Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Ở nhiều quốc gia đang phát triển đang hình thành nền kinh tế tri thức hãy phân tích những đặc trưng của nền kinh tế này từ góc độ triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.53 KB, 16 trang )

BỐ CỤC TIỂU LUẬN:

Tên tiểu luận:

Ở nhiều quốc gia đang phát triển đang hình thành nền kinh tế tri
thức. hãy phân tích những đặc trưng của nền kinh tế này từ góc độ
triết học?


LêI Më §ÇU
“Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh, phổ cập và sử dụng tri thức
giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải nâng cao chất
lượng cuộc sống”
Kinh tế tri thức là một loại môi trường kinh tế-kỹ thuật, văn hóa-xã hội mới, có những
đặc tính phù hợp và tạo thuận lợi nhất cho việc học hỏi, đổi mới và sáng tạo. Trong
môi trường đó, tri thức sẽ tất yếu trở thành nhân tố sản xuất quan trọng nhất, đóng góp
vào sự phát triển kinh tế-xã hội.
Vậy những đặc trưng của nền kinh tế tri thức nhìn từ góc độ triết học được thể hiện
như thế nào? Chúng ta sẽ tìm hiểu qua bài tiểu luận này.


phÇn néi dung
I.Kh¸i niÖm nÒn kinh tÕ tri thøc lµ g× ?
Kinh tế tri thức theo em có nhiều cách hiểu :
KTTT là biểu hiện hay xu hướng của nền kinh tế hiện đại, trong đó tri thức, lao động
chất xám được phát huy khả năng sinh lợi của nó và mang lại hiệu quả kinh tế lớn lao
trong tất cả các ngành kinh tế: công nghiệp, nông – lâm – ngư nghiệp và dịch vụ,
phục vụ cho phát triển kinh tế. Từ đó, nền kinh tế tri thức được hiểu là nền kinh tế chủ
yếu dựa trên cơ sở tri thức, khoa học; dựa trên việc tạo ra và sử dụng tri thức, phản
ánh sự phát triển của lực lượng sản xuất ở trình độ cao.
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế ( OECD ) đưa ra khái niệm năm 1995: “*Nền


kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai
trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải nâng cao chất lượng
cuộc sống”. *
Kinh tế tri thức còn được hiểu là một loại môi trường kinh tế-kỹ thuật, văn hóa-xã hội
mới, có những đặc tính phù hợp và tạo thuận lợi nhất cho việc học hỏi, đổi mới và
sáng tạo. Trong môi trường đó, tri thức sẽ tất yếu trở thành nhân tố sản xuất quan
trọng nhất, đóng góp vào sự phát triển kinh tế-xã hội.
Theo cách hiểu này, cốt lõi của việc phát triển một nền kinh tế tri thức không phải chỉ
đơn thuần là việc phát triển khoa học-công nghệ cao mà là việc phát triển một nền văn
hóa đổi mới, sáng tạo để đem lại những thuận lợi cho việc sản xuất, khai thác và sử
dụng mọi loại tri thức, mọi loại hiểu biết của nhân loại.

II.Vai trß nÒn kinh tÕ tri thøc lµ nh thÕ nµo ?
- Kinh tế tri thức mang lại những cơ hội và thách thức lớn trong sự phát triển chưa
từng thấy của nhân loại.
Kinh tế tri thức có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển xã hội ngày nay. Phát triển
kinh tế tri thức là cơ hội để rút ngắn khoảng cách lạc hậu.
Từ những tri thức, công nghệ kỹ thuật mới, các tư liệu lao động mới, hệ thống máy
móc thông minh, tự động hóa sẽ được tạo ra. Quá trình đó sẽ giúp phát hiện và sáng
tạo ra nhiều đối tượng lao động mới, những nguyên liệu mới, năng lượng mới,…có thể
trước đây chưa từng xuất hiện, tạo ra nhiều giá trị sử dụng mới, đáp ứng thỏa mãn nhu


cầu xã hội ngày càng tốt hơn, giảm bớt việc khai thác các ngường tài nguyên hiện hữu.
-KTTT là động lực thúc đẩy tiến trình xã hội hóa quan hệ sản xuất và lực lượng sản
xuất, làm cho phân công lao động xã hội phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
TTT được hình thành, phát triển trên cơ sở các ngành sản xuất sử dụng công nghệ cao
ví dụ: Trong nông nghiệp nuôi gà ở Cây Gáo huyện Trảng Bom tự động…, Từ đó mà
tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển của toàn bộ nền kinh tế.
Nó thúc đẩy nông nghiệp phát triển nhanh thông qua các cuộc cách mạng, cách mạng

