Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Nhà nước phải làm tốt chức năng kiến tạo phát triển để phát huy tốt nhất quyền làm chủ của nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.32 KB, 15 trang )

Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI

TIỂU LUẬN
MÔN : ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Đề Tài :
Nhà nước phải làm tốt chức năng kiến tạo phát triển để
phát huy tốt nhất quyền làm chủ của Nhân dân

Họ Tên

: Nguyễn Văn Hải

Lớp

: DL 17-08

MSV

: 12103861

Hµ Néi, năm 2014


A : Phần mở :
Chúng ta quan niệm dân chủ (với nghĩa nhân dân làm chủ, trước hết làm
chủ về chính trị tức nhân dân là chủ thể của quyền lực trong quốc gia) vừa là
động lực, vừa là mục đích và bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Trong Công thức “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”
được nêu lên từ Đại hội VIII không có từ “dân chủ” vì cho rằng xã hội “công


bằng, văn minh” phải là xã hội dân chủ, “công bằng, văn minh” bao hàm dân
chủ. Sau Đại hội VIII, Đảng nhận thấy cần bổ sung từ “dân chủ” vào công thức
nói trên vì dân chủ là một tiêu chí quan trọng không thể thiếu được khi nói về
chủ nghĩa xã hội và dân chủ có nội dung riêng, tương đối độc lập, không thể
lồng ghép vào các khái niệm khác.
“Dân chủ’ trong cụm từ chúng ta đang bàn luận không phải dân chủ
chung chung không có tính lịch sử và tính giai cấp, không phải dân chủ hình
thức, dân chủ cho một số ít người có điều kiện để hưởng dân chủ, cũng không
phải dân chủ chỉ về mặt nào đó như quyền phổ thông đầu phiếu chẳng hạn. Dân
chủ với tính cách một tiêu chí của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là dân chủ theo
tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là dân là chủ đất nước và dân làm chủ mọi công
việc của đất nước quan hệ đến lợi ích, cuộc sống của mình; không chỉ làm chủ
về chính trị mà còn làm chủ trong kinh tế, xã hội. Quan trọng của dân chủ là vấn
đề quyền lực trong quốc gia trong tay ai? Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiều quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới xây dựng là trách nhiệm của dân
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân
Chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương do dân cử ra
Đoàn thể từ trung ương đến xã do dân tổ chức nên
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(7)

2


Từ ngày khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nước ta đã là nước
dân chủ, kỷ nguyên chính quyền ở trong tay thiểu số (phong kiến, thực dân) đã
chuyển sang kỷ nguyên độc lập tự do dân chủ, chính quyền ở trong tay đa số,
trong tay nhân dân. Từ 1945 đến nay đã diễn ra quá trình xây dựng nền dân chủ

nhân dân, và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Thành tựu là to lớn, nhưng
mới chỉ là bước đầu. Nền dân chủ non trẻ của đất nước nước ta còn đứng trước
hàng loạt vấn đề thực tiễn và lý luận.
Mục tiêu “dân chủ” trong công thức “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh” có nội dung phong phú, có trình độ cao hơn nhiều so
với trình độ dân chủ hiện nay.
Dân chủ là giá trị lớn của loài người trong lịch sử và trong thời đại ngày
nay. Có ý kiến nói trong mục tiêu “dân chủ”, chúng ta không nên phân biệt dân
chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Quan điểm đó không đúng. Chúng ta
phải kế thừa rất nhiều, học hỏi rất nhiều ở dân chủ tư sản, song dân chủ mà
chúng ta xây dựng khác về bản chất với dân chủ tư sản. Trong xã hội tư bản hiện
đại, dân chủ tư sản đã phát triển ở trình độ cao, song quyền quyết định các công
việc lớn của nhà nước và xã hội về thực chất không thuộc về đa số nhân dân,
trên thực tế thuộc quyền các tập đoàn tư bản lũng đoạn, mặc dầu các quyết định
đó được đưa ra từ các cơ quan quyền lực dân cử. Vấn đề là các cơ quan đại biểu
quyền lực “của nhân dân” thực tế do ai dựng lên, đại biểu quyền lợi của ai, trong
hoạt động chịu sự chi phối của ai? Có chính quyền tư sản nào có thể làm điều gì
đó trái với lợi ích, ý chí của các tập đoàn tư bản lũng đoạn? Nhưng nó hoàn toàn
có thể, trong trường hợp “cần thiết”, hành động ngược lại với lợi ích của đa số
nhân dân.
Dân chủ có các cơ chế, thiết chế bảo đảm. Qua tổng kết thực tiễn, C.Mác
đi đến kết luận rằng chế độ cộng hòa đại nghị là thiết chế hoàn bị nhất của nền
dân chủ tư sản. C.Mác, Ph.Ăng-ghen, V.Lê-nin đã ra sức tìm tòi các hình thức,
thiết chế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nhưng C.Mác và Ph.Ăng-ghen do
chưa có thực tiễn, còn V.Lê-nin do thời gian lãnh đạo chính quyền Xô Viết quá
ngắn ngủi, nên các vị chưa đi đến những kết luận có tính chất đột phá về vấn đều
nêu trên.
3



