dùng sẽ nâng cao được tín nhiệm của doanh nghiệp, cải thiện
được hình ảnh của doanh nghiệp trong mắt người tiêu dùng.
- Quyền được giáo dục, đào tạo về tiêu dùng: Giáo dục vê tiêu dùng, về những kiến
thức và kỹ năng tiêu dùng sẽ giúp cho người tiêu dùng có hiểu biết về vị thế của mình
trong xã hội, có khả năng tự bảo vệ mình, bảo vệ các quyền của mình, để người tiêu dùng
có thể có đầy đủ khả năng đưa ra sự lựa chọn phù hợp các sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng.
Việc giáo dục người tiêu dùng có thể được thực hiện bằng nhiều hình thức như cung cấp
thông tin, kiến thức thông qua các ấn phẩm, báo chí, các buổi hội thảo, hội nghị, triển
lãm…Nhiều nước đã đưa giáo dục tiêu dùng vào các chương trình giáo dục ở các trường
học. Điều quan trọng khi thực hiện quyền này là cần cung cấp đầy đủ kiến thức, thông tin
cho người tiêu dùng ở khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa.
- Quyền được có môi trường sống lành mạnh và bền vững: Người tiêu dùng không
chỉ cần được tiếp cận với các sản phẩm dịch vụ có chất lượng mà còn có quyền được sống
và làm việc trong môi trường lành mạnh, không gây nguy hại đến tính mạng, tài nguyên
và sinh quyển được bảo vệ,sức khoẻ cho mình và cho các thế hệ tương lai. Người tiêu
dùng cũng được quyền có một môi trường xã hội lành mạnh, trong đó họ được an toàn về
vật chất và tinh thần, được sống hòa hợp và thân ái trong cộng đồng, nhân phẩm được tôn
trọng.
Trách nhiệm của người tiêu dùng
* Tự bảo vệ mình trong tiêu dùng

7



Tại điều 12 của Pháp lệnh Bảo vệ người tiêu dùng có quy định: “Người tiêu dùng có
trách nhiệm tự bảo vệ mình trong việc tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ; thực hiện đúng hướng
dẫn về phương pháp sử dụng hàng hóa, dịch vụ, không được tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ
gây tổn hại đến môi trường, trái với thuần phong mỹ tục, gây nguy hại đến tính mạng, sức
khỏe của mình và cộng đồng.”
Để tự bảo vệ mình thì người tiêu dùng phải trở thành người tiêu dùng thông thái: có
kiến thức về tiêu dùng, về vệ sinh an toàn thực phẩm, biết lựa chọn thực phẩm ngon, tươi,
hợp vệ sinh, không quá hạn sử dụng… Khi mua các mặt hàng thì phải xem giá cả, nhãn
mắc, nơi sản xuất, thời gian sử dụng, bảo hành, có hoá đơn, địa chỉ cụ thể…Nhất là đối
với các loại thuốc uống, thuốc chữa bệnh bao giờ cũng phải làm theo yêu cầu, chỉ dẫn của
bác sĩ và hướng dẫn sử dụng thuốc; hay các mặt hàng công nghệ cao cần phải nắm rõ
cách thức sử dụng để đảm bảo tính an toàn… Nói chung là người tiêu dùng phải có hiểu
biết và kiến thức nhất định để thẩm định được mặt hàng mua sắm và không để trở thành
đối tượng tiêu thụ bị mắc lừa.
Hiện nay, ý thức tự bảo vệ mình của người tiêu dùng Việt Nam vẫn còn chưa cao,
nhiều người tiêu dùng tỏ ra thờ ơ, hoặc không biết quyền của mình khi đi mua các sản
phẩm hàng hoá, dịch vụ. Trong một thời gian dài, do thiếu thông tin tuyên truyền, nhiều
hộ tiêu dùng điện trong cả nước khi đặt bút ký các hợp đồng mua bán điện với các công
ty, chi nhánh điện địa phương không hề biết mình có quyền gì, có trách nhiệm gì, mình
đang chịu “lép vế” hay “bất lợi” ở những điều khoản nào trong hợp đồng. Đây không chỉ
là hậu quả của công tác giáo dục, tuyên truyền, mà còn là hậu quả của thời kỳ bao cấp,
mọi thứ do Nhà nước cung cấp, Nhà nước quyết định, người tiêu dùng chỉ ký hợp đồng
một cách hình thức, cho đủ “lệ bộ” mà thôi.
* Nâng cao kiến thức về tiêu dùng
Nhận thức về tiêu dùng cần phải được nâng cao, người tiêu dùng phải chú ý đến
việc chọn những thương hiệu, nhãn hiệu có uy tín để mua sắm hàng hóa phục vụ cho nhu
cầu hàng ngày của bản thân, gia đình và của tổ chức. Tuy nhiên, phần đông người tiêu
dùng do thiếu thông tin về hàng hóa hoặc do kinh tế khó khăn nên cứ chọn hàng hóa rẻ
để mua mà không chú ý nhiều đến chất lượng sản phẩm, hàng hóa.

Người tiêu dùng phải tự nâng cao kiến thức của bản thân để bảo vệ chính mình, gia
đình và tổ chức của mình khỏi những hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng. Để tránh
mua phải những hàng hóa, dịch vụ không như mong muốn, người tiêu dùng trước hết phải
nắm rõ thông tin về sản phẩm, dịch vụ mà mình định sử dụng, luôn cập nhật thông tin về
sản phẩm, tránh những sản phẩm nguy hại đến sức khỏe, đặc biệt là trong vấn đề lương
thực thực phẩm cần phải được chọn lựa, xem xét kỹ trước khi sử dụng.