xanh, cách mạng sinh học…
-Nó thúc đẩy công nghiệp, không ngừng ra tăng hàm lượng khoa học-kỹ thuật, công
nghệ trong sản phẩm công nghiệp qua đó mà gia tăng giá trị sử dụng, giá trị trao đổi
của sản phẩm công nghiệp.
Nó thúc đẩy trí nghiệp phát triển ở các ngành dịch vụ, thông tin, thương mại, tiền tệ,…
với nhiều hình thức phong phú.
Nó thúc đẩy việc nâng cao đời sống xã hội, hướng đến một nền văn minh cao hơn
III.Nh÷ng ®Æc trng cña nÒn kinh tÕ tri thøc tõ gãc ®é triÕt häc:
-Trong nền KTTT, các yếu tố vật chất cũng như hàm lượng vật chất trong các sản
phẩm ngày càng giảm, hàm lượng tri thức, lao động chất xám, lao động trí óc tăng lên,
chiếm tỷ trọng ngày càng cao lớn trong giá trị sản phẩm.
Trong nền KTTT, các sản phẩm trí tuệ dựa vào nguồn lực hàng đầu là tri thức. Đây là
nguồn vốn cơ bản của quá trình sản xuất và tái sản xuất của xã hội, thay vì chỉ là đất
đai, tài nguyên và vốn tiền tệ như trước đây.
Thông tin, kiến thức lao động có trình độ cao được sử dụng nhiều, ít sử dụng tài
nguyên thiên nhiên. Những trung tâm công nghệ cao được hình thành.
Đặc biệt tri thức khoa học và công nghệ cùng với lao động kỹ thuật cao là thành phần
quan trọng của lực lượng sản xuất, là lợi thế phát triền kinh tế. Nguồn nhân lực nhanh
chóng được tri thức hóa. Sự sáng tạo đổi mới trở thành yêu cầu thường xuyên đối với
mọi người.
- Cơ cấu kinh tế kỹ thuật thay đổi một cách sâu sắc, theo hướng tri thức hóa, làm thay
đổi phương thức tổ chức và quản lý không chỉ trong các ngành đó mà còn tác động đến
các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế.
Do những thay đổi trong cơ cấu kinh tế- kỹ thuật sẽ làm thay đổi về chất trong cơ cấu
sản phẩm, làm thay đổi cơ cấu giá trị sản phẩm; điều này tất yếu dẫn đến sự thay đổi


trong cơ cấu lao động xã hội. Nếu như trước đây, lao động nông nghiệp chủ yếu bằng
tay chân tay, thì sau đó lao động sản xuất công nghiệp, lao động “ cổ xanh” hầu hết là
bằng máy móc. Nhưng từ những năm 70 đến nay, do lao động và công nghệ phát triển,

đã là xuất hiện một đội ngũ “ công nhân cổ trắng” và trong cơ cấu giá trị hàng hóa, lao
động trí óc đã chiếm tỷ trọng lớn.
- Qui trình công nghệ trong sản xuất luôn luôn được thay đổi, làm cho năng xuất lao
động ngày càng tăng, cường độ lao động ngày càng giảm, chủng loại sản phẩm ngày
càng đa dạng, phong phú, chất lượng sản phẩm ngày càng cao, giúp đáp ứng nhu cầu
ngày càng tăng của cuộc sống…
sự cạnh tranh được tạo điều kiện đầy đủ, sự tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, tạo ra
lợi thế cho quốc gia, tác động lớn đến đời sống xã hội.
- Siêu xa lộ thông tin trong hệ thống mạng toàn cầu được hình thành, có ảnh hưởng to
lớn đến lĩnh vực khoa học, kinh tế và văn hóa, quan hệ quốc tế, đặc biệt giúp mở rộng
thị trường cho các nước… bởi vì nó đảm bảo sự tham gia đông đảo của tất cả các quốc
gia trên thế giới. Siêu xa lộ thông tin sẽ tạo ra một xã hội tri thức, xã hội thông tin mà
không có biên giới.
Trong nền KTTT, khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, lựu lượng
sản xuất và các hoạt động kinh tế của mỗi con người, của mỗi quốc gia đều mang tính
toàn cầu.
- Trong điều kiện của kinh tế tri thức, các thành tựu khoa học – công nghệ, nhất là
công nghệ thông tin được phổ biến và ứng dụng hết sức nhanh chóng, trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp. Các ngành kinh tế được tri thức hóa đều phải dựa vào công
nghệ mới để đổi mới và phát triển.
Chỉ khi nào các ngành công nghệ cao, ứng dụng các tiến bộ khoa học – kỹ thuật hiện
đại, có giá trị mới do tri thức đem lại chiếm trên 2/3 tổng giá trị thì kinh tế tri thức mới
được tỏ rõ. Tiêu chí của kinh tế tri thức: hơn 70% GDP phải được tạo ra từ các ngành
sản xuất dịch vụ áp dụng công nghệ cao; hơn 70% giá trị gia tăng là do trí tuệ mang
lại; hơn 70% công nhân tri thức trong cơ cấu lao động; hơn 70% cơ cấu vốn là vốn con
người.
Nền kinh tế và xã hội luôn luôn đổi mới, cái mới ngày càng nhiều. Đó là đặc trưng của
sự phát triển, của sự tiến hóa xã hội và sự phát triển từ cái mới.