Qua tổng kết thực tiễn, Đảng ta đi đến nhận định quan trọng rằng muốn
hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phải hoàn thiện hệ thống pháp luật xã
hội chủ nghĩa, xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa trong
khuôn khổ pháp luật xã hội chủ nghĩa. Trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống
chính trị xã hội chủ nghĩa, khâu quan trọng nhất là xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Dưới
chủ nghĩa xã hội “dân chủ” và “chuyên chính” đều trong khuôn khổ hiến pháp,
luật pháp được nhân dân tạo lập theo cơ chế dân chủ. Sự hình thành nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa không chỉ là sự thay đổi phương thức “quản lý”,
phương thức thi hành quyền lực (do nhân dân ủy quyền) của Nhà nước, mà còn
là sự đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và xã hội theo
hướng dân chủ hóa, pháp chế hóa sự lãnh đạo của Đảng. Dưới chủ nghĩa xã hội,
dân chủ không chỉ là một chế độ nhà nước mà còn tồn tại với tư cách một chế độ
tự quản của nhân dân đối với mọi hoạt động xã hội. Do vậy, vai trò quản lý xã
hội của các đoàn thể nhân dân ngày càng tăng lên.
Đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của các thiết chế chính trị xã hội (Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị xã hội) là để thực hiện mục tiêu
duy nhất: làm cho nguyên tắc “bao nhiêu quyền hạn đều của dân” được thực
hiện một cách đầy đủ nhất, làm cho quần chúng nhân dân đông đảo thật sự quản
lý nhà nước, quản lý xã hội vừa gián tiếp, vừa trực tiếp, chủ yếu là phương thức
trực tiếp (khái niệm “quản lý” bao hàm cả thực thi quyền lực).
Chỉ cần nhìn vào những đặc trưng ở trên là ta đã có thể thấy rõ ràng rằng
Nhà nước
này được Xây dựng cho Nhân dân – Vì nhân dân – Phục vụ Nhân dân.
Chính bỡi lẽ đó mà ta có thể hiểu được nhiệm vụ : “Nhà nước phải làm tốt chức
năng kiến tạo phát triển để phát huy tốt nhất quyền làm chủ của Nhân dân” là
hoàn toàn đúng đắn và hợp lý. Để chứng minh cho sự đúng đắn này, em xin
phép làm bài tiểu luận về vấn đề trên. Trong bài viết còn có những điêu thiếu
sót, hay chưa được chính xác em kính mong Thầy(cô) giúp em sửa chữa để em
có thể hoàn thiện và làm bài tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn.


