Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

nguyen tac suy doan vo toi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (70.43 KB, 4 trang )

Nguyên tắc của Luật tố tụng hình sự được hiểu là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo toàn bộ quá trình xây
dựng và áp dụng pháp luật tố tụng hình sự. Thuật ngữ “suy đoán” bắt nguồn từ tiếng La tinh
“praesumptino”, được hiểu là coi vấn đề, hiện tượng nào đó là đúng đắn cho đến khi chưa có lý do bác bỏ
vấn đề, hiện tượng đó.
Tuyên ngôn nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc và Công ước quốc tế về quyền chính trị và dân sự
của Liên hợp quốc năm 1966 đều có quy định: “Bất kỳ người bị buộc tội nào đều có quyền suy đoán là
không phạm tội cho đến khi lỗi của người đó được xác định theo một trình tự do pháp luật quy định bằng
phiên tòa xét xử công khai của Tòa án với sự bảo đảm đầy đủ khả năng bào chữa của người đó”. Pháp luật
tố tụng hình sự của nhiều nước trên thế giới đã thừa nhận nguyên tắc trên, nguyên tắc suy đoán vô tội, như
một trong những nguyên tắc của tố tụng hình sự của quốc gia mình.
Pháp luật nước ta tuy chưa sử dụng thuật ngữ “Nguyên tắc suy đoán vô tội” nhưng đã thừa nhận tinh thần
của nguyên tắc suy đoán vô tội như một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự.
Nguyên tắc suy đoán vô tội thể hiện ở các nội dung sau:
1. Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật
Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi bất cứ tội phạm nào cũng phải được chứng minh theo trình tự, thủ tục
do pháp luật tố tụng hình sự quy định. Quá trình chứng minh tội phạm được thực hiện từ khi có tố giác, tin
báo về tội phạm và thông qua các thủ tục khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành các hoạt động điều tra, kết
thúc điều tra đề nghị truy tố, truy tố bằng bản cáo trạng và tiến hành xét xử, điều tra công khai tại phiên tòa.
Nếu có căn cứ để kết tội thì Tòa án sẽ ra bản án kết tội. Trong trường hợp Bản án kết tội không bị kháng
cáo, kháng nghị thì bản án đó có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Trong
trường hợp bản án kết tội có kháng cáo hoặc kháng nghị thì bản án đó chưa có hiệu lực pháp luật và vụ án
bắt buộc phải được xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Hội
đồng xét xử tuyên án.
Một người chỉ có thể bị coi là có tội khi có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Cần lưu ý
thuật ngữ người “bị coi là có tội” khác với thuật ngữ “người phạm tội”. Trong pháp luật hình sự, thuật ngữ
“người phạm tội” dùng để chỉ người đã thực hiện hành vi được luật hình sự quy định là tội phạm, hành vi
của người đó đã cấu thành tội phạm. Thuật ngữ “người phạm tội” chỉ một thực tế khách quan là một người
đã thực hiện tội phạm chứ không phải tùy thuộc vào nhận định chủ quan của các cơ quan áp dụng pháp
luật. Các cơ quan áp dụng pháp luật có thể nhận định đúng thực tế khách quan, tức là nhận thức đúng người
phạm tội, tiến hành khởi tố, truy tố và kết án người phạm tội, nhưng cũng có thể nhận định không đúng
thực tế khách quan đó, dẫn đến tình trạng bỏ lọt tội, tuyên bố một người phạm tội là người vô tội.v.v.