8


Lợi ích của người tiêu dùng rất dễ bị tổn thương, các hành vi hạn chế cạnh tranh và
cạnh tranh không lành mạnh, nạn hàng giả hàng nhái, hàng không đạt tiêu chuẩn, chất
lượng vệ sinh hàng hoá và dịch vụ thiếu độ an toàn, giá cả bất hợp lý, vi phạm quyền sở
hữu trí tuệ,... Vấn đề giá cả và độ an toàn của các dịch vụ tài chính, bảo hiểm, ngân hàng.
Vì vậy, khi có bất cứ vấn đề gì làm ảnh hưởng đến sức khỏe, lợi ích của mình, của gia
đình mình, người tiêu dùng phải khiếu nại lên các cơ quan chức năng
* Phát hiện, tố cáo hành vi gian dối trong kinh doanh
Tại điều 13 Pháp lệnh Bảo vệ người tiêu dùng có quy định :“Người tiêu dùng có
trách nhiệm phát hiện, tố cáo các hành vi gian dối về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng,
nhãn hiệu hàng hóa, giá cả và các hành vi lừa dối khác của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ, gây thiệt hại cho mình và cộng đồng theo quy định của pháp
luật.”
Phòng, chống hàng giả, hàng kém chất lượng không chỉ là trách nhiệm của các cơ
quan chức năng, chính quyền địa phương mà còn là của cả người tiêu dùng. Người tiêu
dùng chính là nạn nhân của tệ hàng giả, hàng kém chất lượng. Họ vừa mất tiền, vừa mua
phải thứ hàng không tương xứng, thậm chí là đe dọa đến sức khỏe của mình. Người mua
hàng luôn phải cẩn trọng để là những khách hàng “thông minh” không mua phải hàng giả,
hàng kém chất lượng; đồng thời, tích cực tham gia phát hiện, đấu tranh với tệ nạn đó bằng
cách phối hợp, giúp đỡ cơ quan chức năng phòng ngừa và ngăn chặn, xử lý hiệu quả các
đối tượng, các hành vi gian lận thương mại. Hơn ai hết, chính người tiêu dùng phải trở

thành nhân tố quan trọng để công tác đấu tranh phòng, chống tệ sản xuất, buôn bán hàng
giả, hàng kém chất lượng thu được kết quả ngày càng cao hơn.
* Cảnh báo cho cộng đồng về hàng hóa, dịch vụ không đảm bảo
Khi người tiêu dùng biết được hàng hóa dịch vụ nào gây hại đến sức khỏe, đến lợi
ích của mình thì hãy thông báo cho các cơ quan chức năng và cảnh báo với những người
tiêu dùng xung quanh mình, giúp những người xung quanh tránh được những thiệt thòi
mà mình đã gặp phải.
2. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Tất cả mọi người đều cần trao đổi, mua bán để có những hàng hóa, dịch vụ đáp ứng
nhu cầu của mình, đáp ứng nhu cầu của gia đình, của tổ chức mình. Có thể thấy, người
tiêu dùng bao gồm tất cả mọi người, không phân biệt tuổi tác, thành phần, dân tộc, giới
tính, địa vị xã hội, họ có mặt ở tất cả mọi nơi: thành thị, nông thôn, vùng sâu, vùng xa…
Tuy người tiêu dùng có vai trò quyết định nhưng ít được lắng nghe.

9


Quan hệ kinh tế chủ yếu trong xã hội, bên cạnh quan hệ giữa các nhà sản xuất với
nhau là quan hệ giữa người tiêu dùng và nhà sản xuất kinh doanh. Là lực lượng hết sức
đông đảo nhưng vì chưa nhận thức đầy đủ các quyền và trách nhiệm của mình, không có
đầy đủ kiến thức về mọi mặt và thường hành động riêng lẻ nên trong mối quan hệ giữa họ
với nhà sản xuất kinh doanh, người tiêu dùng đứng ở thế yếu và chịu nhiều thiệt thòi. Bên
cạnh đó, người tiêu dùng còn đang đứng trước nguy cơ sử dụng hàng hóa, dịch vụ thiếu
độ an toàn, đặc biệt là đối với những hàng hóa, dịch vụ thiết yếu và hàng hóa, dịch vụ có
ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của con người. Điều này thật sự đã kìm hãm sự phát
triển của xã hội.
Chính vì vậy mà hàng trăm năm nay nhiều nước đã nhận thấy sự cầm thiết của việc
bảo vệ người tiêu dùng, có chính sách tôn trọng các quyền của người tiêu dùng và có các
biện pháp chống lại lạm dụng của các nhà sản xuất kinh doanh.
Ở Việt Nam, trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung, các nhu cầu thiết yếu của người

tiêu dùng đều được nhà nước phân phối thông qua hệ thống tem phiếu. Qua hai mươi
năm đổi mới, nước ta chuyển mạnh từ nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập
trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Cũng từ đó, quan hệ mua bán,
giao dịch giữa một bên là những người bỏ tiền ra mua hàng hóa, dịch vụ để phục vụ cho
sinh hoạt, tiêu dùng cá nhân, gia đình, tổ chức đã từng bước hình thành và phát triển.
Trong nền kinh tế thị trường, người tiêu dùng luôn có các điểm bất lợi sau:
Vai trò của sản xuất luôn tỏ ra trội hơn so với vai trò tiêu dùng, kể cả trong
mỗi người chúng ta.
Hoạt động sản xuất thì tập trung, tiêu dùng thì phân tán. Kết quả là nhà sản xuất
là các chuyên gia, còn người tiêu dùng chỉ là những tay nghiệp dư.
Các thông tin đến với người tiêu dùng, nhất là giá cả và chất lượng thường
không đầy đủ hay bị bóp méo.
Vai trò của người tiêu dùng ít được ưu tiên hơn so với các đại lý.
Ðôi khi việc cạnh tranh không đầy đủ có thể tạo ra các tình trạng khan hiếm giả
tạo, gây thiệt hại cho người tiêu dùng.
Ưu thế về kinh tế của các doanh nghiệp có thể tác động tạo ra các chính sách có
lợi cho họ. Tuy nhiên người tiêu dùng phải trả tiền cho các chi phí đó, qua sản phẩm.
người tiêu dùng phải trả tiền cho các hành động chống lại chính mình!
Số lượng nhà sản xuất và bán hàng luôn lớn và được tổ chức tốt. Trong khi đó
các tổ chức hoạt động bảo vệ người tiêu dùng chỉ rất hạn chế về số lượng và tổ chức.