4


B : Phần Thân :

Nhà nước phải làm tốt chức năng kiến tạo phát triển trên các
phương diện :
1.Chính trị
2.Kinh tế
3.Xã hội
Trong năm qua, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đã nỗ lực vượt qua
nhiều khó khăn, thách thức, đạt được những kết quả quan trọng. Kinh tế vĩ mô
ổn định tốt hơn, tăng trưởng cao hơn và lạm phát thấp hơn năm 2012. Văn hóa,
xã hội, bảo vệ môi trường có bước tiến bộ. Quốc phòng, an ninh được bảo đảm.
Hoạt động đối ngoại đạt nhiều thành tựu. Chính trị - xã hội ổn định. Vị thế nước
ta trên trường quốc tế được nâng cao.
Thực hiện Kết luận của Trung ương Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã có
Nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội năm 2014. Trong đó xác định Tăng
cường ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tháo gỡ khó khăn, tạo thuận
lợi cho sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế, phấn đấu đạt mức
tăng trưởng cao hơn năm 2013. Bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và cải
thiện đời sống nhân dân. Tăng cường quốc phòng, an ninh. Nâng cao hiệu quả
công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế
Mặc dù kinh tế thế giới đã có những tín hiệu phục hồi; kinh tế - xã hội
nước ta chuyển biến tích cực nhưng khó khăn, thách thức còn lớn, đòi hỏi cả hệ
thống chính trị phải thống nhất hành động với quyết tâm cao để hoàn thành
thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2014. Đồng thời triển khai
quyết liệt, đồng bộ các nhiệm vụ trung và dài hạn nhằm tạo nền tảng cho
phát triển nhanh và bền vững. Tập trung nỗ lực xây dựng Nhà nước pháp
quyền, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của Nhân dân, hoàn thiện thể chế

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tái cơ cấu nông nghiệp
gắn với xây dựng nông thôn mới.
5


Chúng ta đang sống trong thời đại toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế sâu
rộng. Việc tham gia các Hiệp định thương mại tự do với yêu cầu cao hơn, toàn
diện hơn tạo ra nhiều cơ hội cho hợp tác cùng phát triển nhưng sự tùy thuộc lẫn
nhau cũng tăng lên và cạnh tranh ngày càng gay gắt. Báo cáo thường niên của
nhiều tổ chức quốc tế đều xếp hạng năng lực cạnh tranh của các nền kinh tế.
Đây là chỉ báo tham khảo quan trọng về vị trí của từng quốc gia trong cuộc ganh
đua toàn cầu. Quốc gia nào có năng lực cạnh tranh cao sẽ có nhiều cơ hội để
vượt lên, phát triển nhanh và bền vững.
Năng lực cạnh tranh được quyết định bởi nhiều yếu tố, trong đó chất
lượng thể chế và môi trường kinh doanh có tầm quan trọng hàng đầu. Chất
lượng thể chế không chỉ tác động như một yếu tố tự thân mà còn ảnh hưởng có
tính quyết định đến môi trường kinh doanh, năng lực cạnh tranh của cả nền kinh
tế, của từng doanh nghiệp và là điều kiện tiên quyết để phát huy có hiệu quả lợi
thế quốc gia. Không thể có được năng lực cạnh tranh cao nếu không có một thể
chế chất lượng cao và một nền quản trị quốc gia hiện đại.
Nhìn lại gần 30 năm qua, những bước phát triển vượt bậc của đất nước ta
đều gắn liền với những đổi mới có tính quyết định về thể chế, bản chất là mở
rộng dân chủ, thực hiện cơ chế thị trường trong hoạt động kinh tế mà bước đột
phá lớn và toàn diện là từ Đại hội VI của Đảng.
Đột phá trong quản lý nông nghiệp bắt đầu từ Khoán 10 đã đưa Việt Nam
từ thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản hàng đầu
thế giới. Mở rộng mạnh mẽ quyền tự do kinh doanh với việc ban hành Luật công
ty, Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật đầu tư nước ngoài... đã đưa nền kinh tế
nước ta ra khỏi trì trệ, phát triển năng động với tốc độ cao. Chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế đã tạo ra không gian phát triển mới, rộng mở hơn.

