Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG CHO CÁC THỊ TRƯỜNG HÀNG HÓA CƠ BẢN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.21 KB, 36 trang )

HOÀN THIỆN THỂ CHẾ XÁC ĐỊNH GIÁ THEO CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG
CHO CÁC THỊ TRƯỜNG HÀNG HÓA CƠ BẢN


PGS. TS Ngô Trí Long

Giá cả là trung tâm, luôn là vấn đề nhạy cảm, phức tạp của nền
kinh tế. Giá cả trong nền kinh tế thị trường được mang nhiều tên gọi
khác nhau, đó là: Giá cả, cước, phí, lệ phí, tiền thuê, lãi suất, tỷ giá, học
phí...
Giá cả trong cơ chế thị trường là “đòn bẩy” kinh tế, có tính hai mặt:
tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực của giá cả được coi là một hệ thống
tín hiệu khách quan trên thị trường. Giá cả là những thông tin đáng tin
cậy để định hướng sản xuất, đầu tư; đồng thời để giám sát sản xuất, phát
hiện hiệu quả của sản xuất, cung cấp những thông tin có căn cứ chính
xác về hiệu quả sản xuất kinh doanh của từng mặt hàng; tác động làm
thay đổi cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư, tổ chức sắp xếp lại sản xuất
dưới sự kiểm soát của thị trường. Giá cả là lợi ích kinh tế, nên nó có
tác động mạnh đến việc đổi mới công nghệ, tiến bộ kỹ thuật, tăng năng
suất, hạ giá thành, khuyến khích sản xuất phát triển, góp phần tích cực
vào việc phân bổ nguồn lực của đất nước; phân phối và phân phối lại
sản phẩm trong nền kinh tế. Tuy nhiên, bản thân giá cả thị trường vốn
chứa đựng mâu thuẫn. Do tính tự phát điều tiết vốn có, giá thị trường có
thể khuyến khích sản xuất kinh doanh, thúc đẩy phát triển kinh tế nếu
có hệ thống giá hợp lý. Nhưng ngược lại, nếu hệ thống giá cả vận hành
không hợp lý cũng có thể dẫn đến suy thoái, khủng hoảng và thậm chí
phá hủy cả một hệ thống kinh tế. Bởi vì, nếu tự phát điều tiết nó có thể
phân bổ nguồn lực của nền kinh tế không đúng : Do giá cả quyết định
lợi nhuận, lợi nhuận sẽ đưa nhà sản xuất kinh doanh đến các khu vực
sản xuất các hàng hóa, dịch vụ người tiêu dùng cần nhiều hơn mà bỏ
369




qua những vấn đề về lợi ích công cộng của xã hội và cũng từ đó có thể
dẫn đến sản xuất, đầu tư trùng lắp, kém hiệu quả, đưa lại cơ cấu sản xuất
luôn thay đổi vì mục tiêu lợi nhuận. Trong phân phối và phân phối lại có
thể làm gia tăng sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội do tình trạng độc
quyền, cạnh tranh không lành mạnh…
Để phát huy những mặt tích cực, hạn chế tiêu cực của giá cả trong
nền kinh tế thị trường, Nhà nước cần tạo lập thể chế phân cấp xác định
giá cho các loại thị trường, phù hợp với sự hình thành giá của từng loại
thị trường trong nền kinh tế thị trường.
1. Thể chế xác định giá cả cho các thị trường hàng hóa nhìn từ
góc độ phân cấp định giá trong nền kinh tế thị trường
Lý thuyết về thể chế nói chung và thể chế kinh tế nói riêng rất
phong phú và được phát triển dựa trên nhiều tư tưởng nhiều học thuyết,
trải qua nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau và cho đến nay vẫn đang được
hoàn thiện. Thể chế kinh tế là hệ thống những quy phạm pháp luật nhằm
điều chỉnh các chủ thể kinh tế, các hành vi sản xuất kinh doanh và các
quan hệ kinh tế. Thể chế kinh tế bao gồm : các đạo luật, luật lệ, quy
định, quy tắc,... về kinh tế gắn với cơ chế vận hành nền kinh tế, các chế
tài xử lý vi phạm của các tổ chức kinh tế.
Trong một bài viết đầu năm 2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã
nói khá rõ và đầy đủ về thể chế chính trị và thể chế kinh tế ở Việt Nam
cũng như hướng cải cách các thể chế này nhằm tạo ra động lực tăng
trưởng nhanh và phát triển bền vững. Vấn đề nằm ở chỗ, làm sao phân
biệt được thể chế tốt và thể chế xấu. Ví dụ trong cơ chế kinh tế cũ - cơ
chế kế hoạch hóa tập trung, giá cả đều do Nhà nước định, làm mất đi
bản chất kinh tế của giá cả. Thể chế xác định giá cả đó là cơ chế giá tập
trung mệnh lệnh, cao độ hóa, hành chính hóa được tán dương, còn nhìn
dưới góc độ kinh tế thị trường là không phù hợp.

Phân cấp thể chế xác định giá cả các loại thị trường hàng hóa theo
cơ chế thị trường là một trong những cấu thành của phân cấp quản lý
nhà nước về kinh tế trong lĩnh vực giá cả. Đây là một vấn đề có nội
370


dung quan trọng quá trình quản lý nền kinh tế của mỗi quốc gia, đặc
biệt đối với VN là một nền kinh tế chuyển đổi. Công cuộc đổi mới ở VN
theo mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN được xây dựng và
thực thi chính là nhằm mục đích làm cho “thị trường” và “Nhà nước”
trở thành hai yếu tố bổ sung cho nhau, chứ không phải thay thế, loại
trừ nhau. Trong đó hướng tới mục tiêu xây dựng nền kinh tế phát triển
bền vững, đòi hỏi phải cải cách, tăng cường phân cấp quản lý giữa các
cấp chính quyền và giữa Nhà nước với thị trường.
Phân cấp là một thuật ngữ để chỉ sự phân định về các quyền và
trách nhiệm thực thi các nhiệm vụ theo cấp chính quyền và cấp hành
chính. Đối với các quốc gia đang trong tiến trình chuyển đổi mô hình
kinh tế, phân cấp còn chỉ rõ quyền hạn của Nhà nước và thị trường.
Thực chất phân cấp trong nền kinh tế thị trường chính là phân cấp về
thẩm quyền quyết định cái gì với phạm vi và mức độ đến đâu và bằng
điều kiện gì giữa Nhà nước và Thị trường.
Phân cấp thể chế xác định giá cả các loại thị trường theo cơ
chế thị trường là làm rõ sự phân định về quyền định giá giữa hai trụ
cột của nền kinh tế thị trường đó là Nhà nước (TƯ, Địa phương) và
Thị trường đối với từng loại thị trường (cạnh tranh; cạnh tranh-độc
quyền; độc quyền; độc quyền- cạnh tranh)
Nguyên tắc phân cấp về xác định giá cả đối với từng loại thị trường
không phải là quá trình phân chia quyền lực giữa Nhà nước (TW, địa
phương) và Thị trường, cũng không phải là phân chia lợi ích giữa Nhà
nước (TW, địa phương, giữa cấp trên và cấp dưới) và thị trường. Phân

cấp về thể chế xác định giá cho các loại thị trường đúng, sẽ phát huy tác
dụng của giá cả trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô, trước
hết là mục tiêu sản lượng và trong việc thực hiện công bằng xã hội. Khi
tiến hành phân cấp về thể chế xác định giá đối với từng loại thị trường,
nếu không giải quyết đuợc thỏa đáng lợi ích giữa Nhà nước - Doanh
nghiệp và Người tiêu dùng sẽ dẫn đến nguy cơ mất đi sự công bằng xã
hội, mất ổn định về chính trị, xã hội sẽ gây ra những rủi ro và hệ lụy
cho nền kinh tế.
371