10


Trong cơ chế thị trường, người tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn về hàng hóa, dịch vụ
hơn nhưng đồng thời lại đứng trước nguy cơ sử dụng hàng hóa, dịch vụ thiếu độ an toàn,
không đạt tiêu chuẩn, đặc biệt là thực phẩm, mỹ phẩm, dược phẩm. Đồng thời, trên thị
trường xuất hiện nhiều hàng giả, hàng nhái, hàng không tem mác, không rõ nguồn gốc
xuất sứ.
Hiện nay nước ta đang bước vào thời kỳ hội nhập, các loại hàng hóa từ nước ngoài

được nhập khẩu vào trong nước rất nhiều. Đa số các công ty nước ngoài đầu tư vào nước
ta đều mang những dây truyền sản xuất tiên tiến, hiện đại, có kinh nghiệm quản lý. Tuy
nhiên, có một bộ phận nhỏ một số công ty biến Việt Nam làm nơi giải quyết hàng tồn kho,
lắp ráp các dây truyền công nghệ lạc hậu cho nhà máy ở Việt Nam hoặc tiến hành các
chiêu thức tiếp thị gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Một số công ty lẽ ra nên đầu tư vốn
vào sản xuất để đảm bảo chất lượng sản phẩm, dịch vụ thì lại giành những khoản chi phí
khổng lồ cho các chiến dịch quản cáo, tiếp thị. Kết quả là trong nhiều trường hợp chính
người tiêu dùng là nạn nhân của các chiến dịch quảng cáo rầm rộ nhưng thiếu chính xác
và có lúc sai lệch này.
Mặt khác, hiện nay còn xuất hiện một số hình thức kinh doanh mới: bán hàng đa
cấp, kinh doanh qua mạng, bán hàng tại nhà... Nhiều nhà kinh doanh lợi dụng sự thiếu
hiểu biết của người dân về những hình thức kinh doanh này để kiếm lợi. Ví dụ đối với
hình thức bán hàng đa cấp bất chính, người được tuyển dụng vào mạng lưới bán hàng đa
cấp có thể bị lừa bằng nhiều chiêu thức như: bị yêu cầu muốn tham gia phải đóng một
khoản đặt cọc lớn, phải mua một số lượng hàng hóa ban đầu hoặc phải trả một khoản tiền
để được quyền tham gia vào mạng lưới bán hàng đa cấp( ví dụ như của công ty bán máy
lọc ô xy, công ty kinh doanh sản phẩm chức năng)
Trong nền kinh tế thị trường, thị trường chủ yếu do người tiêu dùng điều tiết. Người
tiêu dùng có ảnh hưởng to lớn đến những quyết sách về kinh tế, dù là của khu vực nhà
nước hay của khu vực tư nhân. Người tiêu dùng cũng là đối tượng chịu ảnh hưởng nhiều
nhất của các quyết định về kinh tế. Bảo vệ người tiêu dùng còn là một hoạt động nhằm
thực hiện công bằng xã hội, dân chủ, văn minh, đồng thời cũng nhằm xây dựng một nền
kinh tế bền vững. Khi nền kinh tế càng phát triển thì vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng càng trở nên cần thiết.
Ngoài ra, vấn đề bảo vệ người tiêu dùng còn khá mới mẻ đối với nước ta, vì vậy
còn nhiều người tiêu dùng chưa thực sự hiểu hết được quyền lợi và trách nhiệm của mình.
II. HỆ THỐNG VÀ CHỨC NĂNG CỦA CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TẠI VIỆT NAM.

11



1. Tổ chức bộ máy cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng tại Việt Nam
Sơ đồ hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng:

Cơ quan quản lý nhà nước về Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng:
Trung ương: Bộ Công Thương( Cục Quản lý cạnh tranh)
Địa phương: UBND tỉnh (Sở Thương mại/ Sở Thương mại và du lịch)

Cơ quan có liên quan trực tiếp:

Cơ quan có liên quan khác:

Tổng cục TC-ĐL-CL & các Chi Cục

Bộ KH và CN

Cục Quản lý thị trường & các Chi Cục

Bộ Y tế

Cục Xúc tiến thương mại

Bộ Xây dựng

Cục An toàn vệ sinh thực phẩm

Bộ GTVT


Cục Quản lý chất lượng hàng hóa…

Bộ VH-TT-DL
Bộ NN & PTNT…

12


2. Vai trò và chức năng của các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng tại Việt Nam
2.1. Cơ quan nhà nước cấp Trung Ương( Cục Quản lý cạnh tranh)
Quyền hạn trong công tác bảo vệ người tiêu dùng được quy định theo Nghị định số
06/2006/NĐ-CP ngày 09/01/2006 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của Cục quản lý cạnh tranh:
Xây dựng và trình Bộ trưởng Bộ Thương Mại ( nay là Bộ Công thương) các
văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, tổ chức thực hiện các
văn bản quy phạm pháp luật sau khi được ban hành.
Hướng dẫn kiểm tra, đánh giá và tổng hợp tình hình thực hiện các văn bản quy
phạm pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án đã được phê duyệt về các lĩnh
vực thuộc chức năng của cơ quan quản lý cạnh tranh.
Phát hiện và kiến nghị cơ quan có liên quan giải quyết theo thẩm quyền về
những văn bản đã ban hành có nội dung không phù hợp với quy định của pháp luật về bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền và xử lý vi phạm pháp luật về bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Hợp tác quốc tế trong việc xây dựng và thực thi pháp luật vảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng.
Yêu cầu tổ chức, cá nhân liên quan cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết cho
việc thực hiện các nhiệm vụ được giao, được sử dụng tư vấn trong và ngoài nước trong
trường hợp cần thiết theo yêu cầu của công việc theo quy định của pháp luật.