Những quyết sách đổi mới phù hợp của Đảng và Nhà nước ta đã đưa Việt
Nam từ một nước kém phát triển trở thành quốc gia đang phát triển có thu nhập
trung bình và công cuộc xóa đói giảm nghèo đạt thành tựu ấn tượng, được cộng
đồng quốc tế đánh giá cao.

6


Trong những năm gần đây, năng lực cạnh tranh của nước ta chậm được
cải thiện. Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng đã chậm lại. Xã hội
có không ít vấn đề bức xúc. Một trong những nguyên nhân là động lực mà
những cải cách trước đây tạo ra đã không còn đủ mạnh để thúc đẩy phát triển.
Đây là lúc chúng ta cần có thêm động lực để lấy lại đà tăng trưởng nhanh và
phát triển bền vững. Nguồn động lực đó phải đến từ Đổi mới thể chế và phát
huy mạnh mẽ quyền làm chủ của Nhân dân.
Dân chủ là tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã chỉ rõ Nước
ta là một nước dân chủ, mọi quyền lực đều thuộc về Nhân dân. Đảng ta đã
khẳng định Dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực trong xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Dân chủ cũng là xu thế khách quan trong tiến trình phát triển của xã
hội loài người. Từ chế độ nô lệ lên chế độ phong kiến và từ chế độ phong kiến
lên chế độ tư bản là những bước tiến dài về dân chủ. Chế độ xã hội chủ nghĩa
mà chúng ta đang xây dựng phải ưu việt hơn về dân chủ và Đảng ta phải nắm
chắc ngọn cờ dân chủ. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước
cũng là nhằm phát huy tốt hơn quyền làm chủ của Nhân dân. Dân chủ sẽ phát
huy khả năng sáng tạo của mỗi người, góp phần xóa bỏ mặc cảm, tăng cường
gắn kết xã hội và khối Đại đoàn kết toàn dân tộc.
Trong điều kiện khoa học và công nghệ phát triển rất nhanh, đặc biệt là
công nghệ thông tin, thế hệ trẻ nước ta được trang bị kiến thức ngày càng cao và
phần lớn thường xuyên truy cập internet để giao lưu, học hỏi, khám phá và
chiêm nghiệm thực tế. Thế hệ này đang và sẽ đóng vai trò quyết định đối với sự

phát triển cũng như vận mệnh của đất nước. Đây vừa là áp lực vừa là điều kiện
thuận lợi để chúng ta tăng cường dân chủ và hoàn thiện thể chế.
Dân chủ và Nhà nước pháp quyền là cặp “song sinh” trong một thể chế
chính trị hiện đại. Cùng với bảo đảm quyền dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc
biệt quan tâm đến việc xây dựng Nhà nước pháp quyền. Đây là mối quan hệ
giữa dân chủ và kỷ cương. Người viết “Trăm điều phải có thần linh pháp
quyền”. Nhà nước pháp quyền phải thượng tôn pháp luật. Pháp luật phải bảo
đảm được công lý và lẽ phải. Mọi hạn chế quyền tự do của công dân phải được
7


xem xét cẩn trọng và chủ yếu nhằm bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm an ninh quốc gia,
trật tự an toàn xã hội và những giá trị văn hóa, lịch sử, đạo đức tốt đẹp của dân
tộc. Người dân có quyền làm tất cả những gì pháp luật không cấm và sử dụng
pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cơ quan nhà nước và
cán bộ, công chức chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép. Mọi quyết
định quản lý của Nhà nước đều phải minh bạch.
Hiến pháp sửa đổi năm 2013 vừa được Quốc hội thông qua đã mở ra
không gian Hiến định mới để chúng ta thực hiện tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Không một quốc gia nào có thể thực hiện quyền dân chủ trực tiếp ở
tất cả các cấp cũng như trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nhưng dân
chủ trực tiếp càng sâu rộng và thực chất thì dân chủ đại diện càng hiệu quả. Vì
vậy, phải đặt mối quan hệ giữa dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trong tổng
thể các giải pháp bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân. Phải mở rộng dân chủ
trực tiếp và hoàn thiện cơ chế bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
Sớm thực hiện thí điểm Nhân dân trực tiếp bầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã
theo Nghị quyết Trung ương 5 khóa X. Đồng thời, phải hoàn thiện cơ chế phản
biện xã hội, tăng cường sự tham gia của người dân vào quá trình xây dựng chính
sách và lựa chọn cán bộ. Nâng cao chất lượng hoạt động chất vấn của Quốc hội,
Hội đồng nhân dân các cấp và trách nhiệm giải trình của người đứng đầu cơ