Một trong những vấn đề cơ bản nhất của quá trình chuyển đổi nền
kinh tế từ kinh tế kế hoách hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường là
thay đổi vai trò, nhiệm vụ của Nhà nước trong phát triển kinh tế - xã
hội. Thực chất phân cấp thể chế xác định giá cả đối với từng loại thị
trường là phân cấp kinh tế (phân cấp thị trường). Cách tiếp cận khi phân
cấp này tập trung chủ yếu việc phân chia nhiệm vụ, chức năng của Nhà
nước (TW, Địa phương) và thị trường về xác định giá cả. Những loại
thị trường nào thì Nhà nước cần phải định giá và loại thị trường nào để
cho thị trường tự điều tiết và quyết định. Việc phân cấp này phải phù
hợp với sự hình thành và vận động của giá cả trên từng (loại) hình thái
thị trường, phù hợp với cơ chế thị trường.
Bản chất của kinh tế thị trường là kinh tế cạnh tranh. Trong quá
trình cạnh tranh, nẩy sinh độc quyền. Cạnh tranh và độc quyền là 2 nội
dung cơ bản, luôn tồn tại trong nền kinh tế thị trường. Do vậy, trong
nền kinh tế thị trường không phải chỉ có một loại thị trường cạnh
tranh mà có nhiều loại thị trường.
Việc phân loại thị trường có nhiều tiêu thức khác nhau : theo không
gian, theo đặc điểm và tính chất hàng hóa trong quá trình tái sản xuất.
Tuy nhiên, việc phân loại thị trường để nghiên cứu trong việc phân cấp

thể chế xác định giá cả đối với các loại thị trường là phân loại dựa theo
quan hệ cung - cầu trên thị trường. Bởi giá cả hình thành, phụ thuộc rất
lớn vào quan hệ cung cầu, song tuỳ theo từng (loại) hình thái thị tr­ường
mà việc hình thành của giá cả có những điểm khác nhau. Dựa trên quan
hệ cung - cầu thị trư­ờng để nghiên cứu sự hình thành của giá cả theo
từng dạng thị trư­ờng, dựa vào 2 tiêu thức sau để phân loại thị trường:
Một là, vị trí chiếm được của người bán (cung) và ng­ười mua (cầu) trên
thị tr­ường. Hai là, số l­ượng ng­ười bán (cung) và ng­ười mua (cầu) trên
thị tr­ường.
Từ hai tiêu thức đó, dựa vào sơ đồ sau chúng ta thấy trong nền kinh
tế thị trường có các loại thị trư­ờng sau:

372


Người bán
Ngư­ời mua
Một
Một số
Nhiều

Một

Một số

Độc quyền

Độc quyền mua không
hoàn hảo


bán

cạnh tranh

Nhiều

Độc quyền mua
(tay đôi)
Cạnh tranh - Độc quyền
Độc quyền bán không Độc quyền song phư­
hoàn hảo
ơng
(Cạnh tranh không hoàn hảo)
Độc quyền
Độc quyền
Cạnh tranh hoàn hảo
(thuần tuý)

Như vậy, trong nền kinh tế thị trư­ờng nếu xem xét chi tiết ở vị thế
chiếm lĩnh thị phần trên góc độ hình thành giá cả có tất cả 9 dạng (loại)
thị trư­ờng. Song trên thực tế các dạng thị trư­ờng phổ biến chiếm tỷ
trọng lớn và th­ường hay gặp có thể khái quát thành 3 dạng thị trường
cơ bản sau: Thị tr­ường cạnh tranh hoàn hảo; Thị trư­ờng độc quyền; Thị
trư­ờng vừa cạnh tranh vừa độc quyền (cạnh tranh và độc quyền). Chúng
ta sẽ xem xét sự hình thành giá cả của 03 loại thị tr­ường đã nêu ở trên.
1.1 Sự hình thành giá cả trên thị trư­ờng cạnh tranh hoàn hảo.
Thị tr­ường cạnh tranh hoàn hảo là thị trư­ờng không có một ngư­ời
sản xuất hay tiêu dùng nào chiếm một thị phần lớn trên thị trư­ờng để có
thể gây ảnh h­ưởng đến giá cả thị trư­ờng.
Đặc tr­ưng của thị tr­ường cạnh tranh hoàn hảo là:

- Số ngư­ời tham gia mua bán loại sản phẩm nào đó trên thị tr­ường
t­ương đối lớn. Do vậy, vị trí chiếm đ­ược của ngư­ời mua hoặc ngư­ời bán
chỉ chiếm thị phần nhỏ trong tổng cung, cầu hàng hoá đó và không có
ảnh hư­ởng đến giá mua bán;
- Hàng hoá mua, bán và phư­ơng thức phục vụ trên thị trư­ờng về cơ
bản là đồng nhất;
- Không có những hạn chế đối với l­ượng cung và lư­ợng cầu;
- Việc gia nhập hay rút lui khỏi thị trường là hoàn toàn tự do và dễ
dàng;

373


- Tất cả các cá nhân tham gia thị trư­ờng đều am hiểu về thị trư­ờng
và giá cả.
Trên thực tế hình thái thị tr­ường cạnh tranh hoàn hảo hầu như­tồn
tại không nhiều do thị trư­ờng hàng hoá và dịch vụ không đáp ứng đầy
đủ các đặc tr­ưng trên. Mặc dù vậy, nghiên cứu thị trư­ờng cạnh tranh
hoàn hảo cung cấp những khởi điểm đơn giản để có thể xem xét phân
tích trong một số hàng hoá - dịch vụ có tính cạnh tranh cao, chủ yếu là
hàng công nghiệp tiêu dùng.
Trên thị trư­ờng này, do mỗi cá nhân tham gia thị tr­ường chiếm một
thị phần nhỏ trong tổng cung (hoặc cầu), nên không có ảnh hư­ởng đến
giá cả hàng hoá. Giá cả hàng hoá và dịch vụ ở dạng thị tr­ường này do
thị trường quyết định. Ngư­ời sản xuất hay tiêu dùng các sản phẩm hàng
hoá và dịch vụ không thể mua (hay bán hàng) cao hay thấp hơn mức
giá thị tr­ường. Do vậy để tối đa hoá lợi nhuận, các doanh nghiệp phải
điều chỉnh lượng sản phẩm cung ứng ra thị trư­ờng sao cho tối ư­u nhất.
Để làm đư­ợc điều này, các doanh nghiệp phải phân tích thực trạng sản
xuất của chính bản thân và nhu cầu thị trư­ờng, xác định khối lư­ợng sản

phẩm sản xuất tối ư­u để đạt đư­ợc lợi nhuận tối đa.
Như­vậy, trên thị trư­ờng cạnh tranh hoàn hảo, giá cả do thị trường
quyết định. Giá cả hình thành đó là giá cả thị trường, các doanh nghiệp
sản xuất cũng như­người tiêu dùng hoàn toàn không thể quyết định giá
cả. Mặc dù, trên thực tế hầu như­không có loại hàng hoá và dịch vụ nào
đạt tới cạnh tranh hoàn hảo. Song, rất nhiều loại hàng hoá thuộc nhóm
này có tính cạnh tranh rất cao như­: hàng may mặc sẵn, giầy dép, hàng
gia dụng,... Các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng này không quyết
định đến giá cả thị trư­ờng. Bất kỳ sự tăng hay giảm sản lượng, sự gia
nhập hay rút lui khỏi thị trư­ờng của các doanh nghiệp trong thị trư­ờng
này đều không gây biến động lên xuống của giá cả thị tr­ường. Nhận
thức đúng vấn đề này, Nhà nư­ớc không nên can thiệp trực tiếp (định
giá) vào giá cả hàng hoá ở thị trường này, mà hoàn toàn để cho thị
trường quyết định. Việc áp đặt, quy định mức giá cho hàng hoá và dịch
374


vụ thuộc dạng thị trư­ờng này sẽ dẫn đến tính phi kinh tế trái quy luật
hình thành của giá cả và phi hiệu quả trong quản lý, điều hành sản xuất
và tiêu thụ hàng hoá.
Đặc điểm hình thành giá cả hàng hoá và dịch vụ trong dạng thị tr­
ường cạnh tranh hoàn hảo có vai trò tích cực trong việc kích thích các
doanh nghiệp cải tiến sản xuất, giảm giá thành, tăng sản l­ượng cung ứng,
đáp ứng ngày càng cao và đầy đủ hơn nhu cầu của con ngư­ời. Hơn nữa,
việc cạnh tranh trong dạng thị tr­ường này thúc đẩy sản xuất và xã hội
phát triển. Do vậy, cần có cơ chế, chính sách khuyến khích các doanh
nghiệp cạnh tranh trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ - loại
hàng liên quan trực tiếp đến đời sống và trình độ phát triển xã hội - rất có
ý nghĩa trong chiến lư­ợc phát triển sản xuất và kinh tế đất n­ước.
1.2. Sự hình thành giá cả trên thị tr­ường độc quyền