Tuyền truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật và các chính sách có liên quan đến
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Tổ chức bồi dưỡng, tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán
bộ làm công tác bảo vệ người tiêu dùng.
Thực hiện các nhiệm vụ khác do Bộ trưởng Bộ Thương Mại( nay là Bộ Công
Thương) giao.
2.2. Cơ quan quản lý cấp địa phương (UBND tỉnh, các sở thương mại/ sở thương
mại và du lịch)
Theo điều 12 nghị định số 69/2001/NĐ-CP ngày 02 tháng 10 năm 2001, Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà
nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng như sau:
- Chỉ đạo, đôn đốc các tổ chức, cá nhân thực hiện các quy điịnh của pháp luật về bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng trên địa bàn.

13


- Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng.
- Phối hợp với các cơ quan có liên quan trong hoạt động kiểm tra, thanh tra, xử lý
các vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại địa phương.
- Tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng trong phạm vi quyền hạn hoặc chuyển đến các cơ quan có thẩm quyền để xử lý.
2.3. Các Bộ, Ngành có liên quan
Vai trò và trách nhiệm của các Bộ, Ngành có liên quan được quy định tại điều 10, 11
Pháp lệnh Bảo vệ người tiêu dùng:
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các cơ quan thuộc chính phủ trong chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường
( trên thực tế công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã được chuyển cho Bộ Công
Thương ) thực hiện những nhiệm vụ sau đây:

- Xây dựng trình chính phủ ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp
luật thuộc phạm vi ngành, lĩnh vực của mình quản lý có liên quan đến bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng.
- Chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng trong phạm vi ngành, lĩnh vực mình quản lý.
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng trong phạm vi ngành, lĩnh vực do Bộ, ngành phụ trách.
Đối với một số hàng hóa, dịch vụ đặc thù có liên quan đến môi trường sống, chất
lượng, giá cả, vệ sinh, an toàn, sức khỏe và tính mạng của người tiêu dùng, Chính phủ
giao trách nhiệm cụ thể sau:
- Bộ Thương Mại chủ trì và phối hợp với các Bộ liên quan thực hiện quản lý, kiểm
tra, thanh tra việc lưu thông trên thị trường đối với các loại hàng hóa, dịch vụ bị cấm sản
xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu hoặc sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu có điều kiện;
đối với việc niêm yết giá hàng hóa, dịch vụ và thực hiện theo giá đã niêm yết: tiến hành
xử lý nhằm ngăn chặn việc lưu thông trên thị trường các loại hàng giả, hàng nhái, hàng
kém chất lượng, hàng hóa vi phạm quy chế ghi nhãn hàng hóa, các loại hàng hóa và dịch
vụ không đảm bảo an toàn, gây nguy hại đến sức khỏe người tiêu dùng; thanh tra, kiểm
tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về quảng cáo thương mại theo thẩm quyền.
- Bộ Y tế thực hiện việc quản lý, kiểm tra, thanh tra đối với dược phẩm, dược liệu,
trang thiết bị, dụng cụ y tế, các loại mỹ phẩm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con
người, chất lượng thực phẩm tươi sống, thực phẩm đã qua chế biến công nghiệp; các loại
nước uống, rượu và thuốc lá.

14


- Bộ Xây dựng thực hiện việc quản lý, kiểm tra, thanh tra trong tất cả các khâu từ
quy hoạch, thiết kế, thi công, nghiệm thu công trình xây dựng dân dụng.
- Bộ Giao thông vận tải thực hiện việc quản lý, kiểm tra, thanh tra chất lượng các
phương tiện giao thông vận tải đường thủy, đường bộ, đường sắt, ga đường sắt, bến cảng

và các trang thiết bị sử dụng cùng với phương tiện vận tải nhằm đảm bảo an toàn cho
người tiêu dùng trong các dịch vụ về vận chuyển hoặc khi người tiêu dùng mua để sử
dụng các phương tiện, thiết bị này.
- Cục hàng không dân dụng Việt Nam thực hiện việc quản lý, kiểm tra, thanh tra các
phương tiện vận chuyển hàng không, sân bay, cảng hàng không và cá phương tiện, trang
thiết bị, dụng cụ phục vụ vận chuyển hàng không.
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện việc quản lý, kiểm tra, thanh tra
chất lượng phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây. giống con, các sản
phẩm sinh học phục vụ trông trọt và chăn nuôi, thức ăn gia súc.
- Bộ Công nghiệp chủ trì, phối hợp các Bộ, ngành có liên quan thực hiện việc quản
lý, kiểm tra, thanh tra chất lượng theo quy định của pháp luật đối với các loại hàng hóa
vật liệu nổ công nghiệp, các loại hóa chất công nghiệp, hàng hóa, máy móc, trang thiết bị
công nghiệp.
- Bộ Thủy sản chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan thực hiện việc quản
lý, kiểm tra, thanh tra chất lượng các chủng loại động, thực vật thủy sản, thức ăn cho thủy
sản, hải sản, thuốc bảo vệ và thuốc thú y thủy sản, ngư lưới, dịch vụ đánh cá.
- Tổng cục Bưu điện thực hiện việc quản lý, kiểm tra, thanh tra giá cả, chất lượng
dịch vụ, mạng lưới, vật tư, thiết bị, công trình bưu chính viễn thông, mạng Internet.
- Bộ Khoa học, công nghệ và môi trường thực hiện việc thống nhất quả lý, kiểm tra,
thanh tra hoạt động khoa học, công nghệ và môi trường, tiêu chuẩn đo lường chất lượng,
sở hữu công nghiệp và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo quy định của pháp luật.

CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI
NGƯỜI TIÊU DÙNG TẠI VIỆT NAM

15


Trong những năm gần đây, mỗi năm tổ chức IC (tổ chức Quốc tế người tiêu dùng)

đều lựa chọn các chủ đề hành động khác nhau, chẳng hạn, chủ đề của năm 2004 là người
tiêu dùng và nước sạch, năm 2005: về thực phẩm biến đổi gen. Xuất phát từ thực tế, trên
thế giới vẫn còn gần 2 tỉ người tiêu dùng chưa được tiếp cận với nguồn điện và tình trạng
sử dụng, khai thác năng lượng bừa bãi, không đảm bảo tính bền vững; từ sự lo ngại đối
với những tác động tiêu cực đối với cả hành tinh trong tương lai, IC đã đưa ra chủ đề cho
ngày tiêu dùng thế giới năm 2006 là tiếp cận bền vững nguồn năng lượng cho tất cả mọi
người.
Bảo vệ quyền của người tiêu dùng cũng là một nội dung quan tâm của Liên hợp
quốc. Ý tưởng về việc xây dựng một hướng dẫn quốc tế về bảo vệ người tiêu dùng được
bắt đầu từ cuối những năm 1970, khi Hội đồng kinh tế xã hội nhận thấy: việc bảo vệ
người tiêu dùng có mối quan hệ đặc biệt đến sự phát triển kinh tế, xã hội. Sau nhiều cuộc
thảo luận và đàm phán giữa các chính phủ về phạm vi và nội dung, ngày 9-4-1985, Đại
hội đồng đã bỏ phiếu thông qua nghị quyết 39/248 về các Hướng dẫn bảo vệ người tiêu
dùng. Bản Hướng dẫn này đã đưa ra một khuôn khổ quốc tế chung về thúc đẩy và bảo vệ
người tiêu dùng nhằm hỗ trợ các quốc gia, đặc biệt là quốc gia đang phát triển trong việc
xây dựng và thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng nhằm khuyến
khích hoạt động hợp tác quốc tế trên lĩnh vực này. Cụ thể, bản Hướng dẫn đã đưa ra các
nguyên tắc chỉ đạo để bảo vệ người tiêu dùng trên các lĩnh vực: An toàn về thể chất; Bảo
vệ và thúc đẩy lợi ích kinh tế của người tiêu dùng; Tiêu chuẩn về an toàn và chất lượng
hàng hoá và dịch vụ của người tiêu dùng; Các điều kiện để phân phối hàng hoá và dịch vụ
tiêu dùng thiết yếu; Đánh giá việc hỗ trợ người tiêu dùng được bồi thường; Chương trình
giáo dục và thông tin cho người tiêu dùng; Các biện pháp liên quan đến từng lĩnh vực cụ
thể.

16


Đến đầu những năm 1990, đứng trước nguy cơ mang tính toàn cầu do sự gia tăng
nhanh chóng về mức độ tiêu dùng, yêu cầu thay đổi nhận thức về tiêu dùng được cộng
đồng quốc tế quan tâm nhiều hơn. Năm 1992, Hội nghị về môi trường và phát triển của

Liên hợp quốc đã đưa ra chương trình hành động 21 về phát triển bền vững thông qua xoá
đói nghèo và xoá bỏ những mối đe doạ nghiêm trọng đến môi trường. Chương 4 của
Chương trình hành động này đề cập đến sự thay đổi "khuôn mẫu tiêu dùng" nhằm nhấn
mạnh đến sự cần thiết phải thay đổi khuôn mẫu tiêu dùng theo hướng đảm bảo tính bền
vững để giảm thiểu việc lạm dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên, sử dụng các vật liệu độc
hại gây ô nhiễm môi trường làm ảnh hưởng đến sự phát triển của các thế hệ tương lai.
Tuy nhiên, tiêu dùng bền vững không có nghĩa là giảm mức tiêu dùng mà là tạo ra thay
đổi trong cách tiêu dùng theo hướng hiệu quả, cải thiện chất lượng cuộc sống, đồng thời
có sự chia sẻ để giảm bớt khoảng cách giàu nghèo.
Đến năm 1999, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua nghị quyết bổ sung thêm
nội dung về thúc đẩy tiêu dùng mang tính bền vững vào Hướng dẫn bảo vệ người tiêu
dùng năm 1985. Sự mở rộng này đã tạo ra cơ hội quan trọng để đưa vấn đề bảo vệ môi
trường, phát triển bền vững vào chính sách bảo vệ người tiêu dùng và thúc đẩy mối liên
hệ giữa lợi ích người tiêu dùng và hoạt động tiêu dùng, nhờ đó có thể giúp cho các quốc
gia xây dựng chính sách, pháp luật theo hướng đảm bảo tiêu dùng bền vững .
Mặc dù không phải là văn kiện có giá trị pháp lý nhưng tập hợp các Hướng dẫn của
Liên hợp quốc đã đưa ra những mục tiêu chung được ghi nhận ở cấp độ quốc tế để các
chính phủ, đặc biệt là chính phủ các nước đang phát triển có thể xây dựng và thúc đẩy
chính sách, pháp luật cho người tiêu dùng.
I. NỘI DUNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI
TIÊU DÙNG
Theo điều 18 của pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng số 13/1999/PLUBTVQH 10 ngày 27/4/1999 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nội dung quản lý nhà
nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bao gồm:
+) Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ người
tiêu dùng.
+) Xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng, về tiêu dùng hợp lý, tiết kiệm.
+) Chỉ đạo và phối hợp các hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của các Bộ,
cơ quan trực thuộc chính phủ, hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp.
+) Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

+) Tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật và những hiểu biết liên quan đến việc
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
17


+) Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
+) Kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,
giải quyết khiếu nại, tố cáo của người tiêu dùng, xử ký vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng.
II. CÁC VĂN BẢN PHÁP LÝ VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU
DÙNG
+) Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 1999
+) Nghị định số 69/2001/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng
Các văn bản pháp lý có liên quan
+) Bộ luật dân sự
+) Bộ luật Hình sự
+) Luật Thương mại
+) Luật cạnh tranh
+) Luật tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật
+) Luật Bảo vệ môi trường
+) Pháp lệnh Chất lượng sản phẩm
+) Pháp lệnh Vệ sinh an toàn thực phẩm…
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG HOẠT
ĐỘNG CỦA CƠ QUAN NHÀ NƯỚC VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU
DÙNG Ở VIỆT NAM
1. Thành tựu đạt được
* Bổ sung hoàn chỉnh luật pháp bảo vệ người tiêu dùng và quyền lợi người tiêu
dùng


18


Cũng như nhiều nước trên thế giới, luật pháp Việt Nam là một trong những công cụ,
phương tiện chủ yếu bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Từ sau Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI (tháng 12-1986) đến nay, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp
quy liên quan đến việc bảo vệ người tiêu dùng, đặc biệt “Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng” đã được ban hành (số 13/1999/PL-UBTVQH10, ngày 27-4-1999).
Ngoài ra, liên quan đến chất lượng sản phẩm, Nhà nước quản lý bằng “Pháp lệnh chất
lượng hàng hoá” (số 18/1999/PL-UBTVQH10). Các cơ quan quản lý nhà nước và bảo vệ
pháp luật như Bộ Thương mại, Bộ Công an, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài chính đã
phối hợp ra Thông tư liên tịch số 10/2000/TTLT, ngày 27-04-2000 nhằm chống lại các
hoạt động làm, buôn bán, vận chuyển, tiêu thụ hàng giả, góp phần quan trọng bảo vệ
quyền lợi của người tiêu dùng nước ta. Với sự ra đời của Luật Doanh nghiệp, môi trường
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trở nên bình đẳng hơn. Từ đó, chất lượng hàng hoá,
dịch vụ cung cấp cho người tiêu dùng được nâng lên, giá thành hạ xuống đáng kể. Chẳng
hạn, trong lĩnh vực bưu chính viễn thông, do đảm bảo tính cạnh tranh khách quan hơn
giữa các nhà đầu tư, cung cấp dịch vụ mà trong thời gian gần đây, giá cước điện thoại đã
giảm đáng kể, chất lượng dịch vụ được nâng lên rõ rệt. Trong lĩnh vực bảo hiểm, Nhà
nước cũng đã ban hành một số văn bản pháp quy về một số loại hình bảo hiểm (như bảo
hiểm y tế) đối với một bộ phận người nghèo, trẻ em …Trong lĩnh vực Ngân hàng, Nhà
nước cũng có chính sách thành lập các ngân hàng cho người nghèo vay vốn, đã hình
thành hệ thống các quỹ hỗ trợ người nghèo.
* Xây dựng và vận hành mạng lưới giám sát thực thi pháp luật bảo vệ người tiêu
dùng và quyền lợi người tiêu dùng
Để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Đảng, Nhà nước ta đã xây dựng và vận hành
khá hiệu quả mạng lưới giám sát thực thi pháp luật trực tiếp hoặc gián tiếp bảo vệ quyền
lợi của người tiêu dùng.
- Xây dựng mạng lưới giám sát hành chính. Các ngành quản lý chức năng như Y tế,
Hải quan, Quản lý thị trường, Giám sát kỹ thuật, Tiêu chuẩn đo lường chất lượng, Vệ sinh

phòng dịch, Bảo vệ môi trường… đã phát huy tác dụng góp phần hạn chế những tiêu cực
trong việc đảm bảo chất lượng hàng hoá, hạn chế sự ép buộc mua hàng, chống việc độc
quyền tăng giá, chống hàng giả, hàng nhái v.v.. đã góp phần tích cực trong việc bảo vệ
quyền lợi của người tiêu dùng Việt Nam trong thời gian vừa qua. Đặc biệt, các cơ quan
bảo vệ pháp luật của Bộ Công an đã tích cực triển khai các biện pháp giám sát, kiểm soát,
điều tra phá án nhằm chống lại tệ nạn làm và buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng
đang gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của người tiêu dùng nước ta.

19


- Xây dựng mạng lưới giám sát xã hội. Hiệp hội người tiêu dùng các cấp từ trung
ương xuống địa phương đã được thành lập. Ở cấp trung ương, tháng 5-1988, đã thành lập
Hội khoa học kỹ thuật về tiêu chuẩn hoá, đo lường, chất lượng và bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng Việt Nam, gọi tắt là Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam
(VINASTAS), là thành viên của Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
(VUSTA) đồng thời là thành viên của Tổ chức quốc tế người tiêu dùng (CI). Ở các cấp
địa phương, đến nay trên cả nước đã có 14 tỉnh và thành phố có tổ chức người tiêu dùng.
Đây là các tổ chức phi chính phủ, mang tính xã hội hoá cao. Các tổ chức này đã tích cực
đẩy mạnh các hoạt động tiêu chuẩn hoá, đo lường chất lượng và bảo vệ người tiêu dùng
trong cả nước. Bồi dưỡng nâng cao trình độ về tiêu dùng cho hội viên nhằm tạo ra những
hàng hoá dịch vụ ngày càng có chất lượng tốt hơn. Tích cực thông tin tuyên truyền, giáo
dục cho người tiêu dùng về những quyền của họ, tổ chức giúp đỡ họ tự bảo vệ quyền lợi
của mình. Tham gia kiến nghị với các cơ quan quản lý nhà nước các chủ trương chính
sách và các biện pháp nâng cao chất lượng hàng hoá và dịch vụ.
Trong thời gian, qua các cơ quan báo chí, truyền thông cũng tích cực vào cuộc, đấu
tranh không khoan nhượng với những hiện tượng, việc làm tiêu cực gây ảnh hưởng xấu
đến quyền lợi của người tiêu dùng. Đây chính là sự giám sát dư luận mà các cơ quan
thông tấn báo chí và truyền thông đã tạo ra. Mặc dù sự giám sát dư luận không mang tính
luật pháp nhưng nó tạo ra sức ép dư luận xã hội rất lớn lên các biểu hiện, việc làm gây tổn