quan hoạch định chính sách.
Để phát huy tốt nhất quyền làm chủ của Nhân dân, Nhà nước phải làm
tốt chức năng kiến tạo phát triển. Nhà nước không làm thay dân mà phải tập
trung xây dựng khuôn khổ thể chế phù hợp và tạo điều kiện cần thiết để mọi
người phát huy năng lực và sức sáng tạo vì lợi ích của chính mình và đóng góp
cho xã hội. Chỉ khi dân giầu thì nước mới mạnh. Xã hội hóa không chỉ để huy
động các nguồn lực mà còn tạo điều kiện cho xã hội thực hiện những chức năng,
những công việc mà xã hội có thể làm tốt hơn. Và chỉ như vậy mới có thể xây
dựng được một bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.
Nhà nước phải bảo đảm và phát huy được quyền làm chủ thực sự của
người dân, nhất là quyền tham gia xây dựng chính sách, quyền lựa chọn người
8


đại diện cho mình và quyền sở hữu tài sản. Quyền làm chủ phải đi đôi với trách
nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân mà trước hết là phải tuân thủ pháp luật.
Nhà nước phải tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng theo cơ chế thị
trường; kiểm soát chặt chẽ và xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp cũng như những
cơ chế chính sách dẫn đến bất bình đẳng trong cạnh tranh. Pháp luật và cơ chế
chính sách phải tạo thuận lợi nhất cho mọi người dân và doanh nghiệp phát triển
sản xuất kinh doanh. Tài nguyên, nguồn lực của quốc gia phải được phân bổ tới
những chủ thể có năng lực sử dụng mang lại hiệu quả cao nhất cho đất nước.
Nhà nước phải có chính sách đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và
huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đáp
ứng yêu cầu phát triển. Phải chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tạo môi trường
và điều kiện thuận lợi để xây dựng và bảo vệ đất nước.
Nhà nước phải xây dựng cho được bộ máy tinh gọn, hiệu lực hiệu quả với
đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, năng lực và tính chuyên nghiệp cao.
Mọi cơ quan, công chức đều phải được giao nhiệm vụ rõ ràng. Việc đánh giá tổ
chức, cán bộ, công chức phải căn cứ vào kết quả hoàn thành nhiệm vụ. Phải hoàn

thiện tiêu chí đánh giá và cơ chế kiểm soát thực thi công vụ. Người đứng đầu cơ
quan hành chính phải chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện chức năng nhiệm vụ
được giao và phải được trao quyền quyết định tương ứng về tổ chức cán bộ.
Phải tăng cường tương tác giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước và
giữa bộ máy nhà nước với các tổ chức Chính trị - xã hội. Mở rộng đối thoại với
người dân và doanh nghiệp bằng nhiều hình thức để Nhà nước, cán bộ, công
chức gần dân hơn và chủ trương, chính sách, pháp luật sát với thực tiễn hơn. Sự
phối hợp giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp phải trên cơ sở bảo đảm
tính độc lập theo chức năng được phân công và yêu cầu kiểm soát lẫn nhau, bổ
trợ cho nhau theo quy định của pháp luật. Đẩy mạnh phân cấp, phát huy chủ
động, sáng tạo của cấp dưới, đồng thời bảo đảm quản lý thống nhất của cả hệ
thống. Thường xuyên tăng cường ổn định chính trị - xã hội.
Trên tinh thần đó, năm 2014 phải tập trung sức cao nhất xây dựng, sửa
đổi các luật để thực hiện Hiến pháp. Đồng thời rà soát bổ sung thể chế - cơ chế
9