Thị tr­ường độc quyền là thị trư­ờng chỉ có một ngư­ời bán (hoặc một
ng­ười mua) hoặc một số ngư­ời bán (ngư­ời mua) đủ ít để cho hoạt động
của một ng­ười hoặc một số ng­ười ảnh hư­ởng đến tổng cung (hoặc tổng
cầu) và giá cả hàng hoá.
Đặc tr­ưng của dạng thị tr­ường này là:- Cá nhân ng­ười bán (hoặc
ngư­ời mua) chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cung (hoặc cầu) của thị trư­
ờng; - Ngư­ời bán (ngư­ời mua) có thể kiểm soát đư­ợc lượng cung (hoặc
cầu) trên thị trư­ờng;- Hoạt động của từng cá nhân có ảnh hư­ởng trực
tiếp đến giá cả. Chỉ có một số ít hàng hoá và dịch vụ thuộc dạng thị
trường này. Đó là loại hàng hoá và dịch vụ có vị trí độc quyền tự nhiên
và do cơ chế, chính sách của Chính phủ, ví dụ ở n­ước ta như : điện,
n­ước sạch... Do vị trí độc quyền, hầu hết các doanh nghiệp này là doanh
nghiệp lớn, có vị trí và vai trò quan trọng trong nền kinh tế.
Do là ngư­ời bán (mua) duy nhất hoặc chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
cung (cầu) hàng hoá, nên các doanh nghiệp độc quyền có ảnh hư­ởng
lớn đến thị trư­ờng
Giá cả trên thị tr­ường độc quyền đ­ược hình thành do nhà độc
quyền kiểm soát được cung (cầu), nên họ quyết định đư­ợc giá cả. Họ
375


có thể tăng giá bán hàng bằng cách giảm cung, tạo nên sự khan hiếm
hàng hoá.
Để duy trì đ­ược lợi nhuận độc quyền cao, họ luôn định giá cao hơn
chi phí sản xuất bình quân. Tuy nhiên mục đích của các nhà độc quyền
là tối đa hoá lợi nhuận, họ có thể kiểm soát được giá cả như­ng không thể
nâng giá lên vô hạn đ­ược. Chính vì vậy, để tối đa hoá lợi nhuận, doanh
nghiệp áp dụng lý thuyết cận biên (doanh thu biên bằng chi phí biên)
cho hoạt động sản xuất cũng như­ kiểm soát giá cả của mình. Nhà độc
quyền có thể áp dụng việc phân biệt giá theo đối tư­ợng sử dụng hoặc

nâng giá để có thể tối đa hoá lợi nhuận. Do ­vị thế về độc quyền nên
DN độc quyền có thể kiểm soát đ­ược giá cả, nhà độc quyền ít quan tâm
đến việc nâng cao hiệu quả sản xuất của mình như­ đổi mới công nghệ
sản xuất, hạ giá thành, cải tiến mẫu mã, chất l­ượng sản phẩm. Do vậy,
xét về phương diện xã hội, độc quyền là hiện tư­ợng kinh tế không hiệu
quả, gây trở ngại cho việc phát triển sản xuất xã hội và phư­ơng hại đến
ng­ười tiêu dùng.
Trong nền kinh tế thị trư­ờng, sự tồn tại độc quyền sẽ ảnh hư­ởng rất
lớn đến đời sống con ngư­ời. Ngày nay, thị trư­ờng hàng hoá - dịch vụ
trên thế giới hầu như­ ít tồn tại hình thái thị trường độc quyền, do tính
thay thế khá cao trong các loại hàng hoá và dịch vụ, đồng thời do sự
cạnh tranh của nền kinh tế thị trư­ờng và sự bảo vệ ngư­ời tiêu dùng trong
thị trư­ờng. Tuy nhiên, ở nước ta một số mặt hàng tiêu dùng và dịch vụ
vẫn bị độc quyền sản xuất như­: điện, nước sạch,... Mặc dù vậy, do nhận
thức đ­ược tính không hiệu quả trong việc các DN độc quyền định giá
các sản phẩm độc quyền, nên các Chính phủ đã có biện pháp kiểm soát
giá cả sản phẩm độc quyền.
1.3. Sự hình thành giá cả trên thị trư­ờng cạnh tranh - độc quyền
Thị trư­ờng cạnh tranh - độc quyền là thị tr­ường mà sản phẩm vừa
mang đặc trư­ng cạnh tranh vừa mang tính độc quyền . Đặc tr­ưng của thị
tr­ường này là ngư­ời bán và ng­ười mua chỉ chiếm một thị phần nhất định
trong tổng cung hoặc tổng cầu. Song, do hàng hoá và phư­ơng thức phục
376


vụ... có ít nhiều khác nhau, nên họ có những nét độc quyền nhất định
đối với hàng hoá của họ. Đây là dạng thị trư­ờng phổ biến đối với hàng
hoá và dịch vụ, cùng loại song có nhiều mẫu mã, nhãn hiệu khác nhau...
Ví dụ: cùng loại áo sơ mi, song của Trung Quốc khác với của Việt Nam
và của Thái Lan... và phương thức kinh doanh cũng khác nhau.

Cùng tồn tại song song với loại gần với thị trường này, đó là thị
trường độc quyền - cạnh tranh. Trên thị trường này độc quyền vẫn chi
phối chính (giữ vai trò thống lĩnh thị trường - độc quyền nhóm), tuy có
cạnh tranh, nhưng còn yếu. Ví dụ: Thị trường xăng dầu, hàng không,
viến thông ở nước ta hiện nay. Tuy có cạnh tranh, nhưng còn yếu, vẫn
còn có DN hoặc một số DN giữ vị trí thống lĩnh thị trường (độc quyền).
Đối với loại thị trường này, những DN có vị trí thống lĩnh thị trường có
vai trò rất quan trọng trong việc định giá sản phẩm.
Như­vậy, trong thị tr­ường cạnh tranh - độc quyền, giá cả hình thành
theo cơ chế điều chỉnh giá của thị trư­ờng. Đối với thị trường độc quyền
- cạnh tranh, độc quyền còn chi phối lớn, cạnh tranh yếu, các doanh
nghiệp giữ vị trí thống lĩnh thị trường có ảnh h­ưởng nhất định đối với
sự hình thành giá cả trên thị trường này. So với thị trư­ờng cạnh tranh
hoàn hảo, các doanh nghiệp giữ vị trí thống lĩnh trong thị tr­ường độc
quyền - cạnh tranh có khả năng điều chỉnh mức giá bán hàng hoá của
mình so với giá của các DN cùng loại, nhằm hướng thị trường theo giá
của mình. Tuy nhiên,việc tăng hay giảm giá này luôn có giới hạn.
Kinh nghiệm của nhiều nư­ớc cho thấy, nếu không kiểm soát giá
có mức độ (giới hạn) của các DN giữ vị trí thống lĩnh thị trường sẽ ảnh
hư­ởng lớn đến lợi ích nền kinh tế, đặc biệt đối với người tiêu dùng.
Chính vì thế việc kiểm soát giá cả đối với thị trường độc quyền - cạnh
tranh có ý nghĩa thiết thực trong việc kích thích sản xuất, bảo vệ ngư­ời
tiêu dùng.
Từ sự hình thành giá đối với từng loại thị trường khác nhau, có thể
rút ra những kết luận dưới góc độ phân cấp thể chế xác định giá cả các
loại thị trường trong nền kinh tế thị trường như sau:
377