hại cho người tiêu dùng.
* Nâng cao khả năng tự bảo vệ của người tiêu dùng
Trong thời gian qua, các cơ quan nhà nước về bảo vệ lợi ích người tiêu dùng kết
hợp với các cơ quan phi chính phủ về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, báo chí tuyên
truyền, đài phát thanh, truyền hình, các tổ chức hội chợ quảng cáo và phối hợp chặt chẽ
với các cơ quan ban ngành khác của Nhà nước đã tích cực tiến hành các hoạt động thông
tin, hướng dẫn, tuyên truyền, giáo dục, nhằm đem lại cho người tiêu dùng các kiến thức,
nhận thức về quyền lợi của mình, về quyền được bảo vệ trong xã hội, từ đó tạo ra ý thức
thường trực tự bảo vệ. Các hoạt động này được tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau:
xuất bản các ấn phẩm như tờ bướm, bản tin, tạp chí nhằm phổ biến kiến thức, trao đổi
thông tin về chất lượng sản phẩm, về quyền được bảo vệ của người tiêu dùng trước vấn
nạn hàng giả, hàng nhái, trước các dịch vụ chất lượng thấp... Qua các hoạt động đó, cập
nhật thông tin cần thiết cho người tiêu dùng.Các cơ quan quản lý nhà nước và hội bảo vệ
người tiêu dùng Việt Nam đã chủ dộng, thường xuyên tổ chức các hội thảo, các cuộc toạ
đàm, hội nghị bàn tròn, các buổi gặp gỡ trao đổi ý kiến về những vấn đề cần quan tâm
xung quanh quyền của người tiêu dùng và bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.
20


2. Một số tồn tại, bất cập
* Luật không đồng bộ, kém hiệu lực
Chế định về quản lý nhà nước luôn là chế định rất quan trọng ở trong bất kỳ lĩnh vực
nào, đóng vai trò quyết định trong việc thực thi các quy định của pháp luật trên thực tế.
Pháp lệnh bảo vệ quyền và lợi ích người tiêu dùng cũng như Nghị định số 69 đã dành hẳn
một chương để quy định các vấn đề về quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng. Tuy
nhiên, cho đến nay các quy định này đã thể hiện những bất cập làm ảnh hưởng đến hiệu
quả hoạt động bảo vệ người tiêu dùng:
Thứ nhất, thiếu công cụ pháp luật để cơ quan nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng
có thể thực thi vai trò của mình. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình, cơ quan
nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng không thể thực hiện những biện pháp xử lý nhằm

đảm bảo các quy định của pháp luật được thực hiện nghiêm túc, ví dụ khi có vụ việc ảnh
hưởng đến người tiêu dùng, cơ quan nhà nước có thẩm quyền không thể độc lập thực hiện
việc xử lý các vụ việc này mà phải nhờ tới sự giúp đỡ của cơ quan có liên quan khác và
việc các cơ quan này có thực hiện việc phối hợp hay không cũng không có quy định cụ
thể.
Thứ hai, còn mang nặng tính hình thức: Các quy định về nội dung quản lý nhà nước
về bảo vệ người tiêu dùng thể hiện tính chung chung, khó thực hiện. Ví dụ, Khoản 7Điều 18 Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng như Khoản 4- Điều 9 Nghị định
số 69/2001/NĐ-CP quy định: “Hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra tổ chức và các cá nhân
trong việc thi hành pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; giải quyết các khiếu
nại, tố cáo; xử lý các vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong phạm
vi thẩm quyền”. Đây thực sự là một quy định hết sức quan trọng để cơ quan quản lý nhà
nước về bảo vệ người tiêu dùng có thể thực hiện tốt vai trò, nhiệm vụ của mình trên thực
tế. Tuy nhiên, việc thanh tra, kiểm tra thế nào? Nội dung thanh tra? Đối tượng thanh tra,
kiểm tra? Trình tự, thủ tục thanh tra, kiểm tra thế nảo? Xử lý vi phạm ra sao? Tất cả
những vấn đề đó vẫn chưa được giải quyết trong các văn bản pháp luật hiện hành.

21


Ngoài ra, các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng
cho đến nay đã thể hiện sự lạc hậu, không cập nhật các yêu cầu của cuộc sống, đặc biệt
trong thời hội nhập, “hậu WTO” và thương mại điện tử. Do các cơ quan nghiên cứu pháp
luật, các cơ quan lập pháp của chúng ta không theo kịp sự phát triển nhanh chóng của thị
trường, của cuộc sống xã hội nên đã không kịp thời trong việc ban hành một hệ thống luật
pháp đồng bộ, có khả năng điều chỉnh các vấn đề kinh tế - xã hội, bảo vệ được quyền lợi
chính đáng của người tiêu dùng. Mặc dù cho đến nay đã có khá nhiều văn bản pháp lý
chứa đựng một số nội dung liên quan đến bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, nhưng
còn rời rạc (đôi khi chồng chéo, phủ định nhau), chưa có sự gắn kết thành một hệ thống
đồng bộ điều chỉnh các yếu tố về người tiêu dùng và quyền lợi người tiêu dùng. Cũng
chính sự rời rạc, thiếu tính hệ thống đó đã tạo ra nhiều kẽ hở nghiêm trọng để một số cá