Với cách hiểu thuật ngữ “người phạm tội” như vậy chúng ta mới có thể lý giải tinh thần các quy phạm khác
có liên quan. Ví dụ, việc miễn trách nhiệm hình sự (Điều 25 của BLHS) chỉ có thể áp dụng đối với người
phạm tội khi có những điều kiện nhất định. Khi quyết định miễn trách nhiệm hình sự đối với một người cụ
thể, các cơ quan có thẩm quyền đã phải chứng minh được người được miễn trách nhiệm hình sự là người
phạm tội. Người phạm tội có thể không bị kết án bằng bản án kết tội của Tòa án nếu thời điểm phát hiện ra
tội phạm đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc họ được miễn trách nhiệm hình sự. Trong
những trường hợp đó, người phạm tội không bị coi là có tội. Trong trường hợp người phạm tội bị Tòa án
kết tội bằng một bản án và bản án đó có hiệu lực pháp luật thì người phạm tội là người “bị coi là có tội”.
Thuật ngữ “người phạm tội” và “người bị coi là có tội” là hai thuật ngữ khác nhau. Người phạm tội là
người thực hiện một hành vi được Luật hình sự quy định là tội phạm, còn người bị coi là có tội là người bị
Tòa án kết tội bằng một bản án và bản án đó đã có hiệu lực pháp luật. Như vậy, người phạm tội có thể
không phải chịu trách nhiệm hình sự, không bị coi là có tội, còn người bị coi là có tội tức là người phạm tội
đã phải chịu một hậu quả pháp lý trước Nhà nước về việc thực hiện hành vi phạm tội của mình, chịu sự lên
án của Nhà nước mà Tòa án là người đại diện, thông qua việc áp dụng luật hình sự, kết tội người phạm
tội(1).
Vấn đề đặt ra là tại Điều 72 của Hiến pháp và Điều 9 của BLTTHS nước ta đều quy định: “Không ai bị coi
là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.” Theo chúng
tôi, quy định này cần được xem xét lại. Bởi vì, một người bị coi là có tội thì có thể phải chịu hình phạt nếu
bản án kết tội của Tòa án đối với người đó có quyết định hình phạt, nhưng một người bị coi là có tội cũng
có thể không phải chịu hình phạt nếu bản án kết tội của Tòa án có tuyên miễn hình phạt đối với người đó.
Như vậy, suy đoán vô tội chỉ bao hàm nội dung suy đoán một người không bị coi là có tội khi chưa có bản
án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật chứ không cần phải có thêm việc suy đoán một người không
phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Hình phạt là do Tòa án
quyết định. Một người sẽ không phải chịu hình phạt nếu trong bản án kết tội của Tòa án đối với người đó
tuyên miễn hình phạt chứ không phải là đối với người đó không có bản án kết tội. Nếu muốn khẳng định


bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật là cơ sở để Tòa án quyết định hình phạt (điều này không
thuộc nội dung suy đoán vô tội) thì tại Điều 72 của Hiến pháp và Điều 9 của BLTTHS cần được sửa đổi
theo hướng: “Không ai bị coi là có tội cũng như phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án

đã có hiệu lực pháp luật”(2).
2. Người bị tình nghi, bị can, bị cáo không có nghĩa vụ chứng minh sự vô tội của mình. Nghĩa vụ chứng
minh tội phạm thuộc trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng
Tại Điều 10 của BLTTHS quy định về nguyên tắc xác định sự thật của vụ án như sau: “Trách nhiệm chứng
minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải
chứng minh là mình vô tội”.
Theo chúng tôi, thực chất quy định trên không thuộc nội dung nguyên tắc xác định sự thật của vụ án mà
thuộc về nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội. Bởi vì, cùng với việc khẳng định một người không thể bị
coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật thì cũng có nghĩa thừa nhận người
bị buộc tội không có nghĩa vụ phải chứng minh sự vô tội của mình. Để xác định một người là người phạm
tội, trên cơ sở đó truy cứu, áp dụng trách nhiệm hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án) phải chứng minh được người đó là người thực hiện hành vi bị Luật hình sự coi là tội
phạm. Nếu không chứng minh được một người đã thực hiện tội phạm thì không thể kết tội người đó. Trên
thực tế, có thể một người đã thực hiện tội phạm. Về khách quan, họ là người phạm tội, nhưng nếu không
chứng minh được người đó đã thực hiện hành vi được Luật hình sự coi là tội phạm, thì các cơ quan tiến
hành tố tụng cũng không thể truy cứu, áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người đó. Chứng minh tội phạm
là một quá trình. Quá trình đó diễn ra ở cả giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố và giai đoạn xét xử. Quyền
và trách nhiệm chứng minh tội phạm không chỉ thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát mà còn thuộc về
Tòa án.
Hiện nay, có ý kiến cho rằng, trách nhiệm chứng minh tội phạm chỉ thuộc về Cơ quan điều tra và Viện
kiểm sát, còn Tòa án với chức năng xét xử thì không có trách nhiệm chứng minh. Chúng tôi cho rằng, quan
điểm này không phù hợp. Đúng là Tòa án có chức năng xét xử, nhưng khác với các nước theo mô hình tố
tụng tranh tụng, trong đó bên buộc tội và gỡ tội tranh tụng về những vấn đề liên quan để chứng minh hay
bác bỏ tội phạm của phía bên kia, trong đó Tòa án không tham gia vào bên buộc tội hay bên gỡ tội mà đứng
giữa như người trọng tài phân xử. Ở Việt Nam, mô hình tố tụng là mô hình thẩm vấn. Tại phiên tòa, Tòa án
tham gia vào việc thẩm vấn bị cáo và những người tham gia tố tụng, áp dụng các biện pháp do pháp luật
quy định để chứng minh làm rõ bị cáo phạm tội hay không phạm tội; nếu phạm tội thì phạm tội gì, theo
điều khoản nào của Bộ luật Hình sự. Trên cơ sở đó, Tòa án mới ra phán quyết, kết tội, quyết định hình phạt
đối với họ. Như vậy, theo pháp luật tố tụng hình sự nước ta, Tòa án cũng có trách nhiệm chứng minh tội
phạm.