- Đối với thị trường cạnh tranh, giá do thị trường quyết định. Nhà

nước chỉ can thiệp khi có biến động về giá bằng các biện pháp quản lý
giá gián tiếp.
- Đối với thị trường độc quyền, không để cho DN độc quyền định
giá sẽ gây thiệt hại cho nền kinh tế và người tiêu dùng. Nhà nước phải
kiểm soát giá ở chặt chẽ, bằng phương pháp định giá cụ thể của hàng
hóa dịch vụ độc quyền
- Đối với thị trường độc quyền - cạnh tranh, giá được hình thành
chủ yếu từ doanh nghiệp giữ vị trí thống lĩnh thị trường, Nhà nước phải
kiểm soát giá ở mức độ nhất định, tạo điều kiện để cho các DN có điều
kiện cạnh tranh về giá.
- Để thực hiện sự phân cấp về thể chế xác định giá đối với các
loại thị trường, bất kỳ Nhà nước nào trong nền kinh tế thị trường đều
sử dụng 2 hình thức: Quản lý giá trực tiếp và quản lý giá gián tiếp để
kiểm soát giá cả.
Quản lý giá trực tiếp (bằng định giá): Định giá có thể thực hiện
dưới dạng (Giá cụ thể; mức giá tối đa - giá trần; mức giá tối thiểu - giá
sàn; Khung giá; Trợ giá)
Đối với thị trường độc quyền, Nhà nước định mức giá cụ thể, ví dụ
như giá điện, giá nước sạch. Tùy theo mức độ quan trọng của từng loại
hàng hóa, có thể phân quyền Nhà nước Trung ương hoặc chính quyền
Địa phương định giá. Đối với thị trường vừa độc quyền vừa cạnh tranh
như thị trường xăng dầu, thị trường hàng không, cước viễn thông hiện
nay, tuy có cạnh tranh nhưng còn ít, độc quyền vẫn còn chi phối (Có DN
giữ vị trí thống lĩnh thị trường - độc quyền nhóm; Theo Luật cạnh tranh
quy định). Đối với loại thị trường này, nhà nước phải định mức giá tối
đa - giá trần. Còn DN độc quyền mua thi sử dụng mức giá tối thiểu - giá
sàn. Tuyệt đối không để cho DN gữi vị trí thống lĩnh thị trường định giá,
dù là biên độ và tần suất định giá có nhỏ đến đâu, DN cũng sẽ lợi dụng
biên độ nhỏ này để tăng giá, gây thiệt hại cho người tiêu dùng.
378



Đối 2 loại thị trường này, nếu để cho DN tự quyết định giá, lợi
dụng vị thế độc quyền hay vị trí thống lĩnh thị trường DN sẽ định giá
cao nhằm thu lợi nhuận độc quyền gây thiệt hại cho người tiêu dùng.
Nhà nước định giá không thể đi ngược lại quy luật cung cầu của
thị trường mà vẫn phải chịu sự chi phối của quy luật cung cầu. Giá của
nhà nước xác định đối với các sản phẩm độc quyền hoặc giữ vị trí thống
lĩnh thị trường phải sát với giá thị trường. Nghĩa là phải tính đúng, tính
đủ và hợp lý chi phí sản xuất cộng với một mức lợi nhuận hợp lý để
xác định giá của loại sản phẩm độc quyền hoặc giữ vị trí thống lĩnh thị
trường.
Trên thị trường cạnh tranh, giá cả hình thành trên thị trường này do
thị trường quyết định, không phải do người mua hoặc người bán quyết
định. Bởi vì, đặc điểm của thị trường cạnh tranh là có nhiều người mua
và nhiều người bán. Đối với thị trường này Nhà nước không định giá.
Trong thể chế phân cấp xác định giá phải tuân thủ. Nhà nước chỉ can
thiệp trên thị trường này, khi có sự biến động về giá, bằng các biện pháp
gián tiếp thông qua sự tác động đến cung cầu của loại hàng hóa đó.
Trợ giá là hình thức Nhà nước sử dụng các công cụ tài chính tín
dụng nhằm biến đổi mức giá theo tính toán của mình thông qua kênh
ưu đãi. Cũng giống như định giá, mục đích của trợ giá là giữ cho mức
giá cả của hàng hóa gần sát với mức giá thị trường. Trợ giá có thể đuợc
thực hiện bằng nhiều cách khác nhau, chẳng hạn như ưu đãi bằng thuế,
ưu đãi tín dụng hay trợ cấp tài chính trực tiếp. Ví dụ như trợ giá xe buýt
ở các thành phố lớn Hà Nội, Hồ Chí Minh.
Dùng thuế để điều tiết giá cả và giá cả thị trường là công cụ quan
trọng và phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, đây là công
việc rất khó, phải hết sức linh hoạt, đồng thời phải dùng các biện pháp
phụ khác.

Quản lý giá bằng các công cụ gián tiếp: Trong nền kinh tế thị
trường để khắc phục những khuyết tật của thị trường về giá, nhằm bình
ổn giá cả thị trường, Nhà nước thường thông qua hoạt động điều tiết
379


giá. Quản lý giá bằng các công cụ gián tiếp thường sử dụng trên thị
trường cạnh tranh, khi có sự biến động bất thường về giá. Đây là một
chức năng quan trọng cần phải được khẳng định và làm rõ trong thể chế
phân cấp xác định giá. Những công cụ chủ yếu để điều tiết giá bao gồm:
Chính sách tài chính, tiền tệ, thương mai, lập quỹ bình ổn giá, đăng ký
giá, kiểm soát các yếu tố hình thành giá, áp dụng các biện pháp hỗ trợ
giá theo đúng quy định của pháp luật và thông lệ quốc tế...
2. Thực trạng thể chế phân cấp xác định giá cả cho các thị
trường hàng hóa cơ bản ở nước ta
2.1. Thể chế hiện hành phân cấp xác định giá cho các thị trường
hàng hóa
Thực trạng thể chế phân cấp xác định giá cả cho các thị trường
hàng hóa ở nước ta đã được thể hiện trong các văn bản pháp quy. Ngày
26/4/2002, Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa X đã thông qua và ban
hành Pháp lệnh giá. Cùng với Pháp lệnh giá, một số luật, pháp lệnh có
những nội dung quy định về giá như: Luật Cạnh tranh, Luật Điện lực,
Luật Bưu chính, Luật Viễn thông, Luật Đất đai, Luật Dược, Luật Bảo
vệ và phát triển rừng, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh Bất động sản, Luật
Hàng không, Bộ Luật Hàng hải, Pháp lệnh Dự trữ quốc gia, Pháp lệnh
chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam và một số văn bản
pháp luật khác. Theo đó, đã hình thành được một hệ thống pháp luật để
điều chỉnh các hoạt động trong lĩnh vực giá.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện bên cạnh những những kết
quả đã đạt được, Pháp lệnh Giá đã có những tồn tại, bất cập dẫn đến

thiếu cơ chế cụ thể kiểm soát có hiệu quả tình trạng tăng giá bất hợp lý,
trái pháp luật. Thực trạng trên cho thấy cần thiết phải sửa và nâng Pháp
lệnh Giá lên thành Luật giá. Luật giá đã được Quốc hội khóa XIII kỳ
họp thứ ba thông qua ngày 20/6/2012 và có hiệu lực thi hành từ ngày
1/1/2013. Luật giá đã thể hiện việc phân cấp thể chế xác định giá đối
với các loại thị trường. Nhà nước chỉ định giá đối với những loại hàng
hóa dịch vụ mang tính độc quyền; Tài nguyên quan trọng; Hàng dự trữ
380


quốc gia; sản phẩm, dịch vụ công ích và dịch vụ sự nghiệp công sử dụng
ngân sách nhà nước. Bởi lẽ:
Đối với hàng hóa dịch vụ độc quyền thì nhất thiết Nhà nước phải
kiểm soát giá thông qua việc định giá. Các hình thức định giá (Mức giá
cụ thể; Khung giá; Mức giá tối đa, mức giá tối thiểu). Tùy mức độ độc
quyền của loại hàng hóa dịch vụ mà có các hình thức định giá phù hợp.
Đối với hàng hóa dịch vụ độc quyền cao, Nhà nước định mức giá cụ thể,
hoặc khung giá. Đối với hàng hóa dịch vụ độc quyền nhóm (giữ vị trí
thống lĩnh thị trường - mức độ độc quyền không lớn, tuy có cạnh tranh
nhưng mức độ cạnh tranh còn yếu) Nhà nước định giá trần- Mức giá tối
đa (đối với DN giữ vị trí thống lĩnh thị trường bán), định giá sàn - Mức
giá tối thiểu (đối với thị trường độc quyền mua). Sự phân cấp xác định
giá đối với các loại thị trường này được thể hiện tại điều 19 của Luật
Giá:
“Điều 19. Hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá
1. Nhà nước định giá đối với:
a) Hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nước sản xuất,
kinh doanh;
b) Tài nguyên quan trọng;
c) Hàng dự trữ quốc gia; sản phẩm, dịch vụ công ích và dịch vụ sự

nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước.
2. Các hình thức định giá:
a) Mức giá cụ thể;
b) Khung giá;
c) Mức giá tối đa, mức giá tối thiểu.
3. Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá được quy
định như sau:
a) Định mức giá cụ thể đối với:
- Các dịch vụ hàng không, bao gồm: dịch vụ cất cánh, hạ cánh; điều
hành bay đi, đến; hỗ trợ bảo đảm hoạt động bay; soi chiếu an ninh;
381