* Nhưng đặc trưng cơ bản nhất là thể hiện qua mối quan hệ giữa “Lực lượng sản xuất
và Quan hệ sản xuất ”
a. Lao động cơ bắp từng bước được thay thế bằng lao động trí tuệ, nhưng lao
động cơ bắp không mất đi.
Lao động là hoạt động có ý thức của con người nhằm tạo ra những giá trị sử dụng đáp
ứng nhưng nhu cầu đa dạng của con người. Bởi vậy, ngay khi có con người, hoạt động
sản xuất của họ đã có hai phần: lao động cơ bắp và lao động trí tuệ. Cùng với sự phát
triển của xã hội, đặc biệt là sự phát triển của cách mạng công nghiệp, cách mạng khoa
học, kỹ thuật rồi của cách mạng khoa học, công nghệ, cũng như để sử dụng có hiệu
quả những thành tựu do các cuộc cách mạng đó mang lại, năng lực trí tuệ của người
lao động không ngừng được nâng cao, phần giá trị do lao động trí tuệ của họ tạo ra
trong quá trình sản xuất và được kết tinh ở sản phẩm ngày càng tăng. Từ chỗ chiếm
một tỷ trọng rất không đáng kể ớ các thời kỳ tiền cách mạng công nghiệp, ngày nay, ở
các nước phát triển, đối với một số loại sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao, hàm lượng
giá trị do trí tuệ tạo ra và được kết tinh trong sản phẩm có thể đạt tới 80 - 90% tổng giá
trị sản phẩm. Đối với các loại sản phẩm đó, nguyên vật liệu, năng lượng, lao động cơ
bắp chỉ tạo thành từ 10% - 20% giá trị sản phẩm.
Không chỉ như vậy, hoạt động trực tiếp tạo ra sản phẩm không còn là công việc của
riêng người lao động, mà của cả một bộ phận ngày càng tăng lên những người trực
tiếp quản lý quá trình sản xuất, những kỹ sư, những nhà công nghệ...
Sự thay đổi đó là xu thế khách quan, mang tính tiến bộ và ngày càng mở rộng. Nó làm
cho tài nguyên thiên nhiên, lao động cơ bắp mặc dù vẫn là nhưng thứ không thể thiếu
trong nền sản xuất xã hội, nhưng ngày càng mất giá.
Mức đóng góp của tri thức và kỹ thuật đối với tăng trưởng kinh tế ngày càng lớn. Do
vai trò và vị trí ngày càng lớn của tri thức trong nền kinh tế, do thông tin và tri thức
ngày càng trở thành nguồn lực phát triển kinh tế chủ yếu, nên cơ cấu đầu tư để phát
triển lực lượng sản xuất có những thay đổi rất lớn. ỞHoa Kỳ, mỗi năm số tiền chi vào
việc sản xuất tri thức và các hoạt động liên quan khác chiếm khoảng 20% GDP, trong