Người bị tình nghi (bị bắt giữ trước khi khởi tố bị can), bị can, bị cáo có quyền nhưng không có nghĩa vụ
chứng minh sự vô tội của mình. Điều này có nghĩa, người bị bắt giữ, bị can, bị cáo có quyền đưa ra các
chứng cứ để chứng minh mình không phạm tội. Ví dụ, chứng minh mình vô tội bằng việc đưa ra chứng cứ
về thời gian xảy ra vụ việc mình không ở đó và không thể thực hiện hành vi phạm tội hoặc đưa ra chứng cứ
chứng minh có người khác, chứ không phải mình, đã thực hiện tội phạm… Song, vì lý do nào đó, người bị
bắt giữ, bị can, bị cáo cũng có thể từ chối chứng minh sự vô tội của mình thì các cơ quan tiến hành tố tụng
cũng không thể coi họ là người phạm tội.
Hiện nay, pháp luật tố tụng hình sự nước ta không quy định cụ thể nhưng đã mặc nhiên thừa nhận quyền im
lặng của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Bởi lẽ, theo các quy định của pháp luật hình sự, việc người
bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo không khai nhận hành vi phạm tội của mình thì cũng không phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội từ chối khai báo theo quy định tại Điều 308 của BLHS và cũng không bị coi là có tình
tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 48 của BLHS. Trong trường hợp bị can, bị cáo
thành khẩn khai báo thì lại được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thậm chí trong giai đoạn điều
tra họ không khai báo hoặc khai báo gian dối nhưng tại phiên tòa lại thành khẩn khai báo thì họ vẫn được
hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “thành khẩn khai báo” theo quy định tại điểm p khoản 1
Điều 46 của BLHS. Trường hợp bị cáo khai báo gian dối thì họ cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội khai báo gian dối theo quy định tại Điều 307 của BLHS.
Mặc dù với những quy định trên, có thể thấy rằng, pháp luật tố tụng hình sự nước ta đã thừa nhận quyền im
lặng của người bị tình nghi, bị can, bị cáo. Song, một trong những bảo đảm để bảo vệ quyền con người
trong tố tụng hình sự là các quy định của pháp luật tố tụng càng đơn giản, dễ hiểu bao nhiêu càng tốt bấy
nhiêu để tránh sự lạm dụng của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Bởi vậy, chúng tôi cho rằng,
BLTTHS cũng cần được sửa đổi theo hướng quy định cụ thể về quyền im lặng của người bị bắt giữ, bị can,


bị cáo và nghĩa vụ của người có thẩm quyền bắt giữ, khởi tố bị can trong việc giải thích cho người bị bắt
giữ, bị khởi tố bị can về quyền im lặng của họ.
3. Mọi nghi ngờ trong quá trình chứng minh tội phạm của người bị tình nghi, bị can, bị cáo nếu không được
loại trừ theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định thì phải được giải thích có lợi cho người
bị tình nghi, bị can, bị cáo
Mục “Xây dựng Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (sửa đổi)”

Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi sự buộc tội phải dựa trên những chứng cứ xác thực không còn nghi ngờ.
Mọi sự nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị can, bị cáo đều phải được kiểm tra, chứng minh làm rõ. Nếu
không chứng minh làm rõ được sự nghi ngờ thì sự nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị can, bị cáo phải
được giải thích theo hướng có lợi cho họ. Ví dụ, nghi ngờ một người là người phạm tội nhưng không chứng
minh được họ phạm tội thì phải coi họ là người vô tội; nghi ngờ một người phạm tội nặng nhưng không
chứng minh được họ phạm tội nặng mà chỉ có cơ sở xác định hành vi của họ thỏa mãn dấu hiệu của cấu
thành tội phạm nhẹ hơn thì phải coi là họ phạm tội nhẹ hơn…
Mục đích của Luật tố tụng hình sự là tội phạm phải được phát hiện và xử lý theo quy định của pháp luật,
không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tọi phạm và người phạm tội. Tuy nhiên, trong thực tế, có thể xảy
ra tình huống các chứng cứ buộc tội yếu, cả hai khả năng oan và lọt cùng song song tồn tại mặc dù các cơ
quan tiến hành tố tụng đã áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết mà pháp luật quy định. Trong trường hợp
này, nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi phải thực hiện theo hướng “thà bỏ lọt tội phạm còn hơn làm oan
người vô tội”.
Tóm lại, với những phân tích trên, chúng tôi đề xuất sửa đổi, bổ sung Điều 9 của BLTTHS hiện hành theo
hướng sửa tiêu đề của nguyên tắc “không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu
lực pháp luật” thành nguyên tắc “suy đoán vô tội” với nội dung như sau:
“1. Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
2. Người bị tình nghi, bị can, bị cáo không có nghĩa vụ chứng minh sự vô tội của mình. Nghĩa vụ chứng
minh tội phạm thuộc trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng.
3. Mọi nghi ngờ trong quá trình chứng minh tội phạm của người bị tình nghi, bị can, bị cáo nếu không được
loại trừ theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định thì phải được giải thích có lợi cho người
bị tình nghi, bị can, bị cáo”.
Điều 13 BLTTHS 2015 quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được
chứng minh theo trình tự, thủ tục do bộ luật này quy định và có bản án kết tội của tòa án đã có
hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình
tự, thủ tục do bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết
luận người bị buộc tội không có tội”. Cách diễn đạt cho thấy người bị buộc tội (người bị bắt,
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) được suy đoán vô tội.
Theo ngôn ngữ đời thường, suy đoán là dựa vào cái này mà đoán ra cái khác. Trong pháp luật,
suy đoán là một trong những kỹ thuật lập pháp, là suy đoán pháp lý nên phải chịu sự ràng buộc

của pháp luật. Đó là giả thiết do luật quy định và được công nhận là đúng cho đến khi chứng
minh được điều ngược lại. Đây là nguyên tắc hiến định, không ai có quyền vi phạm. Chẳng hạn
khi báo chí tường thuật một vụ cướp của giết người giữa thanh thiên bạch nhật sẽ không được
viết “A là tên cướp của giết người” mà phải dùng từ khác hoặc giấu tên tuổi của họ cho đến khi
có bản án có hiệu lực của tòa.
Suy đoán vô tội có ý nghĩa quan trọng trong khoa học pháp lý cũng như trong thực tiễn chống
tội phạm với vai trò là nền tảng và kim chỉ nam cho toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự. Nguyên
tắc này loại trừ định kiến, kết tội một chiều trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Dù chứng cứ
thu thập trong vụ án đến đâu, dù niềm tin nội tâm của những người tiến hành tố tụng về tội
phạm của người bị buộc tội thế nào thì họ vẫn có nghĩa vụ làm sáng tỏ các tình tiết, sự kiện của
vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Nguyên tắc này thể hiện thái độ trân trọng tới
số phận con người, hạn chế sai lầm tư pháp làm oan công dân.
Nguyên tắc suy đoán vô tội là nền tảng, thể hiện cô đọng nhất những bảo đảm pháp lý cho
quyền bào chữa của bị can. Bởi lẽ người bị buộc tội không có nghĩa vụ chứng minh sự vô tội của
mình. Họ có thể từ chối khai báo hoặc tham gia vào các hoạt động điều tra nào đó. Lập luận
theo kiểu “nếu không chứng minh được sự vô tội của mình có nghĩa là có tội” là trái với suy đoán
vô tội vì đã chuyển nghĩa vụ chứng minh từ bên buộc tội sang bên người bị buộc tội. Ngay cả khi
nghi can nhận tội thì nguyên tắc này vẫn có hiệu lực đến khi bản án của tòa có hiệu lực.


Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi cơ quan buộc tội là cơ quan có nghĩa vụ chứng minh tội của
người bị buộc tội theo triết lý đã tồn tại từ thời cổ xưa “ai đưa ra lời buộc tội thì người đó phải
chứng minh”. BLTTHS rất tiến bộ khi quy định cơ quan buộc tội không chứng minh được tội
phạm của bị cáo thì đồng nghĩa với sự vô tội của bị cáo đã được chứng minh và tòa phải tuyên bị
cáo không có tội. Suy đoán vô tội được thừa nhận cho đến khi bản án kết tội của tòa có hiệu lực.
Nói một cách khác, chỉ có tòa là cơ quan duy nhất có quyền tuyên bị cáo là người có tội trong
bản án kết tội của mình.




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×