- Dịch vụ kết nối viễn thông;
- Điện: giá truyền tải điện; giá dịch vụ phụ trợ hệ thống điện;
b) Định khung giá đối với: giá phát điện; giá bán buôn điện; mức
giá bán lẻ điện bình quân; dịch vụ vận chuyển hàng không nội địa tuyến
độc quyền;
c) Định khung giá và mức giá cụ thể đối với:
- Đất, mặt nước, nước ngầm, rừng thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước làm đại diện chủ sở hữu và nước sạch sinh hoạt;
- Giá cho thuê, thuê mua nhà ở xã hội, nhà ở công vụ được xây
dựng chi từ nguồn ngân sách nhà nước; giá bán hoặc giá cho thuê nhà
ở thuộc sở hữu nhà nước;
Dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh và dịch vụ giáo dục, đào tạo tại cơ
sở khám bệnh, chữa bệnh, cơ sở giáo dục, đào tạo của Nhà nước;
d) Định giá tối đa hoặc giá tối thiểu đối với:
- Hàng dự trữ quốc gia theo quy định của pháp luật về dự trữ
quốc gia; hàng hóa, dịch vụ được Nhà nước đặt hàng, giao kế hoạch
sản xuất, kinh doanh; sản phẩm, dịch vụ công ích, dịch vụ sự nghiệp

công sử dụng ngân sách nhà nước, trừ dịch vụ được quy định tại điểm
c khoản 3 Điều này;
- Sản phẩm thuốc lá điếu sản xuất trong nước;
- Giá cho thuê đối với tài sản nhà nước là công trình kết cấu hạ
tầng.
4. Trường hợp cần thiết phải điều chỉnh Danh mục hàng hóa, dịch
vụ do Nhà nước định giá, Chính phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội
xem xét, quyết định”.
Ngoài những hàng hóa dịch vụ do Nhà nước định giá, còn lại tất cả
những hàng hóa dịch vụ trên thị trường cạnh tranh do thị trường định
giá. Thị trường định giá (giá thị trường), đó là giá phổ biến tại thời
điểm hoặc một thời kỳ trên một thị trường của một loại hàng hóa dịch
vụ nào đó. Như vậy, trên thị trường cạnh tranh, giá do người sản xuất
382


và tiêu dùng tự xác định phù hợp với giá phổ biến của loại hàng hóa
dịch vụ đó trên thị trường. Nhà nước hoàn toàn không định giá trên thị
trường này, mà tôn trọng quyền định giá của các chủ thể kinh doanh.
Thể chế xác định giá trên loại thị trường này, được thể hiện tại điểm 1,
điều 11 trong Luật Giá :
“Điều 11. Quyền của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh
1. Tự định giá hàng hóa, dịch vụ do mình sản xuất, kinh doanh,
trừ hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước
định giá”.
Những điều quy định trên trong Luật Giá cho thấy, Nhà nước thực
hiện quản lý giá theo cơ chế thị trường, tôn trọng quyền tự định giá,
cạnh tranh về giá của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh trên cơ sở
phù hợp với yêu cầu và sự vận động kinh tế khách quan của giá cả đối
với hầu hết các hệ thống giá trong nền kinh tế thị trường. Từ đó để tạo

ra cơ chế làm cho giá cả phát huy được những tác dụng tích cực của nó
đối với nền kinh tế như: Điều tiết, kích thích sản xuất phát triển; đổi
mới công nghệ, tiến bộ kỹ thuật; đổi mới quản lý, tăng năng suất, hạ
giá thành sản phẩm; phân bổ và sử dụng đạt hiệu quả tối ưu các nguồn
lực của nền kinh tế. Quy định cụ thể các quyền của doanh nghiệp trong
việc tự định giá, điều chỉnh giá, cạnh tranh về giá thông qua các phương
pháp định giá theo thời giá, đấu thầu, đấu giá, hiệp thương giá; hạ giá
bán hàng hóa dịch vụ mà không bị coi là vi phạm pháp luật về cạnh
tranh và pháp luật về chống bán phá giá hàng nhập khẩu.
2.2. Thực trạng việc xác định giá đối với các loại thị trường hàng
hóa cơ bản ở nước ta.
2.2.1. Cơ chế xác định giá điện
Hiện nay ngành điện vẫn ở thế độc quyền, đang vận hành theo mô
hình liên kết dọc truyền thống. Giá điện hiện nay đang thực hiện theo
Luật Điện lực sửa đổi, bổ sung được QH thông qua 20/11/2012. Có hiệu
lực 1/7/2013. Thể hiện tại Điều 29: Chính sách giá điện; Điều 30: Căn
cứ lập và điều chỉnh giá điện; Điều 31: Giá điện và các loại phí.
383


Giá bán lẻ điện do đơn vị bán lẻ điện xây dựng căn cứ khung giá
của mức giá bán lẻ điện bình quân, cơ chế điều chỉnh giá và cơ cấu biểu
giá bán lẻ điện do Thủ tướng Chính phủ quy định phù hợp với cấp độ
phát triển của thị trường điện lực.
Bộ Công thương chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng khung
giá của mức giá bán lẻ điện bình quân, cơ chế điều chỉnh giá và cơ cấu
biểu giá bán lẻ điện trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Việc điều chỉnh giá bán lẻ điện phải được thực hiện công khai,
minh bạch về sự biến đổi của các yếu tố cấu thành liên quan đến việc
điều chỉnh giá.

Khung giá phát điện, khung giá bán buôn điện, giá truyền tải điện,
giá dịch vụ phụ trợ hệ thống điện, phí điều độ vận hành hệthống điện
và phí điều hành giao dịch thị trường điện lực do đơn vị điện lực có liên
quan xây dựng; cơ quan điều tiết điện lực thẩm định trình Bộ trưởng
Bộ Công Thương, Bộ trưởng Bộ Tài chính phê duyệt theo sự phân công
của Chính phủ.
Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính hướng dẫn
phương pháp lập khung giá phát điện, khung giá bán buôn điện, giá
truyền tải điện, giá dịch vụ phụ trợ hệ thống điện, phí điều độ vận hành
hệthống điện và phí điều hành giao dịch thị trường điện lực.
Giá phát điện theo hợp đồng mua bán điện có thời hạn, giá bán
buôn điện do các đơn vị điện lực thỏa thuận nhưng không được vượt
quá khung giá phát điện, khung giá bán buôn điện đã được phê duyệt”.
Hiện tại, mức giá bán lẻ điện bình quân đang áp dụng là 1.508,85
đồng/ kWh. Mức giá bán lẻ điện bình quân các năm 2013-2015 (chưa
bao gồm thuế giá trị gia tăng) được điều chỉnh theo quy định tại Quyết
định số 69/2013/QĐ-TTg không thấp hơn mức giá tối thiểu là 1.437
đồng/kWh và không cao hơn mức giá tối đa là 1.835 đồng/kWh, tức có
thể tăng tối đa 21,6% so với giá điện đang áp dụng. So với các nước giá
điện của VN là thấp. Hệ thống biểu giá bán lẻ điện phân theo nhóm đối
tượng khách hàng: các ngành sản xuất;hành chính sự nghiệp;cho kinh
384