đó, chi phí cho giáo đục chiếm 10% GDP. Ngày càng có nhiều giá trị gia tăng kinh tế
do trí tuệ tạo ra.
Cũng cần lưu ý rằng, mặc dù tri thức đã trở thành nhân tố quan trọng hàng đầu của sản
xuất và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là cực kỳ quan trọng, nhưng nguyên lý “xét đến
cùng, sở hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu là cơ sở của quan hệ sản xuất" vẫn giữ
nguyên ý nghĩa khoa học của nó. Bởi, như C.Mác đã nhấn mạnh, "thiên nhiên không
chế tạo ra máy móc, đầu máy xe lửa, đường sắt, điện báo, máy sợi con dọc di động...
Tất cả những cái đó đều là những cơ quan của bộ óc con người, do bàn tay con người
tạo ra, đều là sức mạnh đã vật hoá của tri thức. Sự phát triển của tư bản cố định là chỉ
số cho thấy trì thức xã hội phổ biến (Wissen knowledge) đã chuyển hoá đến mức độ
nào thành lực lượng sản xuất trực tiếp, do đó nó cũng chỉ là chỉ số cho thấy những điều
kiện của chính quá trình sống của xã hội đã phục tùng đến mức độ nào sự kiểm soát
của trí tuệ phổ biến và đã được cải tạo đến mức độ nào cho phù hợp với quá trình ấy,
những lực lượng sản xuất xã hội đã được tạo ra đến mức độ nào không những dưới
hình thức tri thức, mà cả như là những cơ quan thực hành xã hội trực tiếp, những cơ
quan trực tiếp của quá trình sống hiện thự
b. Yếu tố trí tuệ quan trọng hơn yếu tố vật liệu tự nhiên trong tư liệu sản xuất
Trong nền kinh tế tri thức, mối tương quan giữa các yếu tố cơ bản cấu thành tư liệu
sản xuất có sự thay đổi rất lớn.
Tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Trong các nền kinh
tế trước, đối tượng lao động chủ yếu là những bộ phận của tự nhiên, trong nền kinh tế
tri thức, đối tượng lao động ngày càng là sản phẩm của lao động, của khoa học, công
nghệ mà hàm lượng vật liệu tự nhiên trong đó ngày càng giảm. Do vậy, đó sẽ là một
nền kinh tế tiết kiệm tài nguyên, không phụ thuộc một cách tiên quyết vào nguồn tài
nguyên thiên nhiên, mà phụ thuộc chủ yếu vào tài nguyên con người với năng lực trí
tuệ cao.
Lao động quá khứ được kết tinh trong máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu... Liên quan
tới những nhân tố này, trong nền kinh tế tri thức, có hai điểm đáng chú ý. Một là, hàm
lượng trí tuệ trong những nhân tố đó ngày một gia tăng, Hai là, nhiều máy móc do lao



động quá khứ đã được vật hoá thực hiện. Khi tính đến hai sự kiện đó, chúng ta thấy
dường như vai trò của lao động sống có sự suy giảm tương đối. Nhưng, nếu xét tới sự
phát triển thẳng tiến của sản xuất, lao động sống vẫn có giá trị quyết định - "quyết
định" không phải theo nghĩa chiếm tỷ trọng lớn so với lao động quá khứ khi tạo ra sản
phẩm ở chu kỳ mới, mà theo nghĩa không có lao động sống và mọi lao động vật hoá
không thể phát huy vai trò của mình trong quá trình sản xuất. Máy móc hiện đại như
thế nào chăng nữa cũng do con người làm ra và vận hành, cải tiến nó. Mặt khác, trình
độ của máy móc, thiết bị, trình độ trí tuệ được kết tinh trong chúng lại đóng vai trò
quyết định hiệu quả của lao động sống, quy định xu hướng vận động của chính lao
động sống. Chỉ trong chừng mực đáp ứng nhu cầu đó, chu kỳ sản xuất tiếp theo mới có
sự phát triển tương ứng với xu thế khách quan của lực lượng sản xuất.
Lao động quản lý dần chiếm ưu thế so với lao động sản xuất trực tiếp
Sự phát triển của sản xuất xã hội luôn diễn ra theo quy luật phủ định của phủ đinh.
Trước kia, người sản xuất và người quản lý là một, song cùng với sự phát triển của lực
lượng sản xuất, sự tách rời giữa người sản xuất và người quán lý ngày một gia tăng, sự
khác biệt phát triển thành sự đối lập gay gắt. Giờ đây, chính sự phát triển cao của lực
lượng sản xuất, ở trình độ trí tuệ hoá cao quá trình sản xuất, đã và đang diễn ra sự xích
lại gần nhau giữa người lao động sản xuất và nhà quản lý. Trong nền kinh tế tri thức, ở
không ít trường hợp, người sản xuất và người quản lý hội tụ trong một cá thể mà ở đó,
mặt quản lý ngày càng có ưu thế hơn mặt laođộng trong việc tạo ra sản phẩm.
Những thay đổi ấy làm cho những yếu tố tạo ra giá tri mới được kết tinh trong sản
phẩm thặng dư mà biểu hiện dưới hình thức giá trị là giá trị thặng dư cũng không hoàn
toàn như cũ. Giá trị thặng dư được tạo ra không còn chỉ do lao động sống của người
công nhân trực tiếp sản xuất, mà còn do lao động vật hoá, do lao động quản lý... Lao
động quản lý nói ở đây bao gồm cả lao động quản lý của các chuyên gia quản lý (khi
đó, họ thuộc về người lao động theonghĩa hiện đại của từ này) và lao động quần lý của
người sở hữu tư liệu sản xuất nếu họ tham gia quản lý doanh nghiệp. "Quản lý" lại là
loại hình lao động phức tạp, nó là "bội số của lao động giản đơn" như C.Mác nói.
Trí tuệ tự nó mang tính xã hội rất cao và thậm chí, còn mang tính nhân loại. Do vậy,