nhân, tổ chức kinh tế vẫn “lách” được, tránh được luật pháp khi vi phạm quyền của người
tiêu dùng. Đây cũng là nguyên nhân gây khó khăn cho các cơ quan thực thi pháp luật ,
dẫn tới vừa làm giảm uy quyền của luật pháp vừa làm giảm hiệu lực của các cơ quan thực
thi pháp luật.
* Hoạt động của các cơ quan giám sát, thực thi pháp luật bảo vệ người tiêu dùng
còn nhiều hạn chế
Mạng lưới giám sát hành chính chưa mạnh, hoạt động quan liêu, bị chi phối bởi
nhiều cơ quan công quyền khác.
- Đấu tranh chống hàng giả nhìn chung chưa hiệu quả, mang nặng tính phong trào,
hình thức.
Tại Việt Nam, trong năm qua Cục Quản lý Thị trường đã công bố hàng ngàn mẫu
hàng giả, hàng nhái được xác minh, tịch thu. Chỉ tính đến tháng 6-2015, lực lượng Cảnh
sát Điều tra tội phạm kinh tế cũng đã lập 5.700 hồ sơ cá nhân đối tượng sản xuất buôn bán
hàng giả.
Trong 5 năm (2010 - 2015), lượng hàng hóa giả đã bị bắt giữ bao gồm: 35.450 chai
rượu các loại,12 tấn bột ngọt, 95.000 tấn xi măng, 32 tấn mỹ phẩm các loại, 35 triệu cơ số
thuốc tân dược, 75.000 chai bia, nước ngọt, đồ uống, 23 tấn bánh kẹo v.v…
Hầu hết, hàng giả xuất hiện ở tất cả mọi lĩnh vực, từ những sản phẩm hàng hóa có
giá trị rất thấp như hộp diêm, cây con giống, nén nhang, gói bột màu đến những hàng hóa
mang trị giá cao như hàng may mặc, đồ gia dụng, sắt, thép, thuốc bảo vệ thực vật, phụ
tùng xe máy, điện tử, điện lạnh.
Bảng 1: Hàng giả, hàng kém chất lượng về VSATTP do lực lượng Quản lý thị
trường thu giữ từ năm 2013 đến năm 2015
Số
TT

Mặt hàng

2013


2014

2015

Tịch thu hàng

22


1
2
3
4
5

Rượu (chai)
Bia (chai, lon)
Nước giải khát các loại
(chai, lon)
Nước khoáng (chai)

6
7

Nước mắm, nước chấm
(lít)
Mì chính (kg)
Bánh kẹo các loại (kg)

8

9
10
11
12

Thuốc lá (bao)
Sữa hộp (kg)
Thịt cá hộp (hộp)
Mì ăn liền (gói)
Tôm (kg)

9.878
9.001

26.240
7.454

13.216
13.394

Giả, kém chất lượng
Giả, kém chất lượng

90.896

31.210

27.366

Quá hạn sử dụng


35.331

2.691

15.247

16

26

10.939

2.291,2

6.676

3.361

8.493

16.778

2.762

3.126
4.835
5.366
730


3.786
48.310
7.551
1.850

575
7.960
536
898

19.371

9.779

518

Giả nhãn hiệu, quá hạn sử
dụng
Giả nhãn hiệu, kém chất
lượng
Giả nhãn hiệu
Kém chất lượng, quá hạn
sử dụng
Giả nhãn hiệu
Giả,quá hạn sử dụng
Giả,quá hạn sử dụng
Quá hạn sử dụng
Tiêm chích tạp chất, kém
chất lượng


(Nguồn: Tài liệu hội nghị tổng kết VSATTP 2015)
* Sự yếu kém trong nhận thức và phối hợp hoạt động của các ngành các cấp thuộc
các cơ quan thực thi pháp luật
Nhận thức của mỗi cá nhân, tập thể các ngành các cấp thuộc các cơ quan thực thi
pháp luật đối với quyền của người tiêu dùng là hết sức quan trọng. Nếu không có nhận
thức đúng, đầy đủ sẽ dẫn tới thái độ xem thường, lơ là, đôi khi vô trách nhiệm trong việc
thực thi bảo vệ người tiêu dùng. Thực tiễn cho thấy, sau hơn 10 năm Pháp lệnh vệ sinh an
toàn thực phẩm có hiệu lực, Quảng Trị mới chỉ cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện vệ sinh
an toàn thực phẩm cho 526 cơ sở. Như vậy, số cơ sở đủ điều kiện sản xuất và kinh doanh
hợp pháp mới chỉ đạt hơn 5 % còn gần 95% cơ sở chưa được kiểm tra, kiểm soát, đồng
nghĩa với việc bị thả nổi hay chỉ kiểm soát được một phần. Thực tế cho thấy, tất cả các vụ
ngộ độc thực phẩm đã xảy ra đều liên quan đến các cơ sở sản xuất kinh doanh chưa có
giấy chứng nhận đủ điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm.
Công tác thanh tra, kiểm soát kém hiệu quả, không thường xuyên, mang tính hình
thức của các cơ quan chức năng đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh của xã hội
cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới chất lượng hàng hoá dịch vụ không đáp ứng
ngang bằng với giá cả của nó. Điều này cũng dẫn tới thiệt hại cho người tiêu dùng. Chẳng
hạn, nếu các cơ quan thanh tra giám sát xây dựng nhà ở, cơ quan kiểm soát chất lượng
làm việc thường xuyên, nghiêm túc, minh bạch thì có lẽ hiện tượng “rút ruột” công trình
xây dựng sẽ ít hơn nhiều.

23


×