doanh; sinh hoạt,... Theo điện áp, theo giờ trong ngày. Từ năm 1992 nay giá điện ở VN dã điều chỉnh tăng trên chục lần. Từ năm 2009 đến
nay đã điều chỉnh nhiều lần. Biểu giá điện sau mỗi lần điều chỉnh tuy có
được cải thiện, song vẫn chưa đáp ứng đuợc 3 mục tiêu chủ yếu: Hiệu
quả kinh tế; Công bằng xã hội; khả thi tài chính
Thực hiện nhiệm vụ đảm bảo an sinh xã hội, kiềm chế lạm phát nên
EVN thời gian qua đã phải bán điện thấp hơn giá thành. Giá bán điện

thấp cũng là nguyên nhân khiến các nhà đầu tư trong, ngoài nước không
mặn mà dầu tư và vô hình dung khuyến khích công nghệ lạc hậu đang
phát triển. EVN đang có sự chòng chéo giữa phần kinh doanh và công
ích. Cách tính giá điện lũy tiến như hiện nay, chúng ta đang bao cấp cho
cả hộ nghèo lẫn hộ giầu và các nhà đầu tư nước ngoài. Những bất cập
của giá điện cũng nẩy sinh từ chính năng lực quản lý của EVN, do sức
ỳ lớn vì hoạt động quá lâu trong cơ chế cũ.
Về phương pháp xây dựng biểu giá điện hiện nay chủ yếu dựa trên
chi phí thống kê hạch toán giá thành của EVN (chưa đủ độ tin cậy), với
mục đich bù lỗ mà không tính đến nguyên nhân và các biện pháp giảm
chi phí, chưa áp dụng phương pháp phổ biến và hiện đại theo chi phí
biên dài hạn, chưa xây dựng biểu giá 2 thành phần: công suất và điện
năng, điều chỉnh giá điện mới chú ý đến làm tăng giá điện mà chưa
quan tâm đến giảm giá điện như mùa nước và việc tăng công suất các
nhà máy thuỷ điện, giảm tổn thất, giá thành...
Về giá điện hiện nay chứa đựng nhiều điều bất hợp lý. Phân phối là
khâu hiện nay rất ít nhà đầu tư quan tâm, bởi giá bán điện thấp, hơn nữa
28% sản lượng điện thương phẩm thực hiện trợ giá đối với người dân
ở nông thôn, hộ nghèo. Do khâu phân phối điện chưa mang đặc trưng
của thị trường.
2.2.2. Cơ chế xác định giá xăng dầu
Xăng dầu là yếu tố đầu vào của nhiều hoạt động sản xuất và tiêu
dùng xã hội, nên giá xăng dầu có ảnh hưởng trước hết và trực tiếp tới
chi phí sản xuất của hầu hết các ngành và hoạt động kinh tế, xã hội có
385


liên quan đến xăng dầu. Xăng dầu là mặt hàng vật tư thiết yếu và mang
tính chiến lược đối với sự phát triển của đất nước. Nước ta thực hiện độc
quyền của mình đối với xuất nhập khẩu xăng dầu thông qua quyền quản

lý trực tiếp xuất nhập khẩu của doanh nghiệp và quy định hạn ngạch
nhập khẩu. Trên cơ sở cân đối nhu cầu xăng dầu hàng năm của nền kinh
tế quốc dân, Nhà nước giao hạn ngạch nhập khẩu cho 19 doanh nghiệp
đầu mối;
Cơ chế xác định giá xăng dầu, chúng ta đang thực hiện theo Nghị
định 84/NĐ-CP về cơ chế định giá còn mang “lưỡng tính” hay “nửa
vời”, nghĩa là Nhà nước giao quyền cho doanh nghiệp định giá, nhưng
Nhà nước sẽ tham gia một phần trong việc điều chỉnh giá. Căn cứ theo
Nghị định 84/CP, không phải giao toàn quyền cho doanh nghiệp định
giá. Định giá xăng dầu sẽ được chia thành 3 bước: + Nếu giá nguyên
liệu đầu vào thay đổi 0-7% thì doanh nghiệp được quyền quyết định giá
xăng dầu; + Nếu giá nguyên liệu biến đổi 7-12% thì Nhà nước sẽ tham
gia một phần trong việc điều chỉnh giá; +Trong trường hợp giá nguyên
liệu tăng trên 12% thì Nhà nước tham gia định đoạt giá xăng dầu. Ngoài
ra, Nghị định 84 quy định, trong hoàn cảnh đặc biệt như xăng dầu biến
động làm ảnh hưởng đến toàn xã hội thì Nhà nước sẽ toàn quyền quyết
định việc điều chỉnh giá xăng dầu để bình ổn giá trong nền kinh tế.
Về cơ chế định giá đối với thị trường xăng dầu như vậy là không
phù hợp đối với loại thị trường độc quyền - cạnh tranh (độc quyền
nhóm). Bởi vì, trên thực tế hiện nay, thị trường xăng dầu tuy có cạnh
tranh nhưng còn yếu. vẫn còn DN Petrolimex (chiếm gần 50% thị phần)
cùng PVOil và Saigon Petro (chiếm khoảng 75%) hiện giữ vị trí thống
lĩnh thị trường. Cơ chế định giá xăng dầu như vậy đã gây thiệt hại cho
người tiêu dùng và tạo nên sự bức xúc của công luận.
2.2.3. Cơ chế định giá đất
Giá đất là một trong những nội dung quan trọng bậc nhất của Luật
Đất đai. Giải quyết được cơ chế định giá đất thì các quy định khác của
Luật Đất đai sẽ được xử lý dễ dàng và thuận lợi. Do vậy, các quy định
386



về cơ chế định giá đất cần được xây dựng cho phù hợp với cơ chế thị
trường định hướng XHCN và thông lệ quốc tế.
Việc xác định giá đất hiện nay được thực hiện theo một số điều
của Luật đất đai năm 2013, tại Mục 2 - Giá đất (điều 112;113;114;115
và 116) và Mục 3 - Đấu giá quyền sử dụng đất (điều 117; 118 và 119).
Chính phủ sẽ ban hành Nghị định hướng dẫn về thi hành Luật Đất đai
2013 và xây dựng hoàn thiện những Nghị định có liên quan đến giá đất
phù hợp với các điều đã được thể hiện trong Luật Đất đai 2013. Những
văn bản này cần khắc phục những bất cập về cơ chế định giá đất của
Luật đất đai 2013:
- Hiện chưa có có văn bản pháp luật quy định trình tự thủ tục của
việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định giá đất. Chính vì
vậy mà mỗi một địa phương cấp tỉnh lại có quy trình quyết định giá
riêng, nói chung khá khác nhau. Do vậy, theo cách làm này, thì nhiều
địa phương không thể định được giá đất phù hợp giá đất phổ biến trên
thị trường.
- Theo quy định của Luật Đất đai hiện hành, việc định giá đất phải
bảo đảm nguyên tắc “Phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường của
loại đất có cùng mục đích sử dụng đã chuyển nhượng, giá trúng đấu
giá quyền sử dụng đất đối với những nơi có đấu giá quyền sử dụng đất
hoặc thu nhập từ việc sử dụng đất”. Căn cứ vào đó, các địa phương công
bố bảng giá đất và lấy đó làm cơ sở để bồi thường cho người dân. Tuy
nhiên, trên thực tế mức giá này thường thấp hơn rất nhiều lần so với giá
mua bán, chuyển nhượng trên thực tế trên thị trường dẫn đến người dân
không đồng tình, khiếu kiện đòi quyền lợi.
Qua cuộc tham vấn cộng đồng góp ý Dự thảo Luật Đất đai (sửa
đổi) được Viện Nghiên cứu lập pháp - Văn phòng Quốc hội và Tổ chức
Oxfam tại Việt Nam thực hiện với sự tham gia của 1.300 người là nông
dân nghèo, đại diện các nhóm yếu thế khác như người dân tộc thiểu số,