khi nói về những bộ phận cấu thành lực lượng sản xuất trong nền kinh tế trí tuệ, chúng


ta thấy nổi lên một đặc điểm hết sức quan trọng là tính xã hội hoá, quốc tế hóa rất cao
của nó.
Những đặc điểm và tính chất mới đó của lực lượng sàn xuất quy định và đòi hỏi nội
dung mới, tính chất mới của quan hệ sản xuất vả cơ cấu của nền kinh tế tương ứng.
Quan hệ sản xuất và cơ cấu kinh tế trong nền kinh tế tri thức
Nội dung và tính chất mới của vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất
Tri thức hiện nay đang được coi là nguồn lực kinh tế chủ yếu. Các nhân tố sản xuất
truyền thống là đất đai, lao động và tư bản không biến mất, nhưng tầm quan trọng của
nó không còn như cũ. Một điều quan trọng hơn rất nhiều là tri thức tạo ra được cơ chế
lợi nhuận tăng dần, trong khi các yếu tố sản xuất truyền thống (đất đai, vốn, lao động),
như chúng ta đã biết, lại tuân theo quy luật lợi nhuận giảm dần. Đó là một xu hướng
thực tế, bới chính công nghệ thông tin - một bộ phận quan trọng của nền kinh tế tri
thức đã trở thành phương tiện giải phóng các tiềm năng sáng tạo và tri thức tiềm ẩn
trong mỗi người, thành công cụ "khuếch đại sức mạnh của não giống như công nghệ
của cuộc cách mạng công nghiệp khuếch đại sức mạnh của cơ bắp " (Brad de Long).
Bắt đầu từ giữa những năm 80 của thế kỷ XIX, một bộ phận quan trọng của nền kinh
tế đã tuân theo cơ chế lợi nhuận tăng dần, đó là khu vực công nghệ cao. Các nền kinh
tế phát triển như các nước OECD đang phụ thuộc rất nhiều vào việc sản xuất phân
phối và sử dụng tri thức. Sản lượng và việc làm được mở rộng rất nhanh ở các ngành
công nghệ cao. Trên 50% GDP của các nền kinh tế OECD là dựa trên tri thức
(CandieStevens).
Sở hữu trong nền kinh tế tri thức trước hết và chủ yếu là sở hữu trí tuệ. Trong nền kinh
tế đó, trí tuệ là nguồn lực cơ bán nhất của quốc gia. Ai nắm được trí tuệ, có khả năng
điều tiết, chi phối nó, kẻ đó có sức mạnh chi phối sự phát triển xã hội theo mục tiêu và
lợi ích của mình. Trong khi đó, như đã đề cập trên đây, tri thức mang tính xã hội hoá,
quốc tế hóa cao. Theo Joseph Stigliz, nhà kinh tế học Mỹ được nhận giải Nobel năm
2001 đồng thời là cố vấn kinh tế trưởng của Ngân hàng thế giới, thì tri thức và thông

tin là loại hàng hoá đặc biệt, nó hoàn toàn khác các loại hàng hoá thông thường khác:
nó thuộc về không phải của một cá nhân nào đó, mà thuộc về quyền sở hữu của toàn