chính sách, kiện toàn tổ chức bộ máy nhằm tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nhà
nước pháp quyền, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của Nhân dân và hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng cường
hiệu lực hiệu quả thực thi pháp luật, kỷ luật kỷ cương, xây dựng bộ máy nhà
nước trong sạch, vững mạnh. Đề cao trách nhiệm của tập thể Chính phủ và từng
thành viên Chính phủ trong việc xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật, bảo đảm tiến độ và chất lượng.
II) Quyền làm chủ của Nhân dân thể hiện :
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến quyền làm chủ của Nhân dân, coi
đó là mục tiêu cơ bản nhất và xuyên suốt của cuộc cách mạng. Người nói: “Suốt
bao năm trường, Đảng ta cùng quân và dân ta đã anh dũng hy sinh chiến đấu,
đánh đổ thực dân, phong kiến để giành lại cho nhân dân lao động cái quyền làm
chủ nước nhà”. Người luôn nhấn mạnh, chế độ xã hội của chúng ta do Nhân dân

lao động làm chủ, dân chủ là dân làm chủ và dân là chủ.
Trong suốt 84 năm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng ta luôn đề cao
vai trò của Nhân dân và quyền làm chủ của Nhân dân. Trong “Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011)”, Đảng ta chỉ rõ: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ
ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và
từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực
hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực”. “Nhân dân thực
hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính
trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện”.
Theo kim chỉ nam chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thể
chế hóa quan điểm của Đảng, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam (được sửa đổi năm 2013) đã bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/1/2014.
Trong bản Hiến pháp lịch sử đó, nội dung bao trùm nhất là đề cao quyền
lực của Nhân dân và quyền làm chủ của Nhân dân. Hiến pháp long trọng tuyên
bố: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả
10


quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Cũng trong bản Hiến pháp
này, lần đầu tiên chữ “Nhân dân” đã được viết hoa trong các văn cảnh nói tới
Nhân dân. Đây chính là điểm nhấn mới, nhấn mạnh Nhà nước ta là của Nhân
dân, Nhân dân là chủ thể của xã hội và là chủ thể tối cao quyền lực của Nhà
nước. Hiến pháp sửa đổi 2013 thể hiện quyền làm chủ của Nhân dân theo một số
nội dung
Thứ nhất, xác định phương thức cụ thể để Nhân dân thực hiện quyền lực
của mình đối với xã hội và nguyên tắc Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước.
Điều 6 Hiến pháp ghi rõ: “Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước bằng dân
chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và

thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam,
Hiến pháp đã thể hiện rõ hơn và sâu sắc hơn bản chất tiên phong và bản chất vì
Nhân dân của Đảng, đồng thời bổ sung một yêu cầu rất quan trọng là “Đảng gắn
bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân,
chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”. Hiến pháp qui
định cụ thể việc Nhân dân (cử tri) bầu ra người đại diện cho ý chí và nguyện
vọng của mình làm đại biểu Quốc hội. Điều 7 Hiến pháp qui định rõ (1) “Việc
bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến hành theo
nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín”. (2) “Đại biểu Quốc
hội, đại biểu Hội đồng nhân dân bị cử tri hoặc Quốc hội, Hội đồng nhân dân bãi
nhiệm khi không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của Nhân dân”. Đó là những
hình thức cụ thể bảo đảm cho Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình.
Thứ hai, Hiến pháp đề cao quyền con người. Chương 2 của Hiến pháp sửa
đổi có 35 điều qui định quyền con người, quyền công dân. Các điều qui định đó
được thể hiện một cách cụ thể, đầy đủ, chính xác và có tính khả thi cao. Điều 14
đã ghi rõ: (1) “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công
nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”; (2) “Quyền con
người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo qui định của luật trong trường
11


hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo
đức xã hội, sức khỏe cộng đồng”.
Thứ ba, Hiến pháp qui định, Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình
bằng việc kiểm soát quyền lực Nhà nước. Nhân dân là chủ thể tối cao quyền lực
Nhà nước nên phải kiểm soát được quyền lực Nhà nước. Việc kiểm soát đó bao
gồm kiểm soát quyền lực Nhà nước ở bên trong là kiểm soát việc thực thi lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Kiểm soát quyền lực Nhà nước ở bên ngoài là Nhân
dân thông qua các tổ chức chính trị-xã hội và thông qua các phương tiện thông

tin đại chúng. Điều 9 của Hiến pháp ghi rõ: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ
sở chính trị của chính quyền Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đoàn kết
toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản
biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân
góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, việc xác lập quyền làm chủ của Nhân
dân trong Hiến pháp của nước ta là sự nhất quán, kiên định, thể hiện bản chất ưu
việt của chế độ xã hội. Đó là sự kế thừa những giá trị phổ quát và tiến bộ của
nhân loại, đồng thời rất phù hợp với điều kiện đặc thù của Việt Nam. Hiến pháp
được thực thi, quyền làm chủ của Nhân dân được đề cao, việc quản lý của Nhà
nước có hiệu quả, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng với tầm cao trí tuệ, nhất định
đất nước ta sẽ phát triển mạnh mẽ, thực hiện thắng lợi mục tiêu cao đẹp: Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã
hội.
C : Phần kết luận
Ba năm qua, kể từ Đại hội Đảng lần thứ XI, toàn Đảng, toàn quân, toàn
dân ta phải đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức. Chúng ta đã dành nhiều
công sức, nguồn lực để giải quyết những vấn đề trước mắt và đạt được những
kết quả quan trọng. Đồng thời cũng đã chú trọng thực hiện nhiệm vụ trung và
dài hạn nhưng kết quả đạt được chưa đáp ứng yêu cầu. Thực tiễn cho thấy nếu
không giải quyết tốt những nhiệm vụ này thì sẽ không bảo đảm được ổn định
12


kinh tế vĩ mô vững chắc, không khai thác có hiệu quả được tiềm năng của đất
nước và cơ hội trong hội nhập quốc tế và cũng không tạo lập được nền tảng cho
phát triển nhanh, bền vững.
Nhiệm vụ đặt ra là rất nặng nề. Khó khăn, thách thức là rất lớn. Nhưng
đây là cơ hội để thúc đẩy Đổi mới mạnh mẽ hơn. Đòi hỏi phải có quyết tâm và
bản lĩnh chính trị rất cao. Bản lĩnh của Đảng và Nhân dân ta đã tỏa sáng trong

đấu tranh giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Bản lĩnh đó cũng đã tỏa
sáng khi đất nước ta đối mặt với khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm đầu
thập niên 80 của thế kỷ trước để hình thành đường lối Đổi mới.
Ngày nay, thế và lực của chúng ta đã mạnh hơn nhiều. Nhất định bản lĩnh
đó sẽ lại tỏa sáng để Đẩy mạnh toàn diện công cuộc Đổi mới theo tinh thần
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, đưa sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc lên
tầm cao mới vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa - dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh.

13


Mục Lục :
Lời giới thiệu
A : Phần mở
B : Phần thân
I) Nhà nước phải làm tốt chức năng kiến tạo phát triển trên các
phương diện :
II) Quyền làm chủ của Nhân dân thể hiện
C : Phần kết

TLKK :

14


Tài liệu tham khảo tại sách :
Đường lối Cách mạng Đảng cộng sản Việt Nam
/>http://119.15.167.94/qdndsite/vi-vn/61/43/trong-nuoc/phat-huy-day-duquyen-lam-chu-cua-nhan-dan/288377.html
/>

15



×