phụ nữ… tại 22 xã thuộc 11 huyện của các tỉnh Hòa Bình, Yên Bái,
Quảng Bình và Long An. Một trong những nội dung đuợc nhiều người
387


dân quan tâm nhất là các quy định của pháp luật về định giá đất. Kết quả
cho thấy, giá để tính tiền bồi thường khi thu hồi đất đang là một trong
những chủ đề gây bức xúc trong dân và là nguyên nhân trực tiếp gây ra
những vụ khiếu kiện kéo dài, ngày càng gay gắt. Sự chênh lệch quá lớn
về giá đất trước và sau quy hoạch khiến người nông dân không đủ tiền
để mua đất. Hiện nông dân rất bất bình về việc giữa giá bồi thường thu
hồi đất do Nhà nước quy định và giá của nhà đầu tư sau khi thu hồi đất
bán lại chênh nhau rất lớn. Doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư ít nhưng bán giá
rất cao; còn nông dân đầu tư lớn để cải tạo đất đai thì thu được chẳng
bao nhiêu, rất thiệt thòi. Giá đất của Nhà nước quy định chưa theo sát
phổ biến trên thị trường, bảng công bố giá tại các địa phương chỉ bằng
30 - 60% giá thị trường. Mức giá cao nhất trong bảng giá đất của Hà
Nội và TP.HCM là 81 triệu đồng/m2 (cũng là mức tối đa trong khung
giá đất của Chính phủ) trong khi giá đất chuyển nhượng cao nhất thực tế
trên thị trường cao hơn 400 triệu đồng/m2, cá biệt có nơi hàng tỷ đồng/
m2. Chênh lệch “khủng” này dẫn đến khi áp dụng bảng giá đất để tính
toán nghĩa vụ tài chính về sử dụng đất đai đã gây thất thu cho ngân sách
nhà nước nhưng nếu khu dùng để tính toán giá bồi thường người bị thu
hồi đất lại không đồng ý, dẫn đến khiếu kiện và ảnh hưởng đến tiến độ
giải phóng mặt bằng. Con số gần 70% tổng số vụ khiếu nại, tố cáo liên
quan đến đất đai, trong đó chủ yếu là vướng mắc về giá đất. Trên thực
tế, hiện khung giá đất không theo kịp biến động của thị trường, đặc biệt
có nơi khung giá đất chỉ bằng 20% giá thị trường. Mặt khác, khung giá
đất chỉ quy định theo 3 vùng (đồng bằng, trung du, miền núi) nên biên
độ giữa giá đất tối đa và tối thiểu có khoảng cách lớn, từ 1,5 triệu đồng/

m2 đến 81 triệu đồng/m2 đối với đất ở tại đô thị loại đặc biệt. Do đó,
khung giá đất không xử lý được chênh lệch về giá đất tại các vùng giáp
ranh giữa các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, giữa các vùng
miền trong cả nước.
- Mặc dù luật đã có điều chỉnh quan trọng ở chỗ đề xuất giá đất bồi
thường do Nhà nước quy định theo mục đích sử dụng đất tại thời điểm
định giá, bảo đảm phù hợp với cơ chế thị trường. Tuy nhiên, đây mới
388


chỉ là quy định mang tính nguyên tắc. Hiện nay pháp luật VN trao thẩm
quyền quyết định về đất đai (giao đất, cho thuê đất) và quyết định giá
đất cho cùng một cơ quan nhà nước là UBND cấp tỉnh là nguyên nhân
chính làm cho giá đất được quyết định thiếu khách quan. Thực tế, việc
tập trung hai quyền năng nêu trên cho UBND cấp tỉnh như hiện nay dễ
dẫn đến lạm quyền hoặc làm nảy sinh tình trạng áp đặt ý muốn chủ quan
trong việc định giá đất. Điều này dễ dẫn tới khó kiểm soát việc thực
hiện thẩm quyền gắn với tư lợi.
- Trong nền kinh tế thị trường, định giá đất là một nghề được điều
chỉnh bằng hệ thống luật pháp về tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ kỹ
thuật, về đạo đức hành nghề . Chỉ có những người được đào tạo bài bản
đạt những tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức, mới được
cấp chứng chỉ hành nghề. Việc giao cho cơ quan hành chính định giá đất
là một cơ chế không phù hợp.
2.2.4. Cơ chế định giá đối với hàng hóa dịch vụ thuộc diện bình
ổn giá không nằm trong danh mục hàng hóa dịch vụ do Nhà nước
định giá
Bình ổn giá là một trong những nhiệm vụ quan trọng của chính
sách giá trong điều hành kinh tế vĩ mô, là một công cụ chủ yếu trong
chính sách điều tiết giá. Tại điều 15 của Luật giá đã chỉ rõ những tiêu

chí của những hàng hóa dịch vụ thuộc diện bình ổn giá và đã xác định
danh mục hàng hóa dịch vụ thuộc diện bình ổn giá. Đối với những mặt
hàng bình ổn giá không thuộc diện Nhà nước định giá, như giá Gas, giá
thuốc, giá sữa luôn bất ổn, gây bức xúc đối với người tiêu dùng. Giá của
những loại hàng hóa này luôn cao hơn so với giá thế giới và khu vực,
trong khi đó thu nhập của người dân còn thấp. Những bất cập về giá cả
của những mặt hàng này, nhà nước cần có những thể chế kiểm soát giá
như thế nào, để đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước - Doanh nghiệp
và người tiêu dùng.
3. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện thể chế xác định giá cả và
kiểm soát giá trên một số thị trường hàng hóa cơ bản
389


Từ những luận cứ khoa học về phân cấp xác định giá cho các loại
thị trường hàng hóa trong nền kinh tế thị trường, nhà nước đã thể chế hóa
việc phân cấp xác định giá giữa Nhà nước và thị trường bằng hệ thống
luật pháp. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện các văn bản dưới Luật
(nghị định, thông tư,...) còn những bất cập đã hạn chế những mặt tích
cực của giá cả, ảnh hướng tới sản xuất và lợi ích của người tiêu dùng.
Từ những tồn tại bất cập của thực trạng về phân cấp xác định giá
của các loại thị trường hàng hóa cơ bản của nước ta, xin đưa ra một
số khuyến nghị nhằm hoàn thiện thể chế xác định giá cho các loại thị
trường hàng hóa cơ bản :
3.1. Cần phân loại hàng hóa dịch vụ theo theo các hình thái thị
trường (cạnh tranh; cạnh tranh - độc quyền; độc quyền; độc quyền cạnh tranh) để hình thành thể chế phân cấp về xác định giá giữa Nhà
nước và Thị trường về cơ chế định giá cho từng loại thị trường hàng
hóa dịch vụ đang lưu thông trên thị trường.
Nếu hàng hóa dịch vụ của DN là sản phẩm độc quyền thì Nhà nước
phải định giá (mức giá cụ thể hay khung giá). Nếu hàng hóa dịch vụ

của DN độc quyền nhóm (độc quyền - cạnh trạnh) giữ vị trí thống lĩnh
thị trường thì Nhà nước phải định giá (mức giá tối đa - giá trần; mức
giá tối thiểu - giá sàn). Định giá là việc Nhà nước dùng công cụ hành
chính để tác động vào mức giá và hướng sự vận động của giá về phía
giá trị thị trường. Giá Nhà nước định phải sát với giá thị trường, không
thể đi ngược lại quy luật cung - cầu. Giá trị trường nhà nước định cũng
là một đại lượng luôn biến đổi, định giá không nên chỉ hiểu là định giá
cố định. Định giá có thể là định giá biến đổi, tức là khuôn giá cả theo sự
vận động của giá thị trường.
3.1.1. Về giá điện
Điện lực là ngành độc quyền, Nhà nước đã định mức giá cụ thể và
khung giá đối với từng loại sản phẩm điện lực. Từ nay cho đến sau năm
2022 khi có được thị trường bán lẻ điện cạnh tranh hoàn hảo ở nước ta,
cần thực hiện một số vấn đề sau:
390