xã hội, là một hàng hoá xã hội và hơn thế nữa, nó thực sự là một hàng hoá mang tính
toàn cầu.
Trong nền kinh tế tri thức, tri thức trở thành nhân tố sản xuất quan trọng hàng đầu
trong lực lượng sản xuất, quyết định lợi thế so sánh của một nước. Nếu doanh nghiệp
nào nắm được quyền sở hữu trí tuệ, ứng dụng công nghệ mới, tạo ra sản phẩm mới sẽ
thu được tỷ suất lợi nhuận cao hơn mức trung bình. Thí dụ: Nhờ luôn tạo ra các bộ vi
xử lý trước một thế hệ, lợi nhuận của hãng Intel trong nhiều năm là 23% doanh thu.
Cũng với cách thay đổi luôn như vậy lợi nhuận của hãng Microsoft đạt 24% doanh thu
vào năm 1994. Lợi nhuận cao như thế tuy không thể tồn tại mãi, nhưng có thể duy trì
trong nhiều năm, như hãng Intel duy trì tỷ suất lợi nhuận cao trong một thập kỷ. Như
vậy, quy luật bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận bị cản trở, không thể phát huy tác dụng
mạnh mẽ. Bởi vì, tiền đề để quy luật này hoạt động là môi trường cạnh tranh tự do
hoàn háo, nhưng trong nền kinh tế tri thức, việc bảo hộ quyển sở hữu trí tuệ đã làm
tăng tính độc quyền, khiến cho người nắm quyền chiếm hữu đối với tri thức thu được
lợi nhuận siêu ngạch.
Điều có phần quan trọng hơn là trong xã hội tri thức, người là làm thuê tức người công
nhân tri thức lại là người sở hữu công cụ sản xuất, trí tuệ của bản thân họ. C.Mác đã có
phát kiến vĩ đại khi cho rằng, người công nhân nhà máy không có và không thể sở hữu
tư liệu sản xuất và do vậy bị "tha hoá". Ông chỉ rõ: Người công nhân không thể sở hữu
máy hơi nước và không thể lấy máy hơi nước đi cùng với mình, khi họ chuyển từ công
việc này sang công việc khác. Nhà tư bản cần phải sở hữu động cơ hơi nước và cần
phải kiềm soát nó. Thế nhưng, những đầu tư thực sự trong xã hội tri thức không phải
vào máy móc hay công cụ, mà chính là vào người công nhân tri thức, không có người
công nhân tri thức thì cho dù máy móc có hiện đại và tinh vi đến thế nào chăng nữa
cũng không thể hoạt động được.
So với sở hữu các giá trị vật chất, sở hữu tri thức có những đặc điểm hết sức riêng biệt

Sở hữu tri thức bao gồm quyền sở hữu công nghiệp (quyền về phát minh - sáng chế, về
nhãn hiệu thương mại, bản quyền và các kiểu dáng công nghiệp...), ngày nay còn tính
thêm phương pháp gây giống các loài cây, quyền về các hình vẽ, mẫu vẽ, quyền về các
bản đồ vẽ địa hình, về các chất bán dẫn... Ngoài ra, còn quyền về bí mật thương mại.


Với tư cách là đối tượng sở hữu, tri thức là một sản phẩm có đặc tính lũy tiến và rất
khó kiểm soát. Tri thức là một sản phẩm không bị cạn kiệt khi sử dụng, có thể vô số
người cùng sử dụng một tri thức mà không ai mất phần. Một tri thức có thể thuộc
quyền sở hữu của nhiều người, một người có thể dùng nhiều lần mà không phái trả
thêm tiền. Hơn nữa, càng nhiều người sử dụng càng tăng hiệu quả (như mạng
Internet). Người sau có thể kế thừa tri thức của người đi trước để sần xuất ra tri thức
mới. Bởi vậy, tri thức cũng là một tài sản khó kiểm soát nhất.
Chi phí cho phát triển tri thức rất lớn, nhưng sản phẩm càng về sau càng rẻ. Thí dụ, chi
phí cho việc nghiên cứu đĩa chương trình Window đầu tiên tổn phí hết 50 triệu USD,
nhưng đĩa thứ hai và các đĩa tiếp theo chỉ tốn 3 USD.
Khác với "lao động" và "vốn", việc sử dụng tri thức không làm nó mất đi và vì vậy,
càng nhiều người sử dụng càng đem lại lợi ích nhiều mà không tốn thêm chi phí.
Người này sử dụng không làm giảm khả năng sử dụng của người khác, vì vậy, tri thức
có tính không cạnh tranh trong sử dụng.
Tri thức có tính không loại trừ với nghĩa là khi truyền bá và chuyển giao tri thức không
làm tri thức mất đi, vì vậy, một tri thức được xã hội hoá (nhiều người biết), người ta
không thể loại trừ người này sử dụng trong khi cho phép người khác được sử dụng
(theo nghĩa tự nhiên của nó). Trên thực tế, người ta có thề thông qua bản quyền để cấm
áp dụng.
Tri thức cũng có tính tích luỹ cao. Tri thức và thông tin không bị giảm đi theo thời
gian sử dụng (không khấu hao), mà luôn được tích luỹ thêm.
Trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế, dòng tri thức lưu chuyển nhanh khắp thế giới, lợi
ích thu được từ tri thức mới không nhất thiết sẽ thuộc về nơi đã phát minh ra chúng,
mà tuỳ thuộc vào tri thức và kỹ năng tổ chức sản xuất với chi phí thấp nhất và gắn kết

được toàn bộ các hoạt động của hệ thống tổ chức sản xuất. Thí dụ, Hoa Kỳ đã phát
minh ra máy quay phim và máy ghi âm, máy Fax, Hà Lan phát minh ra máy CD,
nhưng phần lớn lợi nhuận của sản phẩm này lại rơi vào tay Nhật Bản.
Các tính chất nêu trên của tri thức với tư cách là bộ phận chủ yếu của lực lượng sản
xuất trong nền kinh tế tri thức quy định tính tất yếu phải có hình thức sở hữu tương


ứng Dưới một hình thức nào đó, chế độ sở hữu phải mang tính chất xã hội. Tuy chưa
phải la xã hội hoá sở hữu với nghĩa đen của từ này, nhưng sự ra đời và ngày càng phát
triển của những Công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia trong những thập kỷ gần đây
phần nào do tính tất yếu khách quan đó quy định. Đành rằng giờ đây, ở một số nước
rất coi trọng việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng xét về tính chất sở
hữu và quản lý, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đó vẫn nằm trong một hệ thống chung,
có sự liên kết và hỗ tương nhau rất chặt chẽ, chúng phụ thuộc vả ràng buộc lẫn nhau
tạo thành một chỉnh thể không phải chỉ ở quy mô quốc gia, mà cá quy mô quốc tế.
Trong giới hạn của chế độ sở hữu tư nhân, "xã hội hóa về sở hữu”, với nghĩa là số
người tham gia vào sở hữu ngày càng táng, quy mô sở hữu ngày càng mở rộng đang là
một xu thế phổ biến, nó làm cho việc sở hữu ấy mang tính xá hội (mặc dù vẫn thuộc
những cá nhân cụ thể) và tri thức được vận hành vì sự phát triển chung của toàn xã
hội, tuy lợi ích trực tiếp thuộc về một số người.
Đối với trí tuệ, vấn đề bản quyền chỉ có giá trị trên phương diện pháp lý nhằm bảo
đảm lợi ích của chủ thể sáng tạo ra tri thức mới, của phát minh, sáng tạo chứ không
làm cho trí tuệ đó mang tính cá nhân. Nó chỉ thuộc cá nhân khi mới sáng tạo ra, sau đó
nhanh chóng trở thành của xã hội.
Đặc điểm mới của quan hệ tổ chức, quản lý trong nền kinh tế tri thức
Tác động của kinh tế tri thức đối với tổ chức và quản lý rất rộng, trong đó, nổi bật nhất
là một số điểm chính sau đây:
Chủ thể và đối tượng quản lý: đại bộ phận là công nhân có học vấn.
Việc áp dụng các thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ (nhất là công nghệ
thông tin) vào quản lý đòi hỏi chủ thể quản lý phải nâng cao trình độ hiểu biết về nhiều

mặt. Còn về đối tượng chịu sự quản lý, đúng như dự báo của C.Mác "toàn bộ quá trình
sản xuất thì biểu hiện ra không phải như là một quá trình phụ thuộc vào tài nghệ trực
tiếp của người công nhân, mà với tư cách là sự ứng dụng khoa học trong “lĩnh vực
công nghệ" và "biến quá trình sản xuất từ chỗ là quá trình lao động giản đơn thành quá
trình khoa học...", "do đó đến một giai đoạn nào đó, guồng máy có thể thay thế công
nhân" và "theo đà phát triển của đại công nghiệp, việc tạo ra của cải thực tế trở nên ít


phụ thuộc vào thời gian lao động và vào số lượng lao động đã chi phí hơn là vào sức
mạnh của những tác nhân được khơi động trong thời gian lao động và bản thân những
tác nhân ấy, đến lượt chúng (hiệu quả to lớn của chúng) tuyệt đối không tương ứng với
thời gian lao động trực tiếp cần thiết để sản xuất ra chúng, mà đúng hơn, chúng phụ
thuộc vào trình độ chung của khoa học và vào sự tiến bộ của kỹ thuật, hay là phụ thuộc
vào việc ứng dụng khoa học ấy vào sản xuất". Vì thế, "lao động biểu hiện ra không
phải chủ yếu là lao động được nhập vào quá trình sản xuất, mà chủ yếu là một loại lao
động trong đó con người, trái lại, là người kiểm soát và điều tiết bản thân quá trình sản
xuất" và "thay vì làm tác nhân chủ yếu của quá trình sản xuất, người công nhân lại
đứng bên cạnh quá trình ấy”.
Như trong bất kỳ nền kinh tế nào, đối tượng quản lý là quá trình sản xuất, nhưng trong
nền kinh tế tri thức, quản lý trước hết và chủ yếu là quá trình ứng dụng khoa học trong
lĩnh vực công nghệ, trong đó máy móc đã thay thế hầu hết lao động chân tay, còn lao
động sống chủ yếu là lao động trí óc kiểm soát và điều tiết bản thân quá trình sản xuất.
Một phương thức tổ chức sản xuất mới ra đời
Để thích ứng với đối tượng quán lý là công nhân tri thức, sự thay đổi về phương pháp
tổ chức công việc đã được tiến hành thử nghiệm:
Sản xuất vừa đủ bắt nguồn từ kiểu sản xuất của hãng Toyota (triệt tiêu tồn kho, sản
xuất theođơn đặt hàng, thông tin, báo cáo theo chiều dọc và nhân viên có thể đề xuất ý
kiến cải tiến kết quả công việc và chất lượng).
Cơ cấu lại là lý thuyết nhằm vào cắt giảm chi phí và hướng ngoại, liên quan chủ yếu
đến đội ngũ cán bộ khung, trong đó ứng dụng công nghệ thông tin để tạo ra những

dịch vụ mới, phối hợp kiểm tra công việc thông qua các mạng nội bộ chứ không còn
thông qua cán bộ trung gian.
Quản lý toàn diện chất lượng là lý thuyết phát triển sâu hơn một số điểm của lý thuyết
sản xuất vừa đủ như thoả mãn toàn bộ nhu cầu khách hàng và xoá bỏ tình trạng lãng
phí.


Modul là lý thuyết khái quát phương pháp chia một cách hiệu quả quy trình sản xuất
thành những modul.
Nhưng sáng tạo đa dạng về cơ cấu tổ chức đó đều tìm cách đoạn tuyệt với với cái logic
của mô hình kiểu Taylor (lợi ích kinh tế nhờ quy mô, tiêu chuẩn hoá sản phẩm, mỗi
nhân viên một phận sự). Chính các phương thức linh hoạt đã tham gia trực tiếp vào
quá trình nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nhiều mô hình lý thuyết
chứng minh rằng, công nghệ thông tin đang tạo điều kiện cho việc cấu trúc lại doanh
nghiệp, đặc biệt là khuyên khích phân cấp chức năng, hoặc tăng cường hiệu quả của
tính đa năng trong doanh nghiệp. Nói một cách khái quát, toàn bộ những lựa chọn của
doanh nghiệp về chiến lược, tổ chức công việc hay về công nghệ sẽ mang tính chất bổ
sung, hỗ trợ lẫn nhau. Như vậy, ý tưởng, tổ chức nhân lực triển khai ý tưởng, tổ chức
cách thức đùng vật lực (công nghệ) thực hiện ý tưởng luôn có mối quan hệ biện chứng
với nhau.
Để kinh tế tri thức phát triển, phương pháp tổ chức sản xuất mới từng bước thay thế
phương pháp Taylor trước đây. Đó là việc tổ chức ở cấp kinh tế vi mô, kết nối các Xí
nghiệp, Công ty, doanh nghiệp thành mạng lưới.
Từ đó giảm các khâu trung gian, chuyển giao nhiều trách nhiệm hơn cho cấp dưới và
ngược lại, cũng đòi hỏi người lao động phải có năng lực cao hơn.
Trong thời đại hiện nay, sự phát triển của công nghệ thông tin đang tạo điều kiện cho
việc thực hiện các chu trình sản xuất phi tập trung hơn, sự phối hợp giữa các công
đoạn sản xuất kinh doanh trở nên mềm dẻo hơn so với thời kỳ trước đây trong nền sản
xuất đại trà.



KÕt luËn
Tóm lại những đặc trưng của nền kinh tế tri thức là:
-

Trong nền KTTT, các sản phẩm trí tuệ dựa vào nguồn lực hàng đầu là tri thức.

-

Trong nền KTTT, các yếu tố vật chất cũng như hàm lượng vật chất trong các
sản phẩm ngày càng giảm, hàm lượng tri thức, lao động chất xám, lao động trí
óc tăng lên.

-

Nền KTTT mang tính liên kết mạng lưới, toàn cầu hóa.

-

Trong điều kiện của kinh tế tri thức, các thành tựu khoa học – công nghệ, nhất
là công nghệ thông tin được phổ biến và ứng dụng hết sức nhanh chóng, trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp.

Nhìn nhận từ đây ta có thể hiểu rằng cốt lõi của việc phát triển một nền kinh tế tri
thức không phải chỉ đơn thuần là việc phát triển khoa học-công nghệ cao mà là việc
phát triển một nền văn hóa đổi mới, sáng tạo để đem lại những thuận lợi cho việc sản
xuất, khai thác và sử dụng mọi loại tri thức, mọi loại hiểu biết của nhân loại.


MôC LôC




×