- Nhà nước điều tiết và kiểm soát giá bán lẻ điện bằng các biện
pháp kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các quy định của pháp luật về giá
điện đối với các đơn vị điện lực.
- Để thực hiện giá bán điện thực hiện theo cơ chế thị trường có
sự điều tiết của Nhà nước giá điện cần điều chỉnh cho phù hợp với nền
kinh tế, giảm rủi ro cho doanh nghiệp sản xuất điện. Việc điều chỉnh
giá bán điện cần bảo đảm tính kịp thời so với sự biến động của các yếu
tố đầu vào hình thành giá. Các yếu tố đầu vào khi xem xét điều chỉnh
giá điện cần tính đến cả các yếu tố làm giảm giá điện như yếu tố mùa
và công suất, sản lương tăng thêm đối với nhà máy thuỷ điên, giảm tổn
thất hệ thống điện
- Về nguyên tắc, việc xây dựng và điều chỉnh giá điện cần dựa
vào những căn cứ các căn cứ thực tiễn và khoa học

- Giá điện nên được một đơn vị, tổ chức định giá độc lập, uy tín
định giá. EVN cũng nên công khai cơ chế tính giá, cùng một cam kết
cải cách ngành điện hợp lý nhất, tăng giá phải có lộ trình, từng bước và
gắn với tăng chất lượng điện. Đa dạng hóa các nguồn cung điện, tránh
lệ thuộc tối đa vào điện nhập khẩu, để chủ động bảo đảm an ninh năng
lượng quốc gia.
- Giải quyết sự chồng chéo giữa nhiệm vụ kinh doanh và công ích,
ngành điện đã đề xuất tách bạch hai phần trên. Nếu không tách được, thì
có thể dùng một quỹ công ích độc lập để bù đắp theo kênh riêng.
- Cần tách bạch các khâu trong quy trình sản xuất, tiêu thụ điện
mà ngành điện không cần thiết nắm giữ ra khỏi EVN, như nguồn, phân
phối, thậm chí điều độ. Ngay cả với khâu truyền tải, ngành điện có thể
chỉ nắm giữ phần điều hành, còn đầu tư nên xã hội hóa. Việc huy động
vốn được thực hiện thông qua đấu thầu cạnh tranh song hành với cổ
phần hóa.
- Việc tăng giá điện là điều khó tránh khỏi, thậm chí nên làm, vấn
đề quan trọng là cần thay đổi nhận thức về tăng giá điện và cách thức
tăng ra sao. Theo đó, nên tăng giá điện sản xuất trước tăng giá điện sinh
391


hoạt, nhằm loại thải dần thói quen tận dụng công nghệ cũ, tiêu tốn năng
lượng trong nhiều lĩnh vực, của không ít nhà đầu tư cả trong và ngoài
nước.
Trong ngắn hạn, việc tăng giá điện sẽ làm tăng lạm phát, giảm tăng
GDP, song về dài hạn, sẽ có lợi rất lớn cho nền kinh tế, sàng lọc và loại
thải những hiện tượng tăng trưởng “ảo”, sức cạnh tranh “ảo” núp bóng
giá điện thấp, coi trọng chất lượng thay vì số lượng tăng trưởng của nền
kinh tế. Nếu không xử lý tốt vấn đề này thì tốc độ tăng trưởng của điện
không bao giờ đáp ứng được tốc độ tăng trưởng GDP. Giá bán điện thấp

cũng không tạo ra sức ép buộc các nhà sản xuất thay đổi công nghệ lạc
hậu bằng công nghệ tiết kiệm điện, hiệu suất cao
3.1.2. Về giá xăng dầu
Thị trường xăng dầu hiện nay ở nước ta chưa có thị trường cạnh
tranh thực sự, vẫn là thị trường độc quyền nhóm, cạnh tranh còn yếu.
Điều này được thể hiện qua thị phần thị phần của Petrolimex; PVOil
và Saigon Petro. Do vậy, cơ chế định giá như Nghị định 84/NĐ-CP là
không phù hợp. Gây nhiều bức xúc cho xã hội. Qua nhiều lần dự thảo
sửa đổi NĐ 84, theo nhiều phương án khác nhau về cơ chế định giá
xăng dầu, nhưng vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Cho đến thời điểm
hiện nay NĐ 84 sửa đổi vẫn chưa ban hành và theo Bộ Công Thương sẽ
ban hành NĐ84 sửa đổi trong tháng 4.2014.
Theo quan điểm chúng tôi, đối với thị trường xăng dầu hiện nay ở
nước ta, tuy có cạnh tranh nhưng còn yếu, còn có DN giữ vị trí thống
lĩnh thị trường. Về cơ chế điều hành giá xăng dầu hiện nay, chúng tôi
đồng tình với việc quy định giá trần. Song, việc quy định gía trần với
tần suất bao nhiêu là hợp lý? Theo quan điểm của chúng tôi, hiện chúng
ta phải nhập 70% xăng dầu thế giới, giá thế giới lại luôn biến động, mục
tiêu điều hành giá xăng dầu trong nước phải liên thông, sát giá thế giới,
do vây tần suất quy định giá trần nên 10 ngày. Giá trần là giá cơ sở và
được tính như thế nào ? Được tính theo giá Platts Singapor (hoặc giá
công bố tại sàn giao dịch khác) của ngày cuối cùng của 10 ngày trước,
392


có tính tới dự báo giá trong 10 ngày tới. Chứ không phải tính giá bình
quân của 10 ngày trước đó. Vì giá xăng dầu trong 10 ngày tới không thể
là giá bình quân của 10 ngày trước đó, giá xăng dầu không theo quy luật
như vậy. Muốn vậy, đòi hỏi cơ quan chức năng phải có đội ngũ cán bộ
có đủ trình độ, năng lực thực tiễn trong hoạt động kinh doanh xăng dầu

để có khả năng dự báo được xu hướng tăng, giảm về giá xăng dầu. Trên
cơ sở giá trần Liên bộ Tài Chính - Công Thương công bố, các thương
nhân đầu mối có quyền tăng giảm giá nhưng không vượt quá giá trần.
Trong quá trình thực hiện, nếu giá cơ sở có sự cách biệt với giá bán lẻ
hiện hành, thì Liên bộ quyết định sử dụng các biện pháp để bình ổn theo
pháp luật
Về giá cơ sở, dự thảo đã sửa đổi, bổ sung đầy đủ và sắp xếp lại thứ
tự một số yếu tố trong cấu thành giá cho phù hợp. Tỷ giá ngoại tệ nên
là tỷ giá liên ngân hàng bình quân theo số ngày dự trữ lưu thông là phù
hợp. Theo chúng tôi cần tách bạch giữa giá vốn cơ sở và lợi nhuận định
mức, nên bổ sung khái niệm giá vốn cơ sở; trong đó Giá cơ sở = Giá vốn
cơ sở + lợi nhuận định mức; để đưa lợi nhuận định mức ra ngoài giá cơ
sở. Cách làm này để minh bạch tình hình lỗ lãi của các doanh nghiệp
kinh doanh xăng dầu. Tuy nhiên, hiện nay về cơ cấu giá cơ sở vẫn còn
những quan điểm khác nhau.
Về định mức chi phí kinh doanh, thù lao hoa hồng đại lý, Bộ Tài
chính dự kiến sửa đổi, bổ sung Thông tư 234/2009/TT-BTC theo hướng
điều chỉnh mức chi phí kinh doanh định mức, đồng thời khống chế mức
thù lao dành cho tổng đại lý, đại lý không vượt quá chi phí kinh doanh
định mức. Cụ thể, chi phí bán lẻ bình quân ở các địa bàn gần cảng nhập
khẩu và gần nhà máy chế biến xăng, dầu ở trong nước của các thương
nhân đầu mối đối với xăng, dầu diezel, dầu hỏa sẽ có mức tối đa là 860
đồng/lít (quy định hiện nay là 600 đồng/lít). Đối với các địa bàn khác
với quy định trên tối đa bằng 860 đồng/lít cộng với tối đa 2% mức giá
bán lẻ xăng, dầu diezel, dầu hỏa ở trong nước. Như vậy, với cách tính
này chi phí kinh doanh định mức được nâng lên, doanh nghiệp nhập
khẩu đầu mối sẽ có lợi hơn.